Đánh Tây Âu bắt Dịch Hu Tống Rể Lạc Ấp diệt quốc Đông Chu.
Thiên hạ của nhà Thục khởi từ Thục chủ Âu Cơ, lập bởi Thục Phán Hùng Quốc Vương, chia đất nước làm 15 bộ, phân trăm anh em cùng bọc đồng bào ra trấn giữ trăm nơi đầu núi góc biển làm phiên dậu bình phong, quan lang thổ tù phụ đạo, phò trợ Thiên tử giữ một Thiên hạ an bình. Nước Văn Lang trải qua thời kỳ Tây Thục đô đóng ở đất Âu – Ai Lao, Đông Thục xây thành tại Lạc ấp. Huyền Thiên Lão Tử cưỡi trâu đề cao Đại Đạo. Vạn thế sư biểu Khổng Tử đúc kết Ngũ Kinh. Cửu đỉnh từ thời Kinh Dương Vương là bảo vật truyền quốc đặt ở thế miếu nhà Thục, tượng trưng cho quyền lực vô song của Thiên tử với Thiên hạ họ Hùng. 800 năm vương triều Thục truyền đến Chu Noãn Vương.
Bấy giờ gặp hội cường Tần Tằm ăn lá Bắc toan lần cành Nam.
Tần quốc do họ Triệu thế tập, vốn là một công hầu của vua Thục được phong ở vùng Tây Bắc là đất Xuyên Thục (Tứ Xuyên). Thời Triệu Cừ Lương nhờ có biến pháp của Thương Ưởng, Tần đã trở thành quốc gia hùng mạnh nhất thời loạn các sứ quân.
Dưới thời Triệu Tứ, nước Tần bỏ tước Công mà xưng Vương. Huệ Văn Vương xua quân chiếm đất Ba Thục, tức đất gốc của Bá Thục Cơ Xương ở Quý Châu. Con của Triệu Tứ là Triệu Đảng nối ngôi cha, tự xưng là Vũ Vương, vào kinh đô Cảo của Tây Thục ở Vân Nam mà “hỏi thăm” Cửu đỉnh. Nhưng thời vận của nhà Tần chưa đến lúc, Triệu Đảng bị đỉnh rơi gãy chân, rồi chết sau mới có 4 năm tại vị.
Triệu Tắc lên tân chính thay anh trai, tiếp tục ý đồ vương nghiệp. Chiêu Tương Vương chiếm vùng đất Tây Âu của nhà Thục ở Vân Nam, bắt được quân trưởng Tây Âu là Dịch Hậu Tông, tức vị vua dòng dõi cuối cùng từ Dịch Vương Lang Liêu là Chu Noãn Vương. Sử Việt gọi Chu Noãn Vương là Hùng Nghị Vương.
Nước Văn Lang còn lại phần đất phía Đông là Lạc Ấp ở Cổ Loa do Đông Chu Quân nắm giữ. Là con của Thục chủ Ai Lao (Tây Chu) nên Đông Chu Quân cũng được gọi là An Dương Vương.
Tần Chiêu Tương Vương Triệu Tắc tiếp tục lập mưu, cho cháu trai của mình là Trọng Thủy sang làm con tin ở Lạc Dương, lấy một công chúa của Đông Chu An Dương Vương là Mỵ Châu. Trọng Thủy sau đó về nước kế vị, là Tần Trang Tương Vương. Nhờ thông thạo đất Âu Lạc từ khi còn ở rể tại Lạc Ấp, Trang Tương Vương tiến quân chiếm nốt đất Đông Chu, đuổi Đông Chu Quân chạy ra biển, cầm sừng văn tê bảy tấc đi gặp thần Kim Quy bên bờ Đông Hải. Quý tộc của nhà Thục được Trang Tương Vương cho an trí ở thành Châu Sa, nay thuộc Quảng Ngãi.
Nhà Thục từ Âu Cơ – Thục Phán kết thúc. Nhưng vì dòng họ Triệu Tần vốn cũng là con cháu công hầu của nhà Thục, lại bắt đầu từ phía Tây, từ đất Xuyên Thục (Tứ Xuyên), chiếm Ba Thục (Quý Châu) rồi Tây Âu (Vân Nam) và Lạc Dương (Lạc Việt) nên Tần Vương cũng đã được gọi là Thục An Dương Vương. Tới khi đứa con của 2 dòng Thục giữa Trọng Thủy và Mỵ Châu là Triệu Chính lên ngôi, dẹp loạn các sứ quân, chấm dứt cục diện 9 chúa tranh vua, xưng là Tần Thủy Hoàng Đế, dời kinh đô về giữa đất 2 nhà Thục. Thiên hạ họ Hùng bước sang thời kỳ quốc gia thống nhất, lập chế độ quận huyện, quân chủ tập quyền.
Chiêu lăng tùng bách kim hà xứ Thục quốc sơn hà tự cố cung.
Nghi môn đền Thượng Cổ Loa
Tượng An Dương Vương ở đình Xuân Ái, Nghệ An
Đền Cuông, nơi thờ An Dương Vương về biển ở Diễn Châu, Nghệ An
Đền Vĩ, Cao Viên, Thanh Oai, Hà Nội thờ Vũ Chiêu Tâm, tướng chống Tần
Các ngọc giản có chữ Tín lễ Tần Vương chi chủ
Mặt trống đồng có chữ triện thời Tần
Đức Thánh Chèm Lý Thân và Bạch Tĩnh Công chúa, con gái Tần Thủy Hoàng
Tượng Mỵ Châu thờ trong đền tại Cổ Loa
Ban Tứ trụ triều đình An Dương Vương ở đền Thượng Cổ Loa
Nghi môn nội đền Thượng Cổ Loa
Đình làng Đình Vĩ, Gia Lâm, Hà Nội, thờ Quý Minh Trọng Thủy
Nội điện đình Hương Triện, Gia Bình, Bắc Ninh, quê ngoại của An Dương Vương
Rước kiệu trong lễ hội đình Chèm, Từ Liêm, Hà Nội
Kim Quy trong đình Thư Cưu, Đông Anh, Hà Nội
Tượng An Dương Vương bằng đồng trong đền Thượng Cổ Loa, bảo vật quốc gia
Trống đồng dạng Tần Thục
Những chiếc kiếm Thục trong bảo tàng Hoàng Long, Thanh Hóa
Khuyên bạo quân Huyền Thiên cầu Thất Diệu Cứu nhân thế Khổng Tử soạn Thư Kinh.
Từ khi Khương Thái Công câu cá bên bến Việt Trì, Thục Phán dời đô về Cảo kinh đất Âu, Thục triều trải qua mấy trăm năm, truyền đến đời Chu U Vương. U Vương bản tính quái dị, sủng ái người đẹp Bao Tự. Để mua tiếng cười của mỹ nhân, U Vương đã cho nổi lửa Ly Sơn, kinh động các nước chư hầu anh em mà làm trò vui. Đánh mất đạo trời, không bao lâu sau Cảo kinh bị Khuyển Nhung tấn công. U Vương phải bỏ kinh thành mà chạy trốn. Hùng Tạo Vương nối ngôi buộc phải dời kinh đô về đất Lạc. Từ đó, thế vận nhà Thục đã suy, chư hầu tự nổi lên xưng hùng xưng bá thiên hạ.
Huyền Thiên Trấn Vũ vốn là một vu sư, quê ở đất Kim Bảng (Hà Nam), làm quan thủ thư của nhà Thục ở Lạc Ấp. Trước cảnh U Vương bạo ngược, lại thêm khi dời đô vùng Tam Giang gặp cảnh động đất liên tục. Thành Lạc Dương cứ xây lại đổ. Huyền Thiên nhân đó bèn lập đàn trên núi Võ Đang ở Cổ Loa, tế cầu trời đất.
Trên núi Thất Diệu, sau khi đăng đàn tế lễ, Thục An Dương Vương đã đào được các chiêng trống, xương cốt cổ, vốn là di tích của cuộc chiến Hùng – Thục dưới thời Vũ Vương và Thánh Gióng diệt Trụ. Huyền Thiên Lão Tử dựa vào đó đã bày chuyện yêu quỷ Ma Lôi, Bạch Kê là hậu duệ của Hùng Duệ Vương phá hại, nhằm mục đích khuyên răn Thục U Vương.
Huyền Thiên Lão Tử còn giảng đạo ở Lạc Dương. Trước khi ra đi, ngài đã ghi những điểm cốt yếu trong học thuyết của mình trong cuốn Đạo Đức kinh và để lại cho quan lệnh doãn Kim Quy làm báu vật thấu suốt nhân gian. Học thuyết “móng rùa” của tiên nhân Huyền Thiên truyền lại cho Thục An Dương Vương, góp phần củng cố Thục triều kéo dài thêm hơn 400 năm nữa.
Đông Chu phong vũ thị hà thì, biệt bả thanh hư khai Đạo Giáo Nam Việt sơn hà duy thử địa, độc truyền ảo hóa tác thần tiên.
Nối tiếp tư tưởng Đại Đạo của Lão Tử, một triết gia khác đến từ nước Lào là tên là Trọng Ni. Ông đi bôn ba khắp các nước chư hầu để giảng về Lễ, nhưng không được trọng dụng. Cuối cùng ông quay về quê hương bên dòng sông Lam, mở trường thu nhận đệ tử, soạn kinh san định lại lịch sử, văn hóa, tín ngưỡng, âm nhạc của thời Văn Lang, viết bằng chữ Khoa đẩu. Điển chế lễ nhạc từ Cao Lỗ Vương, Kinh Dịch âm dương bánh chưng bánh dày từ Lang Liêu, lịch sử Xuân Thu chép đến đời Lỗ Ai Công thì dừng bút, phong dao của những bậc tiền hiền như Chu Công, Thiệu Công cùng với lời hay ý đẹp trong dân gian đã được Khổng Tử biên chép, tuyển soạn. Nền tảng của Nho Đạo được xây dựng, đúc kết tinh hoa văn hóa Hùng Thục từ quốc tổ Hùng Vương mà truyền cho vạn thế.
Sở bang lộc mộng địa chung linh, vạn niên tiên chủ Lỗ ấp lân thư thiên thụy biểu, thiên tải tố vương.
Tượng Lão Tử ở chùa Bổ Đà, Bắc Giang
Tượng Khổng Tử ở chùa Bổ Đà, Bắc Giang
Đình Võ Liệt ở Thanh Chương, Nghệ An, từng là nơi thờ Khổng Tử
Cửa võng đình Thổ Hà, Việt Yên, Bắc Giang
Ngai vị Thiên Tôn ở đền Đa Giá, Ninh Bình
Hoành phi “Đại Thành miếu” đình Trung Cần, Nam Đàn, Nghệ An
Huyền Thiên Trấn Vũ, tranh thờ người Dao ở Yên Bái
Huyền Thiên Trấn Vũ ở chùa Cầu, Hội An
Huyền Thiên Đại Thánh ở đền Huyền Kỳ, Quỳnh Lưu, Nghệ An
Múa nam nữ đồng tử trong lễ hội Thổ Hà, Bắc Giang
Thái Thanh Đạo Đức Thiên Tôn và Chu Lăng Độ mạng trên tranh thờ của người Dao
Tượng Khổng Tử ở văn chỉ Minh Hương, Hội An
Văn Thánh miếu ở Hội An
Đình Thượng Lực Giá, Thiên Tôn, Ninh Bình
Đình Tri Lễ, Thạch Hà, Hà Tĩnh, nơi thờ Khổng Tử là thành hoàng.
Đình Thượng Nguyên, Thạch Hà, Hà Tĩnh, nơi thờ Khổng Tử là thành hoàng
Tam Thanh ở chùa Thiên Tôn, Ninh Bình
Diệu Thiện Quan Âm ở chùa Thiên Tôn, Ninh Bình
Trang Vương ở chùa Thiên Tôn, Ninh Bình
Tam Đa, Song Đồng Ngọc Nữ trong lễ hội Thổ Hà
Trâu xanh ở đình Giáp Nhị, Thịnh Liệt, Hà Nội
Huyền Thiên Trấn Vũ ở động Thiên Tôn, Ninh Bình
Ngũ môn đền Sái trên núi Võ Đang ở Đông Anh
Ngọc hư cung khuyết trong đền Huyền Thiên ở Hàng Khoai, Hà Nội
Trăm anh em phân bình thiên hạ Một Dịch kinh đúc kết trống đồng
Sau cuộc Phong thần ở núi Vệ Linh, Thái Công Khương Thượng trở về đất phong của mình là nước Tề, ở vùng ven Biển Hồ. Cơ Phát lên ngôi xưng Thiên tử và dời lại kinh đô về đất Cảo ở Ai Lao (Âu – Vân Nam). Đất Âu với Cảo kinh là vùng phía Tây Văn Lang. Đất Lạc trở thành vùng đất phía Đông của nước Văn Lang.
Các đại công thần lập quốc khác cùng đều được phân phong tương ứng theo công trạng. 2 đại thần lớn nhất lúc này là Chu Công Đán và Thiệu Công Thích.
Chu Công Đán là một trong trăm người em của Hùng Quốc Vương Cơ Phát. Ông được phong ở đất Lào (Lỗ) nhưng không về nước mà ở lại triều đình. Võ Vương mất, con trai lên ngôi là Chu Thành Vương, thì Cơ Đán được giữ chức Thái bảo, còn gọi là Lỗ quốc Thái sư, tức thần Cao Lỗ.
Cao Lỗ dùng chiếc “móng rùa” Dịch lý mà chế thành trấn bảo của nước Văn Lang là trống đồng. Ông là người đã phát triển Dịch học từ thời Lang Liêu Văn Vương, đặt ra các lời hào cho 64 quẻ của Kinh Dịch. Cũng Chu Công là người đã lập nên khu vực Lạc thành ở Đông Ngàn Cổ Loa, làm nơi an trí đám ngoan dân dòng dõi nhà Ân tại đây.
Lỗ quốc lúc này bao gồm vùng đất hai bên bờ sông Mã, mà trung tâm của nó là vùng Thanh Hóa. Cao Lỗ được thờ ở đây dưới tên Đồng Cổ Sơn thần, nghĩa là vị thần tổ trống đồng (Sơn = tổ). Vùng đất trống đồng Đông Sơn chính là nước Lỗ của Chu Công.
Người anh em cùng bọc khác là Thiệu Công Thích, được phong ở đất Yên. Nước Yên nay ở quãng miền Trung Việt. Cũng như Chu Công Đán, Cơ Thích ở lại trong triều phụ giúp Chu Thành Vương, dẹp phản loạn. Ông làm đến chức Thái phó trong Thục triều. Nói về ông có điển tích cây “Cam đường bất phạt” lấy từ Kinh Thư thiên Thiệu Cáo, khi Thiệu Công dùng đạo trời khuyên vua hãy nhân từ mà tha cho dân đất Lạc (tức hậu duệ của Hùng Vương được an trí tại đây).
Thời Thành Vương nước Việt Thường, là con cháu nhà Hạ Trung hưng ở vùng cửa sông Dương Tử cử sứ giả qua ba lần thông dịch vào Cảo kinh cống Chim trĩ trắng, chính thức gia nhập vào thiên hạ của nhà Chu. Chu Công ban cho sứ giả Việt Thường cỗ xe chỉ Nam dẫn đường. Sứ giả Việt Thường đi dọc sông Mê Kông qua các nước Tề (Phù Nam), Lỗ (Lâm Ấp) rồi men theo bờ biển Đông mà về nước.
Người anh em khác trong bọc trăm trứng của Hùng Quốc Vương là Cơ Cao. Khi Hùng Quốc Vương phạt Đế Tân, Cơ Cao cầm búa nhỏ, Cơ Đán cầm búa lớn đi hộ vệ. Sau này Cơ Cao tiếp quản việc cai trị ở Lạc Ấp và có công ổn định được đám ngoan dân tại đây. Vì thế nên ông được phong là Tất Công (tất trong hoàn tất, lấy ý của thiên Tất Mệnh trong Kinh Thư). Cơ Cao là tổ của Phan tộc, đất phong ở Phù Nam. Ngày nay ông được thờ ở vùng Thị Cấm Xuân Canh tại Hà Nội với tên Phan Tây Nhạc.
Trăm anh em của cùng một mẹ Âu Cơ đã chia nhau nơi đầu núi góc biển, an định Thiên hạ, đồng tôn Hùng Quốc Vương là Thiên tử. Chế độ phong kiến thị tộc phân quyền chính thức được khởi đầu. Các dòng họ người Việt cha truyền con nối cũng bắt đầu từ đó.
Ngôi vị thiên tử nhà Chu truyền được mấy đời, tới Chu Mục Vương cưỡi xe bát mã lên núi Côn Lôn tìm cung điện của Hoàng Đế và gặp được Tây Vương Mẫu. Đó là chuyện Lang Liêu cầu tiên ở núi Tam Đảo và kết duyên với nàng Lăng Thị Tiêu, thần núi ở Tây Thiên.
Nếp gấp phân phong, lễ nhạc của nước Văn Lang đã định hình văn hóa xã hội Việt, mãi đi vào chính sử nước nhà với tên Văn Lang – Âu Lạc của các vị vua Hùng, vua Thục.
Sổ thiên niên vương tá thủy chung, phụ tử quân thần khai chửng điểm Thập ngũ bộ thiên phân thảo dã, sơn hà nhật nguyệt cộng trường tồn.
Tranh sứ tế lễ thời Hùng Vương ở Bảo tàng đền Hùng, Phú Thọ.
Cung thờ Cao Lỗ ở Cao Đức, Bắc Ninh.
Đền thờ Cao Lỗ trong cụm di tích Thành Cổ Loa
Đền Đồng Cổ ở Đan Nê, Thanh Hóa
Núi Đồng Cổ ở Đan Nê, Thanh Hóa
Mặt trống đồng Gia Phú, bảo vật quốc gia ở Lào Cai
Mặt trống đồng Pha Long, bảo vật quốc gia ở Lào Cai.
Đền Cao Lỗ ở Hoằng Hóa, Thanh Hóa
Nội điện đình Nghi Tàm, Hà Nội thờ Lỗ quốc Thái sư
Đền Trần Đăng, Ứng Hòa thờ Cao Lỗ
Trống đồng
Đình Tri Cẩn thờ Cao Lỗ ở Thiệu Hóa, Thanh Hóa
Bình đồng với bài minh văn nhắc tới tên của 10 vị vua thời Tây Chu
Cự thạch Thạch Bàn trên đỉnh Phù Nghi, Tam Đảo
Đình Dữu Lâu, Việt Trì, nơi từng có phủ Lang Liêu
Đình Hòe Thị ở Xuân Phương, Hà Nội thờ Phan Tây Nhạc
Thi nấu cơm trong lễ hội làng Thị Cấm, Xuân Phương, Hà Nội tưởng nhớ Phan Tây Nhạc (ảnh Nguyễn Vinh Việt)
Sưu tầm đồ đồng Đông Sơn ở nhà nghệ nhân họ Thiệu tại Thiệu Hóa, Thanh Hóa
Bến Việt Trì Thái Công câu cá Núi Vệ Linh Thánh Gióng phong thần.
Thục Vương Cơ Xương là người ở vùng đất Âu, đánh bại Lạc hầu Sùng Lãm, dời đô từ đất Âu về đất Lạc, dựng nước Âu Lạc, lập kinh thành Phong Châu. Sử Việt gọi Cơ Xương là Âu Cơ. Mặc dù Âu Cơ Xương đã chiếm được 2 vùng Tây và Bắc (Nam nay) của thiên hạ, nhưng đe dọa từ Hùng Duệ Vương Đế Tân vẫn không ngừng tăng lên.
Lo lắng trước vận nước khó khăn, một hôm Âu Cơ đi dạo ngoài thành Phong Châu, cạnh chùa Hoa Long ở bến Việt Trì. Chợt thấy một lão ông tuổi ngoài 80, cầm một cây cần trúc đứng trên bàn thạch bên bến sông Việt Trì, dáng vẻ ung dung, có cốt cách của thần tiên. Âu Cơ lấy làm lạ tiến đến hỏi chuyện, thì thấy quả đúng đây là người hiền tài hiếm có, có thể phò tá gây dựng vương nghiệp thiên thu. Cơ Xương bèn phong cho ông lão làm Thái Công, giao phó hết trọng trách trong nước cho Lã Vọng.
Một ngày đẹp trời Cơ Xương về bên đất Hiền Lương ở Hạ Hòa, Phú Thọ mà hóa về trời. Con trai Cơ Xương là Cơ Phát hay Thục Phán lên nối tiếp sự nghiệp, tôn phong cho cha mình là Văn Lang (Văn Vương). Lập đền thờ ở xã Hiền Lương (Hiền vương), ngàn năm hương hỏa không cùng.
Cơ Phát khi chưa kế vị có tên là Ninh Vương. Người Việt thờ ông là Hùng Linh Công ở vùng Việt Yên (Bắc Giang). Cũng từ tên gọi này mà vùng Bắc Ninh xưa được gọi là Vũ Ninh, chỉ Ninh Vương Cơ Phát. Khương Thái Công được sự cầu hiền của Văn Vương, dốc lòng phò trợ Cơ Phát, phát loa gọi khắp bốn phương tám hướng, chiêu hiền tuyển tướng, kết tập chư hầu, hẹn ngày phạt Trụ. Sứ giả đi đến làng Phù Đổng ở Vũ Ninh thì gặp được thiên thần giáng thế trong một cậu bé 3 tuổi làng Gióng, vươn vai phút chốc đã thành một đại tướng. Thái Công lấy Na Tra làm tướng tiên phong, gấp rút chuẩn bị quân đội đối phó với giặc Ân.
Lúc này Đế Tân sai Thạch Linh Thần tướng cùng các nữ tướng Ân là Ma Cô Tiên, Bạch Kê dẫn quân Bắc chinh (Nam nay). Thạch Linh kéo quân tới vùng núi Châu Sơn ở Vũ Ninh, đại chiến với Thánh Gióng dưới chân núi. Lửa cháy rực trời, khói bụi tung mù mịt. Na Tra nhổ tre đằng ngà quét sạch quân Ân. Thạch Linh Thần tướng tử trận ở vùng Yên Vệ.
Tiêu diệt được cánh quân chủ lực của Đế Tân, Thục Phán cùng Khương Thái Công giao hẹn chư hầu cùng phát binh đến cánh đồng Mục Dã, quyết một trận sống mái với Duệ Vương. Đế Tân thất thế, nổi lửa thiêu Lộc Đài rồi tự mình nhảy vào lửa tự vẫn.
Cơ Phát làm chủ được thiên hạ họ Hùng, xưng là Võ Vương. Sử Việt gọi là Hùng Quốc Vương, người con đã theo mẹ Âu Cơ lên núi lập nước Văn Lang, đóng đô Phong Châu.
Hùng Quốc Vương lên ngôi Thiên tử, phân phong cho các họ tộc làm chư hầu bình phong phên dậu ở trăm nơi đầu núi góc biển, được quyền thế tập cha truyền con nối, đặt ra trăm họ, định ra lễ nhạc trăm quan. Thiên hạ họ Hùng chưa bao giờ lại rộng lớn như thế này, Đông giáp biển Thái Bình Dương, Tây qua Đại Thực, Bắc quá Hoàng Hà, Nam tới vịnh Thái Lan.
Để tưởng nhớ các tướng sĩ của cả 2 bên hy sinh trong cuộc chiến Hùng – Thục, Thái Công Thánh Gióng về lại đất Lạc, lập đàn tế ở núi Vệ Linh, xướng bảng phong thần cho những anh hùng liệt sĩ. Hùng Duệ Vương Đế Tân vốn là thiên tử của tiền triều nên được tôn làm vua Địa phủ, Trung Nguyên Xá tội, lập đền thờ trên núi Châu Sơn. Tiên phong Na Tra làm thần núi Sóc Sơn, hộ trì đất nước.
Nhớ xưa đương thủa triều Hùng Vũ Ninh nổi đám bụi hồng nẻo xa Trời thương Bách Việt sơn hà Trong nơi thảo mãng nảy ra kỳ tài Lên ba đương tuổi anh hài Roi ngà ngựa sắt ra oai trận tiền Một phen khói lửa dẹp yên Sóc Sơn nhẹ gót thần tiên lên trời…
Tượng Ma Bà (Ma Cô Tiên) ở Phùng Dị, Bắc NinhCô tướng Ân trong lễ hội Phù Đổng 2022Phường Ải Lao trong lễ hội Phù Đổng 2022Thạch Linh Thần tướng cưỡi voi ở Việt Yên, Bắc GiangTriệu Nguyên Sư (Triệu Công Minh – tướng của nhà Ân) trong tranh thờ người Dao ở Lào CaiVoi ngựa trong lễ hội Y Sơn, Bắc Giangthờ Hùng Linh CôngHoa tre trong lễ hội Y Sơn (Bắc Giang), nơi thờ Hùng Linh CôngNgai vị thờ Thái Công Khương Thượng ở nghè làng Kiều, Sầm Sơn, Thanh HóaTranh Lão tiên ông bên bến Việt Trì trong chùa Hoa Long, Phú ThọChính cung đền Sóc thờ Phù Đổng Thiên Vương, Na Tra Thiên Tử, Nữ Oa Bộ Thiên, Vu Điền Quốc Vương, Tỳ Sa Môn Thiên VươngPhù Đổng Thiên Vương, Na Tra Thiên Tử, Vu Điền Quốc Vương ở đền Hạ Mã, Sóc SơnTrung Nguyên xá tội, tranh thờ dân tộc Dao ở Yên BáiCự thạch – tế đàn cổ ở Sóc SơnCon Phi liêm ở núi Châu Sơn, Bắc Ninh
Lễ dối trời Duệ Vương hết số Vì sinh linh Thục Chủ khởi binh
Lạc Long Quân chia 50 người con xuống khai phá miền ven biển Đông, vượt qua nhiều sông núi mà khai mở phương Nam xưa (phương Bắc nay). Long Quân truyền ngôi qua nhiều đời, đến Hùng Duệ Vương có tên là Đế Tân, đóng đô ở An Huy.
Duệ Vương là người có hùng tài đại lược, nhưng lại ham mê tửu sắc, bất kính với thiên địa, dâng lễ dối trời, sủng ái vu nữ Đát Kỷ. Trời và người cùng phẫn nộ, dẫn đến tai họa giáng xuống, vận nước cáo chung.
Bộ chủ Ai Lao – Ba Thục lúc này Tây Bá Hầu Cơ Xương, nổi lên là một người nhân nghĩa đại đức, thu phục nhân tâm. Thục chủ Cơ Xương tinh thông Dịch lý, hiểu lẽ trời đạo người. Bị Đế Tân chèn ép, Thục chủ buộc phải phát động binh đao. Nhưng để giữ lễ với Hùng Vương, Cơ Xương đầu tiên dẫn quân tiến đánh vùng đất Lạc của Sùng Hầu Hổ. Quân Thục từ Ai Lao kéo vào đất Hưng Hóa đến châu Quỳnh Nhai. Đất nước của Hùng Duệ Vương rúng động.
Người đứng đầu vùng đất Lạc khi đó là Bắc Bá Hầu Sùng Lãm, là dòng dõi quý tộc triều Hùng từ Kinh Dương Vương – Lạc Long Quân, nên cũng gọi là Lạc hầu Nguyễn Tuấn. Cuộc chiến giữa Ai Lao bộ chủ Cơ Xương và Lạc hầu Nguyễn Tuấn diễn ra rất ác liệt. Trong lần đầu Nguyễn Tuấn phục kích đánh bại được quân Thục ở Mộc Châu. Khải hoàn trở về, tấu cáo Đế Tân.
Vài năm sau, Bá Thục lại kêu gọi các chư hầu tập hợp được hơn 50 vạn quân. Cơ Xương chia quân thành 5 đạo, thủy bộ tịnh tiến, đánh chiếm đất Sùng. Với thế quân mạnh và nâng cao ngọn cờ nhân nghĩa, cuối cùng Sùng hầu Nguyễn Tuấn đã chịu thua, nhường lại đất Lạc cho Thục chủ.
Thục chủ Cơ Xương thu nhận được đất tổ Hùng Vương, đã cho dời kinh đô từ Ai Lao về Phong Châu, xây dựng thành Việt Trì, lên núi Thái Sơn Nghĩa Lĩnh lập điện Kính Thiên, đăng đàn tế cáo trời đất, lập cột đá thề trung thành với quốc tổ họ Hùng, cứu dân giúp nước.
Từ cổ đế vương ức triệu dân Quy thần tất tự điện tinh thần Thử truyền vị biện chân tướng ảo Hồi tưởng Sơn danh phảng phất chân.
Chân tượng Cao Sơn Đại vương trong Nhất thành khả cách chân kinh.Nha chương Phùng Nguyên, niên đại cuối thời nhà Ân Thương, bảo vật quốc gia ở Phú Thọ.Cúng Bàn Vương của người Dao ở Hoàng Su Phì, Hà Giang.Hải Bá Lạc Long Quân, tranh thờ người Dao.Tượng đồng Hổ hai đuôi thời Thương.Tượng thờ Long khuyển Bàn Hồ của người Dao ở Chù Lìn, Lai Châu.Long tranh Hổ đấu, sách cúng người Dao ở Yên Bái.Tượng mẫu Âu Cơ ở Hiền Lương, Phú Thọ.
Nọ thì ả Chức, chàng Ngưu Đến trăng thu lại bắc cầu sang sông. (Chinh phụ ngâm)
Câu chuyện Ngưu Lang, Chức Nữ bị thiên đình chia cách, mỗi năm chỉ được gặp nhau một lần vào ngày Thất tịch (mùng 7 tháng Bảy) nhờ đàn chim quạ bắc cầu trên sông Ngân Hà tưởng rằng là truyện thần thoại Trung Quốc, nhưng mấy ai biết rằng ông Ngâu, bà Ngâu chính là hai vị Sơn Tinh, Thủy Tinh trong truyền thuyết Việt.
Làng Ngâu (nay là thôn Yên Ngưu, xã Đại Thanh, Hà Nội) có 2 ngôi miếu cổ có từ thời Lý thờ Ngưu Lang và Chức Nữ. Đó là miếu Mục Đồng thờ đức Tổ Nam Dương, tức ông Ngâu, và miếu Diệu Linh thờ Hương Từ Thanh Vân Thần Nữ, còn gọi là Tổ Mẫu Ngâu. Theo truyền thuyết, miếu Diệu Linh được hoàng hậu của vua Lý Thần Tông là Lệ Thiên tôn tạo và đặt tên chùa Hưng Quốc để thờ Phật. Ngày nay chùa Ngâu vẫn có lối thờ Tam phủ và có tượng Tổ Mẫu Ngâu cầm cành trúc trên tay (Trúc = Chức nữ?). Còn miếu Mục Đồng có tượng Thánh Tổ Yên Ngưu (Ngưu Lang) tay cầm gậy và đang ngồi trên con trâu vàng.
Vị Thánh Tổ Nam Dương cầm gậy thần và cưỡi trâu thì là Nam Thiên Thánh Tổ Tản Viên Sơn với cây gậy đầu sinh đầu tử. Nam Thiên Thánh Tổ cũng là Kinh Dương Vương, người đã vâng mệnh vua cha Đế Minh làm vua ở phương Nam. Bà mẫu trồng dâu dệt vải tương ứng như bà Tang Ma bên bãi Trường Sa Động Đình là Mẫu Thần Long, vị mẫu của Thủy phủ (Mẫu Thoải). Thì ra mối tình Ngưu Lang – Chức Nữ chính là sự kiện Kinh Dương Vương gặp mẫu Thần Long Động Đình trong sử Việt. Đây cũng là chuyện giữa Sơn Tinh (Tản Viên Sơn Thánh) và Thủy Tinh (Mẫu Thoải), dẫn đến mâu thuẫn mà hàng năm vào mùa mưa Ngâu tháng 7 lại dâng nước lên gây lũ lụt ở đồng bằng sông Hồng.
Chùa Yên Ngưu (Miếu Diệu Linh xưa) có lối thờ Tam Phủ là Thiên, Địa, Thoải nhưng khác với lối thờ của các đền phủ khác. Cung Vua cha Động Đình thay thế cho cung Chúa Sơn Trang. Cung thứ 2 thờ chính giữa Quan lớn Đệ Nhất Tôn Ông. Cùng với Tổ Mẫu Ngâu được thờ ở đây thì lối thờ này rõ ràng nhấn mạnh vào dòng Thủy phủ, trong đó Vua cha Thủy phủ ở đây là Động Đình Đế Quân, Tổ Mẫu Ngâu là Thần Long Động Đình, Quan lớn Đệ Nhất là Lạc Long Quân theo Truyện họ Hồng Bàng.
Miếu Mục Đồng ngoài thờ chính là Tổ Yên Ngưu còn có thờ Tản Viên Sơn Thánh, Cao Sơn Đại Vương. Điều này cho thấy, đối lập với miếu Diệu Linh (chùa Yên Ngưu), miếu Mục Đồng nhấn mạnh việc thờ dòng lên núi (Nhạc phủ). Đặc biệt nhất là miếu Mục Đồng lại thờ 10 vị quan lớn của Thủy phủ nhưng dưới tên gọi là 10 vị Kim ô (quạ vàng). Kim ô là hình ảnh con quạ ba chân, biểu tượng của mặt trời, như gặp trên các bức lụa hay tranh tường từ thời Hán. Đàn quạ bắc cầu Ô Thước thì ra chính là 10 vị quan lớn, được biết là những người con của Kinh Dương Vương và mẫu Thần Long. Kim ô hay mặt trời là cách gọi từ góc độ của dòng lên núi (nằm trong miếu Mục Đồng – nơi thờ dòng lên núi) đối với các vị quan lớn Thủy phủ.
Hình Kim ô – quạ vàng ba chân trong mặt trời trên bức lụa ở mộ Mã Vương Đôi thời Hán (ảnh internet)
Theo Sơn hải kinh: ở ngoài Đông Nam Hải, giữa sông Cam Thủy, có một quốc gia gọi là Hy Hòa. Ở nước Hy Hòa có nàng Hy Hòa là vợ của Đế Tuấn, sinh ra mười con trai là mười con kim ô, tức Mặt Trời. Hàng ngày, Hy Hòa tắm cho Mặt Trời ở Cam Uyên. Có truyền thuyết khác kể rằng mười con Kim ô đậu trên cây Phù Tang.
Như vậy nàng Hy Hòa chính là Động Đình Thánh Mẫu hay Đông Quang Thánh Mẫu (Nhật), tức Mẫu Thần Long. Bà lấy Kinh Dương Vương Tản Viên. Sơn hải kinh ghi bà lấy Đế Tuấn là đúng vị Sơn Tinh Nguyễn Tuấn. Hy Hòa là tên gọi theo vị tổ phương Đông là Phục Hy hay theo vị quan Hy Trọng được Đế Nghiêu cử đến phương Đông quan sát mặt trời, xây dựng lịch pháp. Cây dâu Phù Tang cũng chỉ rõ đây là hướng Đông và liên quan đến việc trồng dâu dệt vải của Chức Nữ. Phù Tang và Cam Lâm còn được nhắc tới trong tên gọi của vị thần phương Đông (Đông Vương Công) là Thủy phủ Phù Tang Cam Lâm Đại Đế.
Các vị quan lớn của Thủy phủ là những vị thủ lĩnh được Lạc Long Quân (vua Hạ) phân chia trấn trị các phương. Điều này được hình tượng hóa thành 10 mặt trời chiếu sáng khi đó. Truyền thuyết kể thời Đế Nghiêu, mười mặt trời chiếu nắng cháy bỏng. Đế Nghiêu sai thần tiễn thủ Hậu Nghệ bắn rụng 9 mặt trời. Chỉ còn lại 1 mặt trời (Kim ô) sợ quá lẩn trốn mất. Truyền thuyết này diễn tả lại sự kiện lịch sử là Hậu Nghệ – một chư hầu ở phương Bắc xưa của chính dòng Đế Nghiêu – đã đánh diệt các thủ lĩnh của nhà Hạ ở 9 phương, chỉ còn lại 1 phương, sau này trở thành nhà Hạ Trung hưng.
Còn trong thần tích Việt thì đây là câu chuyện ông Nhăng mà lấy bà Nhăng, sinh ra con rắn thằn lằn cụt đuôi. Ông Nhăng bà Nhăng là ông Ngâu, bà Ngâu. Con rắn cụt là vị thủ lĩnh còn lại của nhà Hạ đã bị Chử Đồng Tử – Hậu Nghệ chặn, đuổi lên phương Nam xưa, thể hiện trong chuyện Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh bị đi đày ở Kỳ Cùng (Lạng Sơn).
Như vậy, câu chuyện lễ Thất tịch là lịch sử khởi dựng nước Xích Quỷ (Thủy quốc) được kể từ góc độ của dòng lên núi (Nhạc phủ). Ngưu Lang Sơn Thánh lấy Mẫu Ngâu Thần Long trồng dâu dệt vải bên bãi sông Động Đình, sinh ra 10 con Kim ô, là các thủ lĩnh nhà Hạ, đứng đầu là Hạ Khải Lạc Long Quân. Lạc Long Quân khởi (khải) lập quốc là nhà Hạ, phân cho những người anh em trấn ở các phương, là những vị tôn quan. Hạ Khải mất, một chư hầu của chính dòng Đế Nghiêu là Hậu Nghệ Chử Đồng Tử đã đoạt ngôi chủ thiên hạ (trong hình ảnh công chúa Tiên Dung), dẹp các tôn thất nhà Hạ (các Kim ô) ở 9 phương. Duy nhất còn lại một con Kim ô (con rắn cụt đuôi) chạy lên miền Nam xưa (Bắc nay), rồi sau đó trung hưng lại cơ nghiệp nhà Hạ.
Dòng lên núi của cha Tiên Tản Viên Sơn Thánh (Ngưu Lang) kết hợp với dòng xuống biển của mẹ Rồng Thần Long (Chức Nữ) mà làm nên dòng giống Việt, lưu truyền ngàn đời. Chính sự vận động đối lập lên rừng – xuống biển của 2 dòng người mới đem lại sự phát triển của xã hội người Việt vào thời lập quốc.
Thánh Tổ Yên Ngưu cầm gậy cưỡi trâu (ảnh Nguyễn Huân)Tổ Mẫu Ngâu (ảnh Nguyễn Huân)Các vị Quan lớn – Kim ô ở miếu Mục Đồng (ảnh Nhật Minh)
Người Dao ở vùng Mộc Châu – Sơn La dùng một bộ tranh thờ gồm 3 bức tranh lớn vẽ các vị thần và 2 bức nhỏ vẽ chân dung thần. Bộ tranh này được gọi là Hành say, dùng trong các nghi lễ thờ cúng, tín ngưỡng của người Dao tại đây.
Bức tranh đầu tiên có hình một vị thần cưỡi ngựa là bức Thái Úy. Theo các nhà nghiên cứu thì Thái Úy là ông Đại Vũ, người khởi đầu nhà Hạ bởi trên một số tranh Thái Úy khác có thể hiện hình một cậu bé theo tích Đại Vũ sinh ra Khải trong quá trình trị thủy. Thái Úy cưỡi ngựa, cầm kiếm và ấn lệnh, làm chủ miền rừng núi. Phía dưới là các vị quan lại cưỡi ngựa. Tương ứng trong lịch sử người Việt thì Đại Vũ là Tản Viên Sơn Thánh hay Kinh Dương Vương, người khởi đầu dòng lên núi. Trong Tứ phủ người Dao thì Thái Úy ứng với Dương gian, là phủ nơi con người sinh sống.
Bức tranh đối diện thể một vị thần mặt đỏ cưỡi rồng, gọi là Hải Bá. Hiện tại các nhà nghiên cứu cho rằng thần cưỡi rồng là Hiên Viên Hoàng Đế đã cưỡi rồng mà về trời. Tuy nhiên như vậy không hợp lý vì Hiên Viên không phải là “Hải Bá”, thần của miền biển. Đúng hơn thì Rồng biểu trưng cho Thủy phủ. Người cưỡi rồng phải là vị thần chủ của Thủy phủ, tức là Thủy Tinh Bát Hải Động Đình hay Lạc Long Quân. Thần chủ của Thủy phủ ở trên tranh còn cầm tù và, khá giống với hình tượng Thủy Tinh trong truyền thuyết Việt. Phía dưới bức Hải Bá là hình ảnh các thầy tào và cảnh Thượng đao sơn trong lễ cấp sắc của người Dao.
Bức tranh ở chính giữa được gọi là Tổng đàn hay Tổ tiên. Bức tranh này thể hiện có 9 tầng từ trên trời xuống đất. Trên cùng là Tam Thanh cung thờ 3 vị Ngọc Thanh Nguyên Thủy Thiên Tôn (ở giữa), Thượng Thanh Linh Bảo Thiên Tôn (bên phải) và Thái Thanh Đạo Đức Thiên Tôn (bên trái). Ba vị Tam Thanh được Đạo giáo thờ như những người đã sáng tạo ra vũ trụ.
Ở tầng thứ hai là Ngọc Hoàng Thượng Đế, người cai quản Thiên đình. Hai bên là các vị Thiên Vương, có ánh hào quang. Tầng thứ ba là Tây Vương Mẫu, vị thần cai quản các tiên thánh trên núi Côn Lôn. So với sử Việt thì Ngọc Hoàng Thượng Đế là vị vua Hùng đầu tiên, tức Đế Minh. Tây Vương Mẫu là Tây Thiên Quốc Mẫu ở núi Tam Đảo hay là bà Vụ Tiên trong Truyện họ Hồng Bàng.
Ở tầng thứ tư là Bắc Đẩu Tinh Quân. Hai bên là các vị nguyên soái, như Đặng Nguyên Soái mặt đen như thiên lôi ở bên trái, Triệu Nguyên Soái mặt đen ở bên phải. Ở tầng thứ năm là Nam Tào và các vị phụ thần hai bên. Nam Tào và Bắc Đẩu là hai vị thần nắm sổ sinh và sổ tử của Thiên đình. So với sử Việt thì đây là hai vị Hùng Vương Thánh Tổ được thờ ở đền Hùng, là Viễn Sơn Thánh Vương (Đế Nghi) và Ất SơnThánh Vương (Lộc Tục).
Tầng thứ sáu, bảy và tám là các quan Tam Nguyên. Tầng thứ sáu vẽ Thượng Nguyên Thiên Quan có hình nhật nguyệt ở 2 bên, tiết Thượng Nguyên Tứ Phúc vào rằm tháng Giêng. Tầng thứ bảy là Trung Nguyên Địa Quan, tiết Trung Nguyên Xá Tội vào rằm tháng Bảy. Tầng thứ tám là Hạ Nguyên Thủy Quan, tiết Hạ Nguyên Giải Ách vào rằm tháng Mười.
Ở tầng cuối cùng (thứ chín) vẽ hình Thổ Địa thần nơi miếu thổ thần và các loài vật sống trên mặt đất như hổ báo, trâu voi, rắn rết. Thần Thổ Địa cai quản vùng đất đai và những sinh vật sinh sống ở đó.
Trong bộ tranh này thì bức Tổng đàn ở giữa thể hiện cảnh theo trục đứng gồm Thiên phủ – Địa phủ, nơi các thần linh ngự trị. Còn hai bên là Thủy phủ và Dương gian, nơi con người sinh sống. Tổng hợp 3 bức tranh có đủ Tứ phủ theo tín ngưỡng của người Dao.
Hai bức vẽ nhỏ là chân dung (mặt nạ) của hai vị thần chủ cai quản con người, cũng là hai vị thủy tổ của người Việt: Thái Úy – Kinh Dương Vương và Hải Bá – Lạc Long Quân. Thái Úy Kinh Dương Vương thể hiện như một vị quan mặt trắng, hiền từ như mặt trăng mùa thu (Chu). Hải Bá Lạc Long Quân thể hiện mặt đỏ như mặt trời mùa hè (Hạ).
Hải Bá Lạc Long QuânThái Úy Kinh Dương Vương
Có thể thấy tín ngưỡng thờ của người Dao tương đồng với tín ngưỡng của người Việt về các vị thần, về cách chia Tứ phủ. Cũng như người Việt, các vị thần được thờ của người Dao là “Tổ tiên”, tức là những vị vua, quan đã có công lao gây dựng nên dân tộc, nên đất nước ở thời cổ sử. Đó là ba vị Hùng Vương Thánh Tổ như thờ ở đền Hùng và hai vị thủy tổ Sơn Tinh, Thủy Tinh của 2 dòng lên núi và xuống biển.
Nguyên phi Ỷ Lan được biết là rất coi trọng đạo Phật, cho xây nhiều chùa chiền mà các di tích khảo cổ và tín ngưỡng vẫn còn để lại cho đến ngày nay. Tuy nhiên, thực sự là dòng phái Phật giáo nào đã giúp cho Nguyên phi Ỷ Lan trở thành một Thần phi, một Hoàng hậu nhiếp chính rồi Hoàng Thái hậu? Lần theo sự tích của Nguyên phi Ỷ Lan kết hợp với các di tích còn lại có thể cung cấp thêm những nhìn nhận mới về Phật giáo và văn hóa đầu thời Lý.
Cầu duyên trên quê hương Thổ Lỗi – Sủi
Trong thần tích trong bản khai thần tích thần sắc của làng Thục Cầu (Đồng Xá, Văn Lâm, Hưng Yên) thì tên của Nguyên phi Ỷ Lan được chép như sau:
Thái hậu quê ở làng Cổ Lỗi, huyện Siêu Loại, xã Dương Xá. Cha là ông họ Lê tên Quyết. Mẹ là Võ Thị Tĩnh Nương. Gia đình lấy nghề trồng dâu làm nghiệp. Lại nằm mộng điềm lạ nuốt sao Thái âm mà sinh được một người con gái, tức là Thái hậu vậy. Đặt tên là Yến, còn gọi là Cám (Cảm), còn có hiệu là Khiết nương.
Tên vua Lý Thánh Tông phong cho Nguyên phi là Ỷ Lan thực ra là tên chữ, vận dụng phép phiên thiết từ tên thời con gái của bà vì Ỷ Lan đọc thiết âm là Án = Yến. Tương tự, tên làng Thổ Lỗi vốn cũng là tên phiên thiết của âm Nôm là Sủi vì âm Th- xưa đọc như S-. Dẫn chứng khác là làng này có lúc được ghi là Thượng Lỗi, có cùng âm phiên thiết như Thổ Lỗi.
Điểm bổ sung là sau Lý Thánh Tông cho đổi tên Thổ Lỗi thành Siêu Loại, thực ra vẫn là giữ âm phiên thiết của chữ Sủi. Tức là:
Thổ Lỗi hay Thượng Lỗi thiết Thổi – Sủi
Siêu Loại thiết Soại – Sủi.
Thần tích Thục Cầu cho biết khi Khiết nương bị em lừa lấy hết cá thì người đã giúp Khiết nương là vị lão tăng chùa Linh Nhân có tên là Đại Điên. Tức là trong nếu so với truyện cổ tích Tấm Cám thì ông Bụt hiện lên chính là sư Đại Điên.
Tiếp đó khi cá bống bị giết cũng chính vị tăng này (Đại Điên) đã bảo Khiết nương thu xương cá chôn ở góc giường và sau trăm ngày được một đôi hài đẹp. Khiết nương mang đôi hài ra phơi trước sân thì bị một con “chim thần” tha mất một chiếc hài đem thả vào cung nhà vua. Nhà vua cho đó là điềm sinh Hoàng tử kế vị và ngay sau đó đã về chùa Linh Nhân ở huyện Siêu Loại lập đàn cầu nguyện, vì thế mà gặp được Khiết nương đang hái dâu, đưa về lập làm Thần phi.
Có thể thấy rõ ràng rằng đây là một sự sắp đặt của vị tăng Đại Điên, từ việc làm ra đôi hài, mang hài bỏ vào cung đình rồi đánh tiếng để cho nhà vua về cầu nguyện tại chính chùa của mình (chùa Linh Nhân). Ngôi chùa Linh Nhân này nay là chùa Linh Nhân Tư Phúc ở Dương Xá, Gia Lâm. Linh Nhân cũng là tên thờ của Hoàng Thái hậu Ỷ Lan. Còn có chùa Phú Thị (chùa Sủi) có lễ hội Bông Sòng, trả lại trong sạch cho nội thị Nguyễn Bông, người đã “tham vấn” sư Đại Điên ở chùa Linh Nhân. Có thể chùa Sủi là quê hương của Nguyễn Bông (Nguyễn Bông có thể là người cùng quê với Nguyên phi Ỷ Lan).
Quê hương của Nguyên phi Ỷ Lan ở Dương Xá thuộc tổng Dương Quan, phủ Thuận Thành, Bắc Ninh xưa. Xã Dương Xá có mấy thôn: Đanh, Đá, Trung. Những cái tên Đanh, Đá gợi nhắc tới Bà Đanh, Bà Đá trong tục thờ Tứ pháp.
Đặc biệt là trong cùng tổng Dương Quang, ở phía bên kia sông Thiên Đức đối diện với Dương Xá là làng Đề Trụ. Làng này tới nay còn đền thờ Thiên Đế Đế Thích. Đây là một liên hệ cho thấy khả năng vị tăng Đại Điên ở chùa Linh Nhân là một vị sư tu theo đạo thờ Thiên Đế, bởi Đế Thích mới là vị thần có thể cầu duyên và cầu tự, chứ không phải Phật Thích Ca.
Sự tích Ông hàng Dầu đã thấy mây lành che trên đầu Khiết nương và khuyên nàng đi xem vua ở Dương Xá chắc hẳn cũng có ý nghĩa. Dầu là thứ để thắp sáng (Quang) nên rất có thể tương ứng với cái tên Dương Quang của tổng này. Cái tên Dương Quang cũng nhắc tới liên hệ với Thạch Quang Phật trong tín ngưỡng Tứ pháp.
Cầu tự nơi kinh thành Thăng Long
Lý Thánh Tông rước Khiết nương về Thăng Long, cho ở cung Ỷ Lan, phong là Thần phi. Dấu vết của cung Ỷ Lan nay là chùa Kim Cổ, vốn là Đồng Thiên quán, tương truyền là nơi Nguyên phi Ỷ Lan thờ “đạo Giáo”. Tuy nhiên, Nguyên phi Ỷ Lan là người tôn sùng “đạo Phật”, sao lại đi lập Đạo quán ở ngay nơi ở của mình? Cái tên “Đồng Thiên” của quán này cho thấy khả năng nơi đây thờ Thiên Đế của “đạo Phật”, chứ không phải thờ thần của đạo Giáo.
Nguyên phi Ỷ Lan vốn được sự giúp đỡ của “ông Bụt” Đại Điên mà trở thành cung phi, sau đó lại cũng nhờ ông Bụt này mà sinh được Hoàng tử. Nên quán nơi cung điện của bà phải là thờ “Bụt” mới đúng.
Chuyện Nguyên phi Ỷ Lan cầu tự được con trai liên quan trực tiếp đến tăng Đại Điên. Thần tích Thục Cầu kể rằng sau khi vào cung, Thần phi Ỷ Lan (thần tích khác chép là tiểu nhân là Nguyễn Bông) vẫn thường về chùa Linh Nhân cúng dường. Tăng Đại Điên đã “tư vấn” cho Nguyễn Bông nhìn trộm Thần phi để đầu thai làm Thái tử. Dấu vết nơi Nguyễn Bông đầu thai là chùa Thánh Chúa ở Dịch Vọng, Hà Nội.
Điều lạ là tăng Đại Điên lúc này không còn ở huyện Siêu Loại nữa mà đã về vùng Dịch Vọng ở tại chùa Duệ Tú. Thần tích Duệ Tú cho biết ông là người quê ở tại vùng này, có tên là Lê Toàn Nghĩa. Khi tu hành đã trở thành một vị lương y và thiền sư có nhiều công lao. Rõ ràng rằng tăng Đại Điên ở Thổ Lỗi đã “chuyển chùa” cùng với Thần phi về kinh đô. Và vị Đại Điên đã có công lớn trong việc giúp Thần phi Ỷ Lan “sinh con theo ý muốn”, sinh được Thái tử Càn Đức, nhờ vậy Ỷ Lan trở thành Nguyên phi nhiếp chính thời Lý Thánh Tông. Chú ý rằng sư Đại Điên cũng mang họ Lê như Khiết nương Lê Thị Yến.
Một lần nữa có thể thấy là tăng Đại Điên không phải dùng “Phật pháp” thiền môn mà là một Pháp sư có khả năng giúp đầu thai và chữa bệnh. Câu chuyện đầu thai của Nguyễn Bông có điểm giống với cách Khâu Đà La bước qua người Man Nương mà sinh ra Tứ pháp trong sự tích chùa Dâu thời trước.
Cũng chính nơi chùa Duệ Tú này nay còn mộ của tăng Đại Điên, bởi trong chuyện Thánh Láng Từ Đạo Hạnh đã báo thù cha và giết chết Đại Điên ở nơi đây. Đại Điên đầu thai thành đứa bé là Giác Hoàng, biết rất nhiều chuyện của cung đình, nên đã được vua đưa về kinh sư cho ở trong chùa Báo Thiên để đầu thai lại vào hoàng thất. Sau đó Giác Hoàng bị Từ Đạo Hạnh ngăn cản mà chết. Tại chùa Duệ Tú Đại Điên được tôn là Thánh tổ Lê Nghĩa hiệu Giác Hoàng Đại Điên Thiền sư.
Câu chuyện Đại Điên đầu thai thành Giác Hoàng cũng như việc tranh đấu với Từ Đạo Hạnh càng chứng tỏ lối tu của Đại Điên là lối tu theo Thiên Đế. Ngay việc Giác Hoàng được đưa về chùa Báo Thiên cũng cho biết điều này, bởi chùa Báo Thiên vốn là ngôi chùa thờ Thiên Đế, thường được dùng để cầu mưa, như việc rước Pháp Vân từ chùa Dâu về đây cầu mưa.
Theo Việt điện u linh, khi Từ Đạo Hạnh chuẩn bị viên tịch có nói với các đệ tử: Ta chưa hết nhân duyên với đời, lại phải thác sinh làm vua ở nhân gian, khi nào chết lại về làm chủ “Tam thập tam thiên”. Vị thần chủ của “Tam thập tam thiên”, cõi trời 33, là Vua trời Đế Thích (Thiên Đế). Từ Đạo Hạnh như vậy chính là hóa thân của Đế Thích.
Hoằng quang đạo pháp ở các chùa
Nguyên phi Ỷ Lan khi nắm được quyền triều chính đã cho xây dựng nhiều ngôi chùa mà dấu vết của chúng còn lại cho tới ngày nay. Điều đặc biệt là khi xem kỹ những ngôi chùa này, ta lại thấy có nhiều dấu vết và liên hệ đáng ngạc nhiên đến tục thờ Vua trời Đế Thích và Tứ pháp.
Điển hình ở tại quê hương Văn Lâm của bà có chùa Hương Lãng là chùa cổ từ thời Lý với những bậc đá hình con sấu và chim phượng cùng với bệ sư tử đá lớn nhất thời Lý còn thấy được. Trong khuôn viên chùa còn xây am thờ Hoàng Thái hậu Ỷ Lan. Rất ngạc nhiên là chùa Hương Lãng còn có tên là Pháp Lôi tự, tức là chùa thờ Pháp Lôi trong hệ thống Tứ pháp. Chùa Hương Lãng được gọi là chùa Ông Sấm, nhưng ông Sấm ở đây không phải chỉ bệ sư tư đá còn trong chùa, bởi bệ đá hình như vậy còn gặp ở những nơi khác và không đâu gọi sư tử là ông Sấm cả. Ông Sấm thực sự là tượng Pháp Lôi, có lẽ đã từng có đặt trên bệ sư tử này vào thời Lý.
Ngôi chùa lớn nổi tiếng khác là chùa Dạm ở Quế Võ, Bắc Ninh. Chùa Dạm còn gọi là chùa Bà Tấm, có đền thờ Hoàng thái hậu Ỷ Lan. Các làng xung quanh đó như Môn Tự, Tự Thôn, Sơn Nam đều thờ bà. Tương truyền nơi đây là nơi Hoàng Thái hậu đã về tu hành vào cuối đời. Chùa Dạm có nền khảo cổ 3 cấp thời Lý và đặc biệt là còn một chiếc cột đá chạm rồng lớn còn nguyên vẹn. Nhiều nhà nghiên cứu đã từng cho rằng cột đá rồng chùa Dạm là ngẫu tượng của Linga. Nói cách khác, nơi đây là nơi thờ “đạo Phật” theo hướng tương tự như đạo Bà la môn ở miền Trung.
Chùa Dạm sau này từng được sư Không Lộ trụ trì theo sách Lịch triều hiến chương loại chí. Không Lộ cũng là một vị pháp sư cùng với Từ Đạo Hạnh và Giác Hải kết nghĩa, đi học đạo ở phương Tây, nhưng chưa đến đất Phật mà dừng ở nước Kim Xỉ. Đạo học của Tam vị Thánh Tổ triều Lý này như vậy thực ra không phải đạo Phật chính tông, mà là Ấn Độ giáo, tôn thờ Tam vị nhất thể trong hình ngẫu tượng Linga như ở miền Trung Việt Nam.
Các hiện vật khảo cổ các chùa thời Lý cho thấy nghệ thuật tạo hình thời kỳ này mang đậm nét của “văn hóa Chăm” với những vũ công được thể hiện theo phong phồn thực. Hay như tượng Nhạc công thiên thần đầu người minh chim tìm thấy ở chùa Phật Tích. Rồi những bức tượng, phù điêu bằng đá sa phiến thạch được sử dụng làm tượng thờ và trang trí đền chùa, rất đặc trưng. Thực ra đây không phải là “văn hóa Chăm”, mà là văn hóa của đạo Bà la môn (Ấn Độ giáo) đã trở nên thịnh hành ngay từ đầu thời Lý.
Ngay tại đền Ghênh ở Như Quỳnh (Văn Lâm, Hưng Yên) đã tìm thấy hiện vật chính thời Lý là một “Kính Thiên đài” với bệ chạm sư tử ở dưới. Đài Kính Thiên thì rõ ràng là thờ Thiên, tức Vua trời Đế Thích.
Tại chùa Phật Tích, dấu vết truyền đạo Bà la môn xưa là những phiến đá lớn xếp hình trên đỉnh núi Tiên Du, gọi là Bàn cờ đá, là “Phật tích” của vị tăng Bà la môn là Khâu Đà La (theo bia ở chùa tổ Mãn Xá). Núi Tiên Du là nơi Khâu Đà La tu hành cùng với Man Nương mà sinh Tứ pháp. Hiện nay tại đây có chùa Linh Quang ở thôn Vĩnh Phú bên sườn núi phía Nam sau chùa Phật Tích, là nơi Khâu Đà La tu hành, nay còn tượng thờ.
Nhưng kỳ lạ hơn nữa là ngay cạnh chùa Linh Quang chính là đền Bà Tấm thờ Nguyên phi Ỷ Lan. Nhân dân ở đây tương truyền đây là mộ của bà. Trong nền chùa và đền này đã phát hiện rất nhiều hiện vật thời Lý, gồm cả những viên gạch có chữ “Lý gia đệ Tam đế Chương Thánh Gia Khánh lập tạo”, “Lý gia đệ tứ Long Thụy Thái Bình lập tạo”. Tại sao Bà Tấm lại chọn nơi xuất xứ của vị Bà la môn Khâu Đà La làm nơi xây chùa đền và gửi hồn xác của mình?
Khâu Đà La là hiện thân của Vua trời Đế Thích cùng Tứ đại Thiên Vương là Phong Điều Vũ Thuận hay Vân Vũ Lôi Điện trong tín ngưỡng Tứ pháp của vùng đất Siêu Loại – Thuận Thành xưa. Nguyên phi Ỷ Lan cũng như nhà Lý bát đế có quê hương gốc ở vùng đất này nên việc thờ Thiên Đế trở thành tôn giáo chính của hoàng gia nhà Lý là việc dễ hiểu.
Thiền uyển tập anh chép câu hỏi của Hoàng Thái hậu Ỷ Lan đối với Quốc sư Thông Biện: Ngày 15 tháng 2, mùa xuân năm Hội Phong thứ 5 (1016) Phù Thánh Linh Nhân hoàng thái hậu có lần đến trai tăng ở chùa Sư, cùng với các bậc kỳ túc thăm hỏi ý nghĩa Phật và Tổ, có gì hơn thua? Phật trú phương nào? Tổ ở nơi đâu? Đến đất nước này từ lúc nào? Trao truyền đạo đây, ai trước ai sau. Còn niệm tên Phật, đạt tâm Tổ, tuần tự truyền nhau, thì chưa biết cái nào là tôn chỉ?.
Phật nào? Tổ nào? Câu hỏi nghi vấn của Hoàng Thái hậu Ỷ Lan cho thấy sự nghi ngờ của bà đối với “đạo Phật” của các dòng thiền lúc này. “Tổ đến đất nước này” thì rõ ràng là chỉ Khâu Đà La.
Như vậy, vào đầu thời Lý với vai trò của Pháp sư Đại Điên chuyên về cầu duyên, cầu tự, đầu thai, giúp Nguyên phi Ỷ Lan ở vùng Siêu Loại, nối tiếp là 3 vị Thánh Tổ đi học đạo ở Miến Điện về cũng đầu thai (Từ Đạo Hạnh), rồi hàng long diệt hổ (Đại pháp sư Không Lộ và Giác Hải) có thể thấy Ấn Độ giáo lúc này đã trở thành một chính giáo của triều đình, có ảnh hưởng sâu sắc đến nền chính trị của nhà Lý cũng như văn hóa nghệ thuật đương thời. Khái niệm “Tam giáo đồng nguyên” thời Lý có lẽ phải là Lão giáo – Phật giáo – Ấn Độ giáo mới đúng, bởi Nho học không phải là tôn giáo. Chính nét Ấn Độ giáo này mới làm nên một văn hóa tín ngưỡng tôn giáo riêng của nhà Lý ở phương Nam, khác biệt với những dòng thiền của Trung Hoa khi đó.
Bài tham luận trình bày tại buổi sinh hoạt tháng 6/2025 của CLB Di sản và Văn hóa Á Đông tại chùa Sủi – Phú Thị.
Một vài hình ảnh minh họa
Thần tích của thôn Tự Thôn ở Nam Sơn, Quế Võ, Bắc Ninh ghi trong sách Hà Bắc nghìn năm văn hiến.
Kiệu thờ Ông hàng Dầu tại đền Bà Tấm, Phú Thị, Gia Lâm.
Ban thờ Khâu Đà La ở chùa Linh Quang, cạnh đền thờ Nguyên phi Ỷ Lan ở thôn Vĩnh Phúc, Phật Tích.
Tượng Thiên Đế Đế Thích ở đền làng Đề Trụ, xã Dương Quang, Gia Lâm, Hà Nội.
Tượng Giác Hoàng Đại Điên ở chùa Duệ Tú.
Tên chùa Hương Lãng, nơi có các bậc sấu đá và bệ sư tử thời Lý: Pháp Lôi tự.
Kính? Thiên đài – di vật thời Lý ở đền Ghênh, Như Quỳnh, Văn Lâm, Hưng Yên.
Biết mà biết sai về quá khứ là cái sai hết cỡ… Lộn lạo giữa ta và giặc thì còn cái gì nữa…
Lão Tử – Lỹ Nhĩ Đam người quê Thúc Lực, Kim Chân ở Kim Bảng, Hà Nam, học đạo ở động Thiên Tôn, Hoa Lư, rồi làm quan thủ thư nhà Chu, thực ấp ở Thổ Hà, Việt Yên, Bắc Giang.
Nhân trận động đất làm đổ thành Lạc Dương – Cổ Loa, Lão Tử đăng đàn trừ yêu diệt quỷ, răn dạy vua Chu tuân theo đạo trời, hiển danh ở núi Võ Đang, nay là núi Sái ở Đông Anh.
Cuối đời Lão Tử cưỡi trâu xanh đi về phía Tây, để lại cuốn Đạo Đức kinh như cái móng rùa thần cho muôn thế hệ sau.
Tưởng nhớ đến bậc thánh nhân khai đạo, hàng năm dân Thụy Lôi tổ chức rước vua đến làm lễ thánh ở núi Võ Đang.
Thời Đường, nhà Đường coi Lão Tử là tổ họ Lý nên tôn ngài là Huyền Nguyên Thái Thượng Lão Quân. Các đạo quán thờ là Huyền Thiên Thượng Đế.
Tới thời Lý lại rước chân nhang Huyền Thiên từ núi Võ Đang về Thăng Long, thờ ở đền Trấn Vũ bên hồ Tây trên đường Thụy Khuê (lấy từ tên Thụy Lôi ở núi Sái).
Câu đối ở đình Thổ Hà khẳng định chắn chắn rằng Lão Tử và nhà Chu duy nhất ở nơi nước Nam Việt này:
Đông Chu phong vũ thị hà thì, biệt bả thanh hư khai Đạo Giáo Nam Việt sơn hà duy thử địa, độc truyền ảo hóa tác Thần Tiên.
Ngũ môn quan đền Sái trên núi Võ Đang, Thụy Lôi, Đông Anh, Hà Nội.Ba ông Phúc Lộc Thọ trong lễ hội làng Thổ Hà, Việt Yên, Bắc Giang.Trâu xanh tại đình Giáp Nhất, Thanh Liệt, Hà Nội.Bản đồ các nước thời Văn Lang.
Gương đồng dạng trùng liệt thần thú thời Tam Quốc tìm thấy ở di chỉ Óc Eo – Ba Thê.
Thoải phủ hay Thủy phủ trong địa lý văn hóa Việt ứng với hướng Đông, nơi có biển Đông (Động Đình) và đồng bằng sông Hồng (sông Đào). Cội nguồn của đạo Mẫu Tam Tứ phủ xuất phát từ khu vực này nên Thoải phủ đóng vai trò rất quan trọng trong thần điện của Tứ phủ. Xin điểm lại những vị thần chính được ghi chép và thờ phụng trong Động Đình Thoải phủ.
Các vị thần của Thủy phủ được kể đến từ những hướng ghi chép khác nhau. Huyền sử Việt như trong Truyện họ Hồng Bàng của Lĩnh Nam chích quái được lấy làm căn cứ chính. Truyền thuyết Trung Hoa về các vị thần thời cổ, đặc biệt là trong Đạo giáo, là một góc nhìn khác. Tín ngưỡng thờ cúng các vị thủy thần ở miền Bắc Việt và miền Trung (Nghệ An, Hà Tĩnh) cũng là những sắp xếp khác của 2 vùng đất cổ Hồng và Lạc từ thời lập quốc Hùng Vương. Cổ Lôi ngọc phả truyền thư, do Nguyễn tộc ở khu vực Thanh Oai lưu truyền lại là một cách kể, cách sắp xếp khác nữa. Nhưng tất cả đều là hình bóng của một giai đoạn lịch sử của người Việt đã theo cha Lạc Long Quân đi khai phá miền duyên hải.
Động Đình Đế Quân
Khởi đầu của Thủy phủ Động Đình là từ Động Đình Đế Quân, người cha của mẫu Thần Long, được nhắc đến trong Truyện họ Hồng Bàng. Trong các di tích vị này được thờ với tên là Thủy phủ Phù Tang Cam Lâm Đại Đế, như ở làng An Nội, thôn Khương Thị, tổng Cổ Viễn, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam, hay ở đền Thanh Liệt và đền Nghĩa Sơn bên dòng sông Lam của huyện Hưng Nguyên, Nghệ An.
Ở khu vực kinh đô rồng của Thủy quốc Động Đình tại trên đất Thăng Long, Động Đình Đế Quân chính là thần Long Đỗ được kể đã từng hiển linh trước Cao Biền trong Truyện thần chính khí Long Đỗ. Đền thờ thần là đền Bạch Mã, trấn Đông của thành Thăng Long. Chú ý là đền Bạch Mã thờ cả 2 vị thần là thần Long Đỗ và thần Tô Lịch (Bạch Mã), nên thần Long Đỗ không phải là thần Bạch Mã. Một nơi khác thờ 2 vị thần này là ở vạn Liên Ngạc ven sông Hồng trên vùng Từ Liêm, thờ Thủy phủ Chí tôn Long Vương và thần Tô Lịch.
Cổ Lôi ngọc phả của Nguyễn tộc ở Bình Đà cũng cho biết cụ Long Đỗ Hải Vương trấn trị ở cửa sông Tô Lịch vùng Nghi Tàm, là cha của bà Đỗ Thị Ngoan, tức là mẫu Thần Long trong trong Truyện họ Hồng Bàng.
Trong truyền thuyết Trung Hoa thì Thủy phủ Phù Tang Cam Lâm Đại đế là Đông Vương Công hay Đông Hoa Đế quân, vị thần chủ các nam tu trong Đạo giáo. Trên gương đồng thời Đông Hán – Tam quốc thường có đúc hình Tây Vương Mẫu và Đông Vương Quân như hai vị thần chủ các vị thần tiên ở 2 hướng Đông Tây, cho các nam – nữ đạo nhân.
Thần Long Động Đình
Vị mẫu của Thoải phủ là bà Xích Lân Long Nữ, là con gái của Long Vương Động Đình, vợ của Kinh Dương Vương trong Truyện họ Hồng Bàng. Bà là người sinh ra Lạc Long Quân. Mẫu Thần Long đặc biệt có nhiều tên gọi trong các sự tích khác nhau như là Động Đình thánh mẫu Phan Cù Nương trong sự tích ở La Phù, Thanh Thủy, Phú Thọ, hay là bà Trang Hoa trong sự tích ở Đào Xá, Thanh Thủy, Phú Thọ, hay là Quý Nương sinh Hoàng xà trong sự tích ở Đào Động, Quỳnh Phụ, Thái Bình. Bà cũng là Đông Cuông Thánh mẫu ở Tuyên Quang, người sinh ra Linh Uyên Đại vương ở đền Ngọc Tháp, Lâm Thao, Phú Thọ. Bà là bà Diệu Đế trong sự tích Uy Linh Lang ở hồ Dâm Đàm.
Trong sự tích về Tản Viên Sơn Thánh thì bà là con rắn Thủy Tinh, con của Động Đình Long Vương, đã được Sơn Thánh cứu sống bên bãi Trường Sa. Trong dòng sử Cổ Lôi ngọc phả thì đây là con gái của Long Đỗ Hải vương, tức là bà Đỗ Thị Ngoan, người được tôn là Sa Bà giáo chủ. Trong truyền thuyết Trung Hoa bà là Đồ Sơn Thị, người đã kết duyên cùng với vua Đại Vũ khi trị thủy.
Kinh Dương Vương
Một trong những vị vua của Thủy phủ chính là Kinh Dương Vương, được kể đến là vị Liễu Nghị. Di tích về Liễu Nghị cùng với Xích Lân Long Nữ còn dọc theo sông Hồng như ở Thanh Miện, Hải Dương, hay ở vùng Hà Nam, thậm chí còn vào tới Nghệ An như tại đền Nghĩa Sơn, Hưng Nguyên. Trong Hoa sử thì Kinh Dương Vương là vua Đại Vũ trị thủy ở Long Môn.
Với tư cách là cha của các vị Long hầu, Kinh Dương Vương được kể là Hùng Hải ở sự tích Đào Xá, Thanh Thủy, Phú Thọ, hay ông Đào Bột trong sự tích về Thổ Lệnh Trưởng Trung Thành Đại vương. Ở Nghệ An, có sự tích Kinh Dương Vương gặp Thần Long tại cửa biển Hội Thống. Ở vùng này Kinh Dương Vương được thờ là Mạch Sơn Trấn quốc, hay đơn giản là Mạc Sơn trong tên thần Cao Các Mạc Sơn.
Trong Cổ Lôi ngọc phả thì Kinh Dương Vương được gọi là cụ Nguyễn Minh Khiết, người đã ruồng bỏ bà Đỗ Thị Ngoan. Cụ Nguyễn Minh Khiết có 2 anh em nữa là Nguyễn Nghi Nhân và Nguyễn Long Cảnh. Đây là bộ ba Tam vị Tản Viên, được Cổ Lôi ngọc phả gọi thành Tam phủ Công đồng.
Cụ Nguyễn Long Cảnh tuy không phải đứng trong Thủy phủ Động Đình nhưng là người có liên quan mật thiết tới Thủy phủ vì đã theo giúp cháu đánh giặc. Trong tín ngưỡng Việt thì vị này được thờ là Lãng Nhạc Quý Minh, Hữu kiên thần của Tản Viên Sơn Thánh, người từng đi từ cửa Thần Phù lên đến bến Long Đỗ và hóa ở đó. Đền thờ Quý Minh ở Thăng Long là ở phường Đông Hà, huyện Thọ Xương dưới thời Lê là ngôi đền tham gia vào lễ tế Xuân ngưu.
Lạc Long Quân
Vua cha Bát Hải Động Đình, người đứng đầu thủy cung thì không ai khác là cha Lạc Long Quân mà người Việt coi là quốc tổ. Trong Tứ phủ Lạc Long Quân được gọi là vua cha Bát Hải Động Đình, xuất thế nơi biển Động Đình, đánh giặc Thục ở phía Tây, dựng nên nước Đào – Hoa – Hạ. Đền thờ chính là đền Đồng Bằng ở Quỳnh Phụ, Thái Bình. Trong Hoa sử thì đây là Hạ Khải, người mở đầu Hoa Hạ.
Ở vùng hồ Tây, Lạc Long Quân là thủy thần hồ Dâm Đàm, người đã cùng Lục bộ thủy phủ dâng nước diệt Cửu vĩ Hồ. Ở đây Lạc Long Quân được thờ với tên là Linh Lang hay Uy Linh Lang, cũng là vị thần rất phổ biến ở ven các dòng sông trên đồng bằng Bắc Bộ.
Trong Cổ Lôi ngọc phả Lạc Long Quân được gọi là Kinh Dương Vương Nguyễn Quảng, mà dẫn chứng cụ thể là bức giá tượng Lạc Long Quân ở đình Nội Bình Đà được ngọc phả này gọi là Kinh Dương Vương.
Trong quan hệ với Động Đình Đế Quân (Long Đỗ) và Bột Hải Vương (Kinh Dương Vương) thì Lạc Long Quân được thờ là Hà Bá Thủy quan. Tục thờ Hà Bá Thủy quan gặp phổ biến ở Hà Nam như ở làng Hàn Mặc – tổng Cổ Viễn, làng An Cước, làng An Thái – tổng Ngô Xá, huyện Bình Lục, làng An Mông, tổng Đọi sơn, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam. Hà Bá Thủy quan còn gặp ở trong các đền thờ Thủy phủ ven sông Lam ở Nghệ An như đền Thanh Liệt, đền Nghĩa Sơn ở huyện Hưng Nguyên.
Ngũ vị tôn quan
Riêng Thoải phủ với vai trò lập quốc như vậy nên có thêm hàng các vị quan lớn, hợp thành ban Công đồng trong thần điện. Đây là những vị quan tướng đã theo vua cha Bát Hải làm cuộc “kháng chiến” đánh Thục và lập nên quốc gia lịch sử chính thức đầu tiên của người Việt là Hoa Hạ.
Trong số 5 vị thì đáng kể nhất là Quan lớn đệ Tam và Quan lớn đệ Ngũ. Quan đệ Tam là Trưởng Lệnh hay Thổ Lệnh (Thủ Lệnh), đứng đầu quan chức của Thoải phủ. Nơi hiển danh của ông là Lảnh giang hay Yên Lệnh (nơi yên nghỉ của Trưởng Lệnh).
Quan lớn đệ Ngũ còn gọi là Quan tuần Tranh, có lẽ là người “thi hành công vụ” chính (nay ta gọi là hành pháp). Nơi hiển danh chính là ở sông Tranh (Hải Dương). Quan đệ Ngũ còn được gọi là Thạch Khanh trong sự tích các vị thần Tam Giang của ngã ba Bạch Hạc. Vị này nổi tiếng còn bởi nỗi oan khuất, bị đày lên sông Kỳ Cùng ở Lạng Sơn.
Sự tích các vị thủy quan sinh cùng một bọc, lớn lên được cử trấn nhậm các phương đầu sông góc biển có khá nhiều. Như đó là 5 vị Long Vương trong sự tích La Phù, Thanh Thủy, Phú Thọ. Hay Tam Công Long Vương trong sự tích Đào Xá, Thanh Thủy, Phú Thọ. Hay 5 vị Quảng Xung, Quảng Bác, Quảng Tế, Quảng Hóa, Quảng Xuyên ở vùng Ứng Hòa. Cũng là Tam Lang Long Vương thờ phổ biến ở vùng Hà Tĩnh.
5 vị tôn quan trấn trị 5 phương, được truyền thuyết Trung Hoa gọi là Ngũ đế Thiên hoàng hay Ngũ phương Yết đế. Hình tượng 5 vị này được thể hiện trên những chiếc gương dạng thức trùng liệt thần thú, gặp phổ biến dưới thời Tam quốc.
Cổ Lôi ngọc phả kể 8 người anh em họ Đỗ đi tu trở thành Bát bộ Kim cương, cũng chính là các vị tôn quan của Thoải phủ. Trong sự tích hồ Dâm Đàm thì đây là Lục bộ Thủy phủ của Lạc Long Quân hay Đoài hồ Thất Giáp theo Uy Linh Lang như ở đình Nhật Tân. Phía bên đường Thụy Khuê, là ven sông Tô Lịch trước đây thì các vị Lạc Long hầu là hai vị Cống Lễ và Cá Lễ ở đền Dực Thánh và đền Vệ Quốc.
Tuy không thuộc giai đoạn lập quốc vùng sông nước Động Đình, nhưng lại có liên quan đến thời kỳ này là những vị thần của dòng Lạc Long ở giai đoạn cuối của Kinh triều. Sử Việt gọi là Sùng Lãm (phân biệt khác với Lạc Long Quân ở giai đoạn đầu Kinh triều). Ở vị trí này thì Sùng Lãm là Tản Viên Nguyễn Tuấn. Cổ Lôi ngọc phả gọi là Hùng Lãm, là Pháp Lôi trong Tứ pháp. Trong Hoa sử đó là vị Bắc bá hầu của nhà Ân Thương, được biết dưới tên Sùng Hầu Hổ, đã chống lại cuộc tấn công của Tây bá hầu Cơ Xương, mà sử Việt gọi là giặc Thục. Những người anh em của Tản Viên Nguyễn Tuấn là Cao Sơn và Quý Minh, cũng là trong bộ Tứ pháp của Cổ Lôi ngọc phả. Phân biệt các vị Cao Sơn, Quý Minh họ Sùng ở đời Hùng Vương thứ 18 (đời cuối) với các vị Cao Sơn, Quý Minh trong bộ Tam vị Tản Viên thời lập quốc Kinh triều.
Câu ca dao xưa về dòng dõi Tiên Rồng xuất phát từ cái nôi Đào Hoa Hạ ở vùng Động Đình Thủy phủ: Gió Động Đình mẹ ru con ngủ Trăng Tiền Đường ấp ủ năm canh Tiết trời thu lạnh lành lanh Cỏ cây khóc hạ, hoa cành thương đông Bống bồng bông, bống bồng bông Võng Đào mẹ bế con Rồng cháu Tiên.