Thần Xương Cuồng và thánh Không Lộ

Truyện Mộc tinh của Lĩnh Nam chích quái chép:
Đất Phong Châu thời thượng cổ có một cây lớn gọi là cây Chiên đàn cao hơn ngàn nhẫn, cành lá xum xuê, không biết che rợp tới mấy ngàn dặm, có chim hạc đến đậu nên đất chỗ đó gọi là Bạch Hạc. Cây trải qua mấy ngàn năm khô héo mà biến thành yêu tinh, thường thay hình đổi dạng, rất dũng mãnh, có thể giết người hại vật.
Kinh Dương Vương dùng nhạc mà đánh thắng yêu, yêu hơi chịu nhún nhưng vẫn nay đây mai đó, biến hóa khôn lường, thường ăn thịt người. Dân phải lập đền thờ hàng năm thường tới 30 tháng Chạp, theo lệ phải mang người sống tới nộp, dân mới được yên ổn. Dân thường gọi yêu là thần Xương Cuồng. 

Tác giả Đặng Tiến trong bài Cọp, từ Mộc Tinh đến ông Ba Mươi đã đưa ra nhận định rất xác đáng rằng thần Xương Cuồng được nói đến trong Truyện Mộc tinh là thần Hổ. Trong bài viết tác giả đã so sánh dữ kiện lệ cúng thần Xương Cuồng vào 30 tháng Chạp với tên gọi dân gian của Hổ là ông Ba Mươi. Tác giả cũng dẫn bài Thần Hổ của Phạm Đình Hổ kể lại trong Vũ trung tùy bút:
Làng Ngọc Cục ở huyện ta (Đường An, Hải Dương) khi xưa truyền rằng vẫn thờ yêu hổ phải bắt người làm việc hy sinh để cúng (…) Đó cũng như cái tục Nhâm Ngao tế thần Xương Cuồng vậy. Từ năm Canh Thân 1800 trở về sau thói ấy mới bỏ.
Từ nhận định thần Xương Cuồng là thần Hổ, nay xin bổ sung thêm một số dữ kiện. Thứ nhất là trong Huyền học (Kỳ môn độn giáp) có vị hung thần là Bạch Hổ Xương Cuồng 白虎猖狂. Đây là thông tin cho mối liên hệ trực tiếp giữa lốt hổ và thần Xương Cuồng.
Loài hổ được coi là Chúa sơn lâm, không chỉ vì đó là loài thú dũng mãnh nhất trong rừng. Những chuyện kể về hổ dữ thường gắn với những cây cổ thụ to lớn, nơi hổ rình ăn thịt người. Có lẽ vì lý do đó mà người xưa cho rằng hổ là tinh của cây gỗ lớn lâu năm.

keo-hanh-thien-3-1024x683
Bức chạm thần thú ở chùa Keo Hành Thiện (Nam Định).

Cây “Chiên đàn” là loài cây được nhắc đến trong các chuyện cổ. Ngoài Truyện Mộc tinh trong Lĩnh Nam chích quái còn nhắc tới cây Chiên đàn ở Truyện Rùa vàng, là cái cây mà yêu tinh Gà trắng khi hóa thành chim Cú sáu chân ngậm lá thư bay lên đậu để tấu với Ngọc Hoàng. Có thể thấy cây Chiên đàn như thế gắn với các loài yêu tinh, quỷ quái. Vậy Chiên đàn là cây gì?
Phép phiên thiết cho ta một bất ngờ: Chiên đàn thiết Chàn hay Chằn. Thì ra Chiên đàn là tên ghi âm Nôm của từ Chằn. Chằn tinh chỉ loài yêu quái nói chung. Như thế, gọi là cây Chiên đàn tương đương với gọi đó là Mộc tinh mà thôi.
Tiếp theo, tại sao lại gọi Hổ là ông Ba mươi và cúng thần Hổ Xương Cuồng vào ngày 30?
– Trong thập nhị địa chi thì chi thứ 3 là chi Dần (Tý, Sửu, Dần…). Chi Dần hình tượng là con Hổ.
– Còn trong thập can thì số 10 là số Kỷ – Cả hay Kỵ.
Như thế 30 nghĩa là Kỵ Dần, tức là ngày cúng Hổ, rất đúng với tên gọi và phong tục.
Theo thông tin của báo Phú Thọ thì trong cuốn Thiên Nam vân lục liệt truyện (tân biên) của Nguyễn Hãng, hiệu Nại Hiên tiên sinh, quê làng Dòng (Xuân Lũng, Lâm Thao) viết vào thời Lê Thánh Tông (1460 – 1479) có truyện Quỷ Xương Cuồng, phần đầu truyện giống như Truyện Mộc tinh. Phần tiếp theo kể:
Đến thời Đinh Tiên Hoàng, nhà vua mời một đạo sỹ tên là Vân Du dùng thuật lạ mới giết được con quỷ điên này. Thuật lạ bao gồm: Kỵ (cưỡi), can (xào), điếu (câu), hiểm (vỗ tay) thường tổ chức vào dịp cuối năm để dâng hiến các thần, cũng có thể dùng để lừa quỷ điên.
Kỵ là cưỡi ngựa phi chạy, lựa mình nhặt lấy vật rơi dưới đất.
Can là nằm ngửa dùng chân nâng gậy để người khác quất vào đầu gậy mà không đổ.
Điếu là làm cầu phi vân cao 12 thước, bện đay làm chão dài 26 thước, buộc hai đầu chôn dưới đất mắc lên cây mà đi lại, chạy nhảy, treo mình, cúi ngửa trên cây mà không ngã xuống.
Hiểm là vỗ tay nhảy nhót, hoan hô, lăn đi lật lại, tiến lui lên xuống.
Những trò chơi này thường có chuông trống náo loạn, có ngâm vịnh, nhảy múa góp vui. Trong lúc bày cuộc vui náo nhiệt, thờ phụng, quỷ điên vui vẻ hưởng lễ, không để ý đến việc khác, Vân Du lừa lúc nó không đề phòng, đọc câu quyết thần bí rồi dùng kiếm chém chết. Bộ hạ của quỷ điên chạy tan tác cả. Từ đó yêu khí hết, dân chúng yên ổn làm ăn.
Vị pháp sư diệt thần Xương Cuồng ở đây tên là Vân Du (trong Lĩnh Nam chích quái gọi là Văn Du Tường). Trong một bài trước đã từng nhận định, vị pháp sư này chính là Dương Không Lộ. Dương = Tường, Vân Du tương đương nghĩa với Không Lộ.

keo-hanh-thien-1024x683Bức chạm ở chùa Keo Hành Thiện.

Thông tin của Phú Thọ ở trên cho hay đoàn tạp kỹ của pháp sư Không Lộ gồm 4 người, với tên gọi là theo các tiết mục mà họ trình diễn (cưỡi, sào, câu, vỗ tay). Trong Lĩnh Nam chích quái thì những người này tên là Thượng Kỵ, Thượng Can, Thượng Hiểm, Thượng Đát, Thượng Toái, Thượng Câu, diễn các trò nhảy, lăn, phi, vỗ tay, hò hét… Ở bài trước cũng đã xác định vết tích của 6 vị Thượng này là các Thánh Tượng (thiết Thượng) đầu gỗ của trò rối Ôi Lỗi, còn lưu diễn đươc tới nay ở các di tích thờ Không Lộ thiền sư.
Nay với nhận định thần Xương Cuồng là thần Hổ thì có thể thấy việc Không Lộ thiền sư chữa bệnh cho vua Lý hóa hổ chính là thành tích diệt thần Xương Cuồng của vị đại pháp sư này. Nhận đình này thêm một lần nữa xác định người diệt thần Xương Cuồng thời Đinh – Lý chính là Không Lộ thiền sư.

keo-hanh-thien-2-1024x472Các Thánh tượng đầu gỗ của chùa Keo Hành Thiện.

Câu đối ở chùa Keo Hành Thiện (Xuân Hồng, Xuân Trường, Nam Định) nơi thờ Không Lộ thiền sư:
法是天仙心是仸
鄉為聖祖國為師
Pháp thị thiên tiên tâm thị phật
Hương vi thánh tổ quốc vi sư.
Dịch:
Phép là tiên trời, tâm là phật
Quê tôn thánh tổ, nước tôn thầy.
Phép là tiên trời, tức là phép của đạo sĩ. Tâm mới từ bi như phật. Đây cũng chính là giáo lý của phái Không Lộ: tu tiên và lấy đức theo phật, chứ không phải tu phật. Không Lộ thiền sư là vị thánh tổ của đạo phù thủy nước ta, người đã trừ loại yêu quái hung hiểm nhất là Hổ Xương Cuồng.

Lục đầu vô thủy bất thu thanh

Câu đối trên cổng đền Kiếp Bạc thờ Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn ở Chí Linh, Hải Dương do Thám hoa Vũ Phạm Hàm đề, đã là chủ đề những tranh luận kéo dài giữa các bậc túc Nho xưa và nay:
萬劫有山皆剑氣
六頭無水不秋聲
Vạn Kiếp hữu sơn giai kiếm khí
Lục Đầu vô thủy bất thu thanh.

CongdenKiepBac1Cổng đền Kiếp Bạc (ảnh internet).

Vấn đề ở cụm từ “thu thanh” trong vế đối sau được hiểu nghĩa như thế nào? Điểm qua quan điểm đã có hiện nay về nghĩa của câu đối này (theo Nguyễn Hồng Lam):
– Nhiều nhà văn nhà nho cho rằng chữ “thu thanh” là bị thợ ngõa “đắp nhầm”. Phải là “thung thanh” hay “trang thanh”, nghĩa là tiếng đóng cọc, thì mới đúng. Thậm chí, có người đã sốt sắng đề nghị đục bỏ chữ “thu” trên cổng đền đi để thay bằng chữ “thung” hay “chang”…
– Gần đây, một số nhà nghiên cứu cho rằng “thu thanh” nghĩa là tiếng của chiến tranh, tiếng của sự đau thương, hay dịch là “tiếng binh đao”.
Cả 2 ý kiến trên nghe có vẻ đều có lý vì tiếng cọc hay tiếng binh đao đều đối chỉnh với cụm từ “kiếm khí” ở vế đối trước và lại có liên quan đến công nghiệp đánh giặc Nguyên Mông hiển hách của Hưng Đạo đại vương.
Tuy nhiên, nếu đọc cả vế đối thì sẽ thấy dịch theo cả 2 phương án trên đều tối nghĩa vô cùng: Lục đầu vô thủy bất thu thanh. Làm sao mà trong nước (thủy) lại có tiếng gì được? Nếu nói là âm thanh thì phải là trong không trung, chứ sao lại trong nước?
Hơn nữa “vô thủy” mà dịch là “không có con nước nào” thì cũng không ổn vì “thủy” không phải là từ đếm được để mà thêm chữ “con” vào đây.
Kết cấu “vô… bất…” có nghĩa so sánh, nhấn mạnh, ví dụ như trong câu “vô tiểu bất thành đại” là không có việc nhỏ thì không thành việc lớn, chứ nếu dịch như cách nghĩ ở trên sẽ thành: không có gì nhỏ mà không thành lớn, rất vô lý.
Nếu hiểu “thu thanh” là tiếng chiến tranh, binh đao, tuy là có điển dẫn, nhưng lại không hợp ngữ cảnh vì chữ “thu” mang sắc thái tiêu cực (buồn, thảm, sầu, bi,…), không phải để trong câu đối mang tính ca ngợi như ở đây.
Còn nếu hiểu là “thung thanh” hay “trang thanh” là tiếng cọc trong nước cũng không hợp với thực tế, vì Hưng Đạo vương đóng cọc ở sông Bạch Đằng, ngoài cửa biển Hải Phòng, chứ không phải ở Lục Đầu. Nước ở Lục Đầu làm gì có cọc nào.
Câu đối nổi tiếng này xem ra để hiểu đúng không phải dễ. Các bậc văn nho ở trên có lẽ đã lạc hướng. Họ quá tập trung vào tra điển tích, điển cố về cụm từ “thu thanh” mà quên mất hiểu nghĩa chung cho cả câu đối trước cổng đền này.
Để hiểu nghĩa câu đối này thực ra khá đơn giản. Nhưng muốn hiểu trước hết phải tìm hiểu địa lý ở địa phương và tục thờ cúng Trần Hưng Đạo tại đây đã. Hãy đọc sự tích của khu vực này:
Tương truyền sau khi đánh thắng giặc Nguyên Mông, đem lại thái bình cho đất nước. Hưng Đạo Vương về nghỉ tại phủ đệ của mình ở Vạn Kiếp. Một hôm, ông cùng gia nhân dùng thuyền nhỏ đi dạo cảnh trên dòng sông Lục Đầu. Khi con thuyền đã quay về gần núi Dược Sơn, Hưng Đạo Vương cho dừng thuyền lại, đứng trên mũi thuyền, Người rút thanh kiếm của mình ra khỏi bao và nói : ”Thanh gươm này đã gắn bó với ta gần cả cuộc đời. Trong suốt cuộc chinh chiến nó đã dính bao máu giặc Thát, nó đã từng được bôi phân gà sáp với vôi tôi và bồ hóng để chém đầu tên giặc Phạm Nhan nhơ bẩn. Nay ta muốn nhờ dòng nước sông Lục Đầu để gột rửa sạch những vết nhơ trên nó”. Nói rồi ông ném thanh gươm xuống dòng sông. Tại khúc sông Trần Hưng Đạo thả kiếm, sau này đã hình thành một bãi bồi chạy dài rất giống hình lưỡi kiếm, dân gian gọi bãi bồi đó là Thanh kiếm thần của Trần Hưng Đạo. Bãi bồi ngày nay vẫn còn trên dòng sông Lục Đầu trước cửa đền Kiếp Bạc…
Như thế, trong câu đối trên cổng đền Kiếp Bạc, ở vế đầu: Vạn Kiếp hữu sơn giai kiếm khí, thì Sơn và Kiếm không phải là núi và gươm chung chung. Đây là chỉ cụ thể bãi bồi chạy dài trên sông hình lưỡi kiếm trong sự tích trên.
Cái còn lại không phải là bản thân thanh kiếm, mà là “kiếm khí“, tức là tinh thần của chiếc kiếm xưa của thánh Trần. Kiếm này không phải là kiếm đánh giặc, mà là kiếm phép (kiếm thần) Trần Hưng Đạo đã dùng để chém tên phù thủy Phạm Nhan.
Vế đối này cũng chơi chữ, ghép giữa tên địa danh Vạn Kiếp và nghĩa “vạn kiếp” – nhiều đời nhiều kiếp. Như thế nếu đọc là “Vạn kiếp hữu sơn giai kiếm khí” thì có thể hiểu là Vạn đời dải núi vẫn còn hơi kiếm.

2018-04-27

Bản đồ vệ tinh khu vực Lục Đầu giang. Thấy rõ dải đất hình thanh kiếm đối diện cổng đền Kiếp Bạc.

Hiểu đúng được vế đối đầu thì mới hiểu được vế đối sau. Câu đối này ca ngợi Trần Hưng Đạo không phải như một vị võ tướng xuất trận diệt giặc, mà là một pháp sư đạo sĩ, một vị thần trừ tà diệt ác được tôn thờ.
Cần biết rằng ở đền Vạn Kiếp đức thánh Trần được coi là Cửu Thiên Vũ Đế, với sứ mệnh diệt trừ yêu ma ở cả 3 cõi thiên đình, trần gian và âm phủ. Hai bên nơi ngài ngự là Nam Tào và Bắc Đẩu, tức là 2 vị thần giữ sổ sinh tử của mọi sinh linh.
Với góc nhìn như vậy thì thấy ngay, cụ từ “thu thanh” ở vế sau hoàn toàn không phải tiếng cọc hay tiếng binh đao, mà là chỉ sự linh thiêng của đức thánh Trần. Tiếng thu ở đây nghĩa tiếng thiêng ngàn thu (thiên thu linh thanh). Tiếng thu là tiếng vang vọng của người đã khuất, hay là sự linh thiêng của người được thờ.
Hiểu được nghĩa này thì cả vế đối sẽ rất rõ nghĩa: Lục Đầu vô thủy bất thu thanh nghĩa là Nước ở 6 con sông này có hết thì mới hết được tiếng vang linh thiêng của thánh Trần. Hoặc hiểu theo kết cấu câu trước đây thì là Không con nước nào không có tiếng thiêng của thánh.
Nghĩa mới phát hiện của vế đối thứ hai cũng tương ứng với vế đầu, chỉ sự trường tồn linh thiêng (vạn kiếp… giai kiếm khí) của thánh Trần.
Một lần nữa xin nhắc là Trần Hưng Đạo không chỉ là vị võ tướng giỏi đã được thế giới công nhận mà ông còn là một thần chủ trong tín ngưỡng dân gian, được thờ ở hầu hết các nơi có ban thờ Tứ phủ. Các nhà nho, nhà sử chỉ vì cách nhìn lệch lạc đối với tín ngưỡng dân gian nên mới không tài nào hiểu đúng câu đối cung tiến lên Đức thánh Trần của Vũ Phạm Hàm trong cả thế kỷ qua.
Dịch lại đôi câu đối ở cổng đền Kiếp Bạc theo nghĩa mới phát hiện:
Vạn kiếp núi còn cùng hơi kiếm
Lục đầu nước hết mới thôi thiêng.

Đạo thờ tổ tiên của người Việt

Bài phát biểu trong buổi giới thiệu dự án Khơi nguồn tinh hoa Việt tại đình Kim Ngân, phố Hàng Bạc, Hà Nội.

Kính thưa các thầy, các cô, các bạn!

Hôm nay tôi rất vinh dự được tham gia và phát biểu về Đạo thờ Tổ tiên của người Việt vào ngày 9/3 Âm lịch, ngay trước ngày Giỗ tổ Hùng Vương trong một không gian văn hóa dân gian như đình Kim Ngân.
Về đạo thờ tổ tiên của người Việt đầu tiên tôi muốn dẫn lời của một học giả người Pháp của Viện Viễn Đông bác cổ từng viết trong cuốn An Tĩnh cổ lục:
Cái gọi là sự tiến bộ chỉ là truyền thống đang đi lên. Nếu không có những truyền thống tốt đẹp, con người sẽ bị lôi cuốn theo bản năng xấu. Nước Đại Việt giàu về quá khứ và các bạn nên hiểu rằng chính người chết cai trị người sống. Những đức tính tốt mà chúng ta có, chúng ta nhờ cha mẹ ông bà mà có. Hãy kính thờ vong linh tổ tiên bằng cách phổ biến lịch sử của tổ tiên”.
Chính người chết cai trị người sống nghĩa là các bậc tiền nhân đã khuất mới là những người chi phối tinh thần của chúng ta ngày nay.
Đình Kim Ngân thờ Tổ của bách nghệ Hiên Viên. Nhưng có lẽ đến 90% mọi người ở đây đều không biết Hiên Viên là ai. Hoàng Đế Hiên Viên là người mà Trung Quốc hiện nay coi là tổ tiên của họ, người bắt đầu lịch sử 5.000 năm của Trung Hoa. Thực ra Hiên Viên là vua của Hữu Hùng thị, tức là vua Hùng của người Việt. Hiên Viên là đọc sai đi của Hiển Vương, tương đương với Đế Minh trong truyền thuyết Họ Hồng Bàng, vị vua tổ đầu tiên của người Việt. Đây mới là người hiện được tôn thờ là quốc tổ tại đền Hùng Phú Thọ.
Thật bất ngờ khi đúng trước ngày giỗ tổ Hùng Vương chúng ta lại đến ngôi đình giữa trung tâm thủ đô này để bái yết tưởng nhớ tới Hiên Viên Hoàng Đế Hữu Hùng. Giỗ tổ Hùng Vương là một truyền thống thiêng liêng lâu đời của nhân dân ta, thể hiện đạo lý Uống nước nhớ nguồn. Quá khứ không phải là điều đã qua và qua rồi là hết. Lịch sử một đất nước, một dân tộc như phần rễ cây chìm trong lòng đất, không nhìn thấy nhưng lại quyết định khả năng vươn cao của cây. Rễ có sâu, có to thì thân và cành lá mới xum xuê vững chãi. Nền văn minh chói ngời của cha ông một thời soi đường cho cả Thiên hạ là sức mạnh tinh thần to lớn thúc đẩy con cháu ngày nay xốc tới.
Có thể nói người Việt là một dân tộc có hiếu nhất thế giới. Trong gia đình chúng ta có ban thờ cha mẹ, thờ gia tiên. Ngoài làng nước chúng ta có đền miếu tôn thờ các vị anh hùng dân tộc, những tiền nhân có công có đức với cộng đồng. Tín ngưỡng thờ cúng của người Việt không hề là mê tín, mà đó là nét văn hóa độc đáo, có giáo lý chặt chẽ, có giá trị nhân văn sâu sắc.
Điển hình, là tín ngưỡng Tứ phủ công đồng với đầy đủ các phủ Thiên Địa Nhạc Thoải. Nhưng đây không phải thờ trời, thờ đất, thờ núi, thờ nước như nhầm tưởng. Thực chất của tín ngưỡng Tứ phủ là đạo thờ tổ tiên. Mỗi phủ có 1 vị vua cha và 1 vị thánh mẫu làm chủ quản. Đứng đầu Thiên phủ là Ngọc hoàng Thượng đế. Đây cũng là vị vua Hùng đầu tiên của người Việt mà truyền thuyết họ Hồng Bàng gọi là Đế Minh như nói trên. Kính thiên điện trên núi Hùng ở Nghĩa Lĩnh là điện thờ ông Trời Đế Minh.
Vị thánh mẫu của Thiên phủ là Mẫu Cửu trùng hay Cửu Thiên Huyền Nữ. Trong truyền thuyết Việt thì đây là Tây Thiên quốc mẫu, vị nữ thần núi Tam Đảo. Hai vị tiền tổ khai sử đã được tôn thờ đời đời là ông Trời bà Trời trong suy nghĩ tâm niệm của người Việt, được thờ ở khắp nơi, trong gia đình, làng xóm cũng như trong các đền miếu quốc gia.
Đứng đầu Thoải phủ Vua cha Bát Hải Động Đình không ai khác là quốc tổ Lạc Long Quân, người đã cùng 50 người con đi khai phá miền ven biển Đông. Còn Nhạc phủ Thần vương, vị thần chủ của Nhạc phủ là Tản Viên Sơn Thánh, vị tối linh thần đứng đầu các thần bất tử trên đất Việt, ngự trị ở miền núi Tản sông Đà với công lao dựng nước từ thủa hồng hoang… Như vậy, tất cả các nhân vật trong Tứ phủ công đồng đều là những con người thực sự có công khai dân mở nước từ 5.000 năm lịch sử.
Người Việt cũng không hề thờ “nhầm” các nhân vật của Trung Hoa trong các đền miếu còn tới nay. Ngọc Hoàng hay Cửu Thiên Huyền Nữ là những vị vua thời Hùng Vương. Khổng Tử thờ ở Văn miếu, Lão Tử hay Huyền Thiên Trấn Vũ thờ ở Đạo quán không hề là người “Tàu” như nhầm tưởng. Đạo Khổng (Nho giáo), đạo Lão đều là những kết tinh của nền văn hóa Việt từ thời cổ đại và thấm nhuần trong tinh thần của người Việt.
Nói về đạo Hiếu của người Việt không thể không nói tới câu chuyện Lang Liêu chế ra bánh chưng bánh giày, lấy lòng thành và trí tuệ của mình mà dâng lên tổ tiên, trời đất. Lang Liêu không phải ai khác mà chính là bà mẹ Âu Cơ trong truyền thuyết, cùng các con đã khởi lập nước Văn Lang, lấy nền tảng đạo đức hiếu kính tổ tiên nhận mệnh trời mà gây dựng dòng giống Việt, dựng nên một triều đại huy hoàng với nền văn hóa trống đồng tỏa sáng trên toàn cõi Đông Nam Á và Hoa Nam (Lĩnh Nam).
Lịch sử Việt cùng những con người đã làm nên lịch sử 5.000 năm đó hiện đang bị bụi mờ của thời gian và nhân gian che lấp. Một thời gian dài văn hóa Việt bị đứt gãy khi nền văn minh duy lý của phương Tây tràn vào Việt Nam, thay đổi toàn bộ bộ mặt văn hóa từ chữ viết, trang phục, kiến trúc, kỹ nghệ… Sự thay đổi này đã làm cho người Việt ngày nay mất đi mối liên kết với quá khứ, với tổ tiên, dẫn đến những lệch lạc về văn hóa, nhân sinh trong xã hội hiện đại. Trong bối cảnh đó, nối lại dòng linh khí của tiền nhân Việt là việc làm vô cùng cần thiết.
Nhóm Đền miếu Việt gồm những người tâm huyết với đạo thờ tổ tiên trong dòng chảy văn hóa Việt hiện đang nỗ lực tìm tòi làm sáng tỏ công đức, sự nghiệp của các bậc tiền nhân được thờ cúng trong thần điện Việt, nối mạch giữa tín ngưỡng và lịch sử, nhằm trả lại giá trị chân xác cho tín ngưỡng căn bản của người Việt và tri ân đối với tổ tiên.

IMG_9016.JPGBức hoành phi Vạn thế vĩnh lại ở đình Kim Ngân.

Câu đối đình Kim Ngân:
日月箕裘長濟美
百藝祖傳永生香
Nhật nguyệt cơ cừu trường tế mỹ
Bách nghề tổ truyện vĩnh sinh hương.

Vị thần bất tử Không Lộ Lý quốc sư

Không Lộ thiền sư là một trong các vị thần bất tử của tín ngưỡng dân gian người Việt. Tuy nhiên các ghi chép và di tích còn lại về vị này lại thường lẫn lộn trong thân thế và tiểu sử của thánh, ít nhất có 2 xuất xứ được nói tới. Một là Dương Không Lộ ở Hải Thanh – Thái Bình. Hai là Nguyễn Minh Không ở Đàm Xá – Ninh Bình. Dương Không Lộ sinh vào thời Lý Thái Tổ, còn Nguyễn Minh Không sinh vào thời Lý Thánh Tông. Thêm vào đó, sự tích và công trạng của những vị này theo các ghi chép rất giống nhau và phạm vi di tích tín ngưỡng thờ 2 người này cùng tập trung ở khu vực Thái Bình và Nam Định. Do đó về xuất xứ của Không Lộ Lý triều quốc sư hiện vẫn còn đang rất nhiều tranh cãi. Trong quá khứ thậm chí đã từng có một vụ các cụ đồ địa phương ở Thái Bình tranh kiện nhau xem đức thánh Không Lộ là họ Nguyễn hay họ Dương. Cho đến nay trong giới học thuật những thảo luận về xuất xứ của Không Lộ thiền sư cũng vẫn còn chưa ngã ngũ.

IMG_1675Gác chuông đền thờ thánh Nguyễn ở Đàm Xá (Gia Viễn, Ninh Bình).

Bài viết này nêu một góc nhìn mới cho phép lý giải được sự tích khác nhau của Không Lộ thiền sư thông qua phân tích tín ngưỡng dân gian, mà trước hết là từ quan niệm về thần bất tử. Các vị thánh bất tử trong tín ngưỡng của người Việt đã được xác định là những vị tu tiên đắc đạo, có phép cải tử hoàn sinh, trường sinh bất lão hoặc giáng sinh chuyển thể. Không Lộ thiền sư là vị thần bất tử hàng thứ tư trong quan niệm này.
Đứng đầu Tứ bất tử là Tản Viên Sơn Thánh với cây gậy thần đầu sinh đầu tử và cuốn sách ước diệu kỳ. Tản Viên được gọi là Thần Sư, đi khắp nơi lên rừng xuống biển, cứu giúp nhân dân. Điểm đáng chú ý trong sự tích về Tản Viên là Sơn Thánh đã khuyên vua Hùng nhường ngôi cho Thục Phán và cùng đi ngao du, tức là đi tu tiên. Tản Viên Sơn Thánh còn là vị thần đứng đầu trong các linh thần Việt.
Thần bất tử thứ hai là Chử Đồng Tử cùng công chúa Tiên Dung và Tây Sa. Với cây gậy và chiếc nón thần gia đình nhà Chử là những bậc thánh tiên cứu chữa bệnh cho nhân dân và một đêm đã bay về trời trên đầm Dạ Trạch. Chử Đồng Tử được tôn gọi là Chử Đạo Tổ, tức là một trong những vị tổ Đạo của người Việt.
Thần bất tử thứ ba là Đổng Thiên vương Huyền Thiên đại thánh, người đã có công giúp An Dương Vương trừ yêu diệt quỷ khi xây thành Cổ Loa. Huyền Thiên Đổng Thiên Vương đã được xác định là Thái Thượng Lão Quân hay Lão Tử, vị giáo chủ khai mở Đạo Giáo. Lão Tử vừa là người khởi đầu cho một tín ngưỡng tâm linh, vừa là một thầy thuốc chữa bệnh dịch cho dân ở miền Bắc Việt (thần tích gọi là diệt giặc Xích Tỵ).
Một trong những vị thần bất tử ở hàng thứ tư là Liễu Hạnh công chúa. Thánh mẫu Liễu Hạnh với ba lần tái thế đã trở thành vị giáo chủ của Đạo Mẫu và Tứ phủ. Điểm đặc biệt của sự tích Liễu Hạnh là bà có vẻ như không có công nghiệp gì lớn lao trong việc cứu dân độ thế, nhưng lại được tôn làm giáo chủ của Đạo Mẫu. Công nghiệp chính của Mẫu Liễu là ở việc đã đề xướng Đạo Mẫu, đưa vai trò của các nữ thần lên bậc thần quyền chính thức trong Tứ phủ.
Điểm qua 4 vị thần bất tử Thần Sư, Đạo Tổ, Lão Quân và Thánh Mẫu trên ta nhận thấy họ đều là các vị “giáo chủ”, mở đầu cho những đạo phái trong tín ngưỡng của người Việt. Đây cũng chính là ý nghĩa cơ bản của tín ngưỡng thờ thần bất tử, là thờ những vị tổ khai lập môn phái, mở đường cho đạo.
2 vị Không Lộ thiền sư và Từ Đạo Hạnh cũng được xếp ở hàng thứ tư trong các vị thần bất tử. Vận dụng nhận định mới phát hiện trên về ý nghĩa của thần bất tử có thể thấy Không Lộ và Từ Đạo Hạnh cũng phải là những vị sư tổ, có công gây dựng tông phái và được thờ như các giáo chủ của giáo phái.
Giáo phái của Không Lộ thiền sư có thể được gọi là phái Không Lộ. Đồng thời Không Lộ cũng là danh xưng của Giáo chủ giáo phái này. Với cách hiểu như thế thì sẽ thấy rõ, không phải chỉ có 1 vị Không Lộ thiền sư bởi vì chức Giáo chủ của giáo phái có thể là những người khác nhau đảm nhận qua các thời.

IMG_7074Đền Lại Trì ở Vũ Tây, Kiến Xương, Thái Bình.

Nhận định này giúp giải quyết được khúc mắc về việc có tới 2 ngài Không Lộ như ở phần đầu bài đã nêu. Có thể sắp xếp như sau, Dương Không Lộ quê Thái Bình là vị tổ thứ nhất của giáo phái Không Lộ, xuất hiện vào quãng thời Lý Thái Tổ – Thánh Tông. Kế tục ông là Nguyễn Chí Thành, người quê Ninh Bình, làm giáo chủ Không Lộ phái vào thời Lý Nhân Tông – Thần Tông.
Câu đối ở đền Lại Trì (Vũ Tây, Kiến Xương, Thái Bình) nơi thờ Dương Không Lộ:
蹟顯李朝三出世
名尊真定四靈祠
Tích hiển Lý triều tam xuất thế
Danh tôn Chân Định tứ linh từ.
Dịch:
Dấu tỏ Lý triều ba thế xuất
Tên nêu Chân Định bốn đền linh .
Tam xuất thế” ở đây có thể chỉ Không Lộ, Giác Hải và Từ Đạo Hạnh, nhưng cũng có thể là chỉ 3 lần xuất hiện của Không Lộ thiền sư. Cũng vì chức danh giáo chủ Không Lộ là gồm các đời nối tiếp nhau, tức là khả năng tái xuất thế nhiều lần, nên Không Lộ được xếp vào hàng thần bất tử.
Một đạo phái được xác lập khi nó có đủ 3 yếu tố, gọi là Tam bảo. Trước hết là có giáo chủ là Không Lộ thiền sư như nêu trên. Thứ hai là có giáo lý thể hiện qua những tiêu chí và hành động của giáo phái. Thứ ba là có các tăng lữ hay đạo sĩ theo đạo này.
Giáo lý của phái Không Lộ vừa theo giáo lý nhà Phật lại vừa kết hợp với Đạo Giáo ở nước ta. Điều này thể hiện qua các tài phép “lục trí thần thông” của Không Lộ thiền sư như đi trên không, nổi trên nước… Các chùa nơi Không Lộ từng tu hành đều có tên Thần Quang tự, phần nào cũng nói tới sự thần bí (tính chất của Đạo Giáo) của vị thiền sư này. Lý triều quốc sư Không Lộ như vậy không chỉ là một Phật tử mà còn là một Pháp sư cao tay. Bia chùa Keo Hành Thiện ở Nam Định ghi rõ ông là một Đại pháp sư.

P1280468Hoành phi “Đại Pháp Sư” ở chùa Keo Hành Thiện (Xuân Trường, Nam Định).

Câu đối khác ở đền Lại Trì nêu công nghiệp của Không Lộ thiền sư:
法手濟群生徳是聖神心是佛
仙丹扶九鼎國留事業史留名
Pháp thủ tế quần sinh, đức thị thánh thần tâm thị phật
Tiên đan phù cửu đỉnh, quốc lưu sự nghiệp sử lưu danh.
Dịch:
Tài phép cứu chúng sinh, đức chính thánh thân tâm chính phật
Thuốc tiên giúp thánh thượng, nước lưu sự nghiệp sử lưu tên.
Đặc biệt, đạo Không Lộ có mức độ nhập thế rất cao so với các thiền phái của nhà Phật thể hiện trong việc Không Lộ chữa bệnh cho vua Lý và thực hành nghề đúc đồng. Nhận định Không Lộ là tên giáo chủ hay giáo phái giúp giải quyết khúc mắc về sự kiện Không Lộ thiền sư đã đúc An Nam tứ đại khí vì 4 đồng khí lớn được đúc vào các thời kỳ khác nhau. Đỉnh tháp Báo Thiên chắc chắn đã được làm dưới thời Lý Thánh Tông vì đã phát hiện những viên gạch Lý gia đệ tam đế Long Thụy Thái Bình tứ niên tạo ở chân tháp, là niên hiệu của vị vua Lý thứ ba này. Tượng Phật Di Lặc chùa Quỳnh Lâm, chuông Quy Điền hoặc chuông Phả Lại, vạc Phổ Minh lại là ở những nơi khác vào thời gian khác. Nếu Không Lộ chỉ là 1 người thì không thể có chuyện lại tham gia đúc nên cả 4 đồng khí này.
Vì Không Lộ là tên giáo phái nên ở đây có thể hiểu là những đại đồng khí trên đã do giáo phái Không Lộ đảm nhận việc đúc nên ở các thời kỳ khác nhau. Như thế thì giáo chủ của giáo phái ở các thời gian đó cũng khác nhau, không phải chỉ là 1 người. Câu chuyện Không Lộ thiền sư đi sang Trung Quốc chở đồng đen về đúc chuông có lẽ muốn nói giáo phái này đã học được nghề đúc đồng tới mức thu hút hết tinh hoa của nghề này về nước ta. Không Lộ thiền sư được các làng nghề đúc đồng trên cả nước tôn làm vị tổ nghề.

IMG_6470Một số tháp Phật và gạch hoa thời Lý mới phát lộ ở Nam Định.

Câu đối đền Lại Trì về tứ đại khí nước Nam:
四噐容成南越地
一囊括尽北京銅
Tứ khí dung thành Nam Việt địa
Nhất nang quát tận Bắc Kinh đồng.
Dịch:
Bốn đồ chứa nên đất Nam Việt
Một túi gói hết đồng Bắc Kinh.

IMG_7017Gian thờ Dương Không Lộ ở đền Lại Trì.

Về giáo lý, có thể Không Lộ nghĩa đúng không phải là tài bay trên không của các vị thiền sư như vẫn nghĩ. Không Lộ là con đường của đạo Không. Thiền uyển tập anh còn lưu một bài thơ của Không Lộ thiền sư như một tâm yếu chú, như sau:
Đoán luyện thân tâm thủy đắc thanh
Sâm sâm trực cán đối hư đình
Hữu nhân lai vấn không không pháp
Thân tọa bình biên ảnh tập hình.
Dịch:
Rèn luyện thân tâm tựa nước thanh
Sân thênh cổ thụ tỏa sum cành
Có người xin hỏi nguồn Không pháp
Lưng dựa bình phong, bóng tựa hình.
Bài thơ có nhiều dị bản, nhưng câu “Hữu nhân lai vấn không không pháp” cho thấy rõ “phép” của Không Lộ thiền sư là “Không pháp”. Nó cũng là lời giải thích cho danh xưng Không Lộ của giáo chủ giáo phái này.
Giáo phái Không Lộ từng phổ biến chính ở vùng Nam Định – Thái Bình, với trung tâm là 2 ngôi chùa Keo ở 2 bên sông Hồng. Chữ Keo có thể nghĩa là Cả, là thủ lĩnh hay giáo chủ. Chùa Keo nghĩa là chùa Cả, trung tâm của giáo hội.

P1170499Gian ngoài chùa Keo Thái Bình.

Về tăng lữ của phái Không Lộ, có thể thấy các chùa thờ Không Lộ và Từ Đạo Hạnh thường ban đầu không có sư trụ trì như chùa Keo Hành Thiện, Keo Thái Bình hay chùa Đại Bi. Điều này nay có thể hiểu vì giáo phái của Không Lộ khác với Phật giáo chính dòng.
Điểm đặc biệt là ở các chùa thờ Không Lộ và Từ Đạo Hạnh tới nay còn lưu được nghi lễ hầu thánh bằng múa rối đầu gỗ, là các thánh tượng, đại diện cho giới tăng lữ của giáo phái này. Câu chuyện về các thánh tượng này có liên quan đến truyền tích Pháp sư diệt thần Xương Cuồng trong Lĩnh Nam chích quái. Vị pháp sư và các đệ tử của mình đã diệt được thần Xương Cuồng chính là Không Lộ thiền sư.

P1170531Các thánh tượng đầu gỗ ở chùa Keo Thái Bình.

Với đầy đủ tam bảo: giáo chủ, giáo lý và tăng lữ, rõ ràng phái Không Lộ có thể được coi là một Đạo, phổ biến và có vai trò lớn dưới thời Lý. Vua Lý cũng là đệ tử của giáo phái này (Lý Thần Tông là hóa thân của Từ Đạo Hạnh) và giáo chủ Không Lộ được tôn làm Lý triều quốc sư. Đây mới là tôn giáo chính của nước ta dưới thời nhà Lý.

Liễu Hạnh công chúa, người khởi xướng Đạo Mẫu Tứ phủ

Trong tín ngưỡng Tứ phủ vai trò của Thánh mẫu Liễu Hạnh được đề rất cao, được coi là “giáo chủ” của của tín ngưỡng này với vị trí Đệ nhất Thiên tiên thay thế cho cả Thượng thiên thánh mẫu. Lý do nào dẫn tới sự tôn sùng đặc biệt đối với Mẫu Liễu như vậy? Cho dù bà là một nhân vật xuất hiện khá muộn trong lịch sử và nếu xét về công nghiệp hộ quốc an dân thì bà Liễu Hạnh không có thành tích gì to lớn.
Nếu nói Liễu Hạnh là người đã khởi xướng Đạo Mẫu ở Việt Nam thì chắc ai cũng đồng tình. Tuy nhiên như vậy thì ra trước khi Mẫu Liễu xuất hiện ở Việt Nam chưa có đạo Mẫu? Chi tiết này ít người chú ý nhưng lại là điểm then chốt để nhìn nhận công nghiệp của thánh mẫu Liễu Hạnh.

IMG_4656

Thủy đình ở phủ Vân Cát tại Vụ Bản, Nam Định

Mẫu Liễu được tôn là một trong bốn vị thần bất tử, thay chỗ cho cả Từ Đạo Hạnh hay Nguyễn Minh Không. Tuy vậy, 3 lần giáng sinh của bà thực ra không có gì đáng kể về công tích. Lần thứ nhất bà giáng sinh ở Vi Nhuế (Vụ Bản, Nam Định) trong một gia đình giàu có họ Phạm. Trong lần giáng sinh đầu này bà là người rất có hiếu với cha mẹ, không lấy chồng, giúp đỡ nhân dân xây đường, đắp cầu, dựng chùa. Bà có tiếng tăm tốt (hiếu, trinh, từ) nên khi mất được người dân tôn làm phúc thần.
Lần giáng sinh thứ hai của Liễu Hạnh ở Vân Cát (Vụ Bản, Nam Định) vào nhà họ Lê, kết duyên với chồng họ Trần, sinh 2 con rồi hóa sớm năm 20 tuổi. Lần thứ ba bà giáng sinh ở Thanh Hóa, lấy chồng là kiếp sau của ông Trần Đào là Mai Thanh Lâm, sinh được 1 con trai, rồi cũng hóa sớm.

IMG_4375

Nghi môn Nguyệt Du cung (Phủ Bóng) ở Phủ Giầy.

Sự kỳ lạ của câu chuyện Liễu Hạnh công chúa thực sự nằm ở các diễn biến sau đó. Ghi chép của tác giả Nguyễn Văn Huyên về hành tích của Mẫu Liễu trong cuốn Sự thờ cúng các thần tiên ở Việt Nam:
… Khi mãn hạn đi đầy, nàng chết. Nhưng thay vì trở về thiên đình nàng ở lại trên trái đất, khi thì dưới dạng một người đàn bà đi đường hoặc bán hàng, khi thì là một cô hàng nước để khiêu khích tình dục của người trần.
Tất cả những ai làm trái ý nằng đều bị nàng làm cho chết. Hơn nữa, để thỏa cơn giận, nàng còn giết hạ cả súc vật, gây nên sự kinh hoàng trong nhân dân vùng Sơn Nam. Để nàng nguôi giận tại nhiều làng người ta phải lập đền thờ nàng.
Sau đó nàng đến tỉnh Thanh Hóa. Nàng đến bất cứ đâu thì ở đó súc vật chết hàng loạt và các vị thần thành hoàng đều lánh xa, để tránh nàng.
Tới vùng Sùng Sơn, thấy phong cảnh  ngoạn mục, nàng quyết định ở lại đấy. Ngay đêm hôm đó, nàng báo mộng cho các vị chức sắc trong làng, ra lệnh cho họ phải xây cất ngay những ngôi đền để thờ nàng, nếu không thì chết chóc sẽ tàn phá cả vùng.
Từ khi đó, trong năm ngày liền, dân làng chết hàng loạt. Vì vậy người ta quyết định theo lời chỉ dẫn trong mộng, xây cất những ngôi đền tại Sùng Sơn để thờ nàng.
Mô tả của tác giả Nguyễn Văn Huyên hơi có ác ý khi nhìn nhận những hành động của Mẫu Liễu. Cách kể khác nhẹ nhàng hơn của các tín đồ đạo Mẫu về hành trạng này:
Nhiều làng trên đất nước cũng lập phủ thờ Mẫu. Chúa đi du ngoạn các danh lam thắng cảnh cùng hai vị công chúa. Thấy phong cảnh vùng Sòng Sơn non xanh nước biếc, Chúa dừng lại hiển thánh nhiều lần tỏ sự uy linh. Đêm đêm Tiên Chúa vùng hai vị Tiên nữ nằm mắc võng giữa rừng cây, ban ngày hiện thành bà già bán quán, thiếu nữ ca hát trên đường, kẻ nào qua đường mà chứ trêu ghẹo thì chắc chắn gặp tai ương. Chiều tà sẩm tối thì kéo quân binh rầm rập đi tuần khắp nơi, dân làng nghe tiếng phải đi ngủ sớm, những tên hoà lý sâu mọt trong làng thường bị xử phạt, thậm chí cho người đột nhập vào làng bắt trói lý trưởng nhốt xuống giếng sâu, hoặc bắt các kỳ mục trong làng treo lên cây cho nhịn đói.
Gạt bỏ đi những quan niệm nhìn nhận về Mẫu Liễu từ các khía cạnh khác nhau, những ghi chép trên cho thấy Mẫu Liễu đã hành động rất tích cực không phải chỉ vì tính ngang tàng, phá phách. Mục đích chính của những hành động này được nói rất rõ khi hiển mộng: “Ra lệnh cho họ phải xây cất ngay những ngôi đền để thờ nàng”. Đây mới là động cơ chính cho sự tung hoành của Chúa Liễu. Mục tiêu chính mà bà yêu cầu là phải đưa các nữ thần vào trong thần điện phụng dưỡng thờ cúng. Đòi hỏi sự chia sẻ “thần quyền” cho phái nữ này sẽ dễ dàng hiểu được nếu biết bối cảnh về tín ngưỡng Tam phủ lúc đó.

Song Son 2Đền Sòng ở Thanh Hóa.

Các di tích đền Tam phủ còn lại tới nay cho thấy trước khi Thánh mẫu Liễu Hạnh xuất hiện, tín ngưỡng Tam phủ gồm Thiên phủ, Địa phủ và Thủy phủ với 3 vị thần chủ là: Ngọc Hoàng thượng đế, Diêm La thiên tử và Long Vương Bát Hải. Ở thời gian này các phủ chưa hề có mặt các nữ thần với vai trò thần chủ như trong hệ thống Tứ phủ hiện nay. Việc đưa các nữ thần vào Tứ phủ thành các Mẫu, sánh ngang cùng với với các vị vua cha chính là công lao của mẫu Liễu Hạnh.
Chúa Liễu đã phải giáng sinh 3 lần, rồi khổ công đi Bắc (Lạng Sơn biên giới phía Bắc) vào Nam (tới Đèo Ngang, tức là biên giới phía Nam của nước ta thời đó) để “vận động hành lang” nhằm nâng cao vai trò của thần nữ trong Việt điện. Cuối cùng Chúa cũng phải ra mặt, yêu cầu gắt gao ở Sòng Sơn, dẫn đến cuộc đại chiến với các nam thần của Nội Đạo Tràng.
Đi sâu vào lai lịch của ba vị quan thánh đã đối đầu với Chúa Liễu trong trận chiến Sòng Sơn ta sẽ hiểu hơn, đây thực chất là cuộc đấu tranh của các tín đồ Tam phủ thờ nam thần chống lại đòi hỏi vị trí cho các nữ thần trong các phủ. Ba vị quan thánh là các con đầu của Thượng sư họ Trần có tên Nhật Quang, Nguyệt Quang và Ngọc Quang. Đây là khái niệm về Tam tài gồm Thiên (Nhật – Dương), Địa (Nguyệt – Âm) và Nhân (Ngọc). Sau này 3 vị quan thánh cũng được phân chia cai quản Tam phủ gồm Thiên đình, Trái đất và Người trần.
Nói cách khác, ba vị quan thánh là đại diện cho tín ngưỡng Tam phủ thờ nam thần khi đó. Chữ “Nội đạo” liệu có phải hiểu nghĩa là đạo Cha, đạo thờ nam thần, đối lập với “đạo Mẫu” do Chúa Liễu khởi xướng (“Ngoại đạo”, đạo bên ngoại)?

Den Mau Lang Son

Phủ Mẫu ở Lạng Sơn.

Chúa Liễu đã phải so tài “văn’ với Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan, rồi đấu “võ” với các đạo sĩ của Tam phủ. Kết cục được kể là Ba vị quan thánh đã bắt được Chúa Liễu, buộc bà quy y Phật. Nhưng thực ra thắng lợi đã thuộc về Chúa Liễu vì bà được sắc phong là Chế Thắng Hòa Diệu đại vương và được phụng thờ khắp nơi. Tức là mục đích về nâng cao “thần quyền” cho nữ giới đã đạt được. Từ đó cũng xuất hiện Đạo Mẫu Tứ phủ, thay chỗ cho Nội đạo Tam phủ, khi mà mỗi phủ đều có 1 vị Vua cha và 1 Thánh mẫu song hành làm thần chủ. Cùng với việc Mẫu Liễu được tôn vào ngôi Thiên chủ, hai vị mẫu khác là Mẫu Thượng ngàn và Mẫu Thoải cũng được lập thành Tam vị thánh mẫu, thờ phụng trên cả nước.
Câu đối về Mẫu Liễu ở Phủ Giầy:
廾一在人間身是姮娥心是佛
重三皈帝命家稱慈母國稱王
Củng nhất tại nhân gian, thân thị Hằng Nga tâm thị Phật
Trùng tam quy đế mệnh, gia xưng từ mẫu quốc xưng vương.
Dịch:
Hai mốt ở nhân gian, thân ấy Hằng Nga tâm ấy Phật
Ba lần theo mệnh đế, nhà xưng từ mẫu nước xưng vương.

Mau Lieu

Khám thờ Mẫu Liễu ở đền Sòng, Thanh Hóa.

Với nhìn nhận công đức của Thánh mẫu Liễu Hạnh như trên thì nay Đạo Mẫu Tứ phủ đã có thể được gọi là Đạo vì nó có đầy đủ các yếu tố “Tam bảo”:

  • Giáo chủ: Thánh mẫu Liễu Hạnh.
  • Giáo lý: Tôn thờ nữ thần.
  • Tăng lữ: số người theo tín ngưỡng này hiện rất nhiều là các thanh đồng của các di tích, điện thờ Mẫu trong cả nước.

Hưng Đạo đại vương và Tam tứ phủ

Nghi monĐền Trần Thương thờ Trần Hưng Đạo ở Lý Nhân, Hà Nam.

Trong tín ngưỡng thờ Trần triều thì người được thờ chính là Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn, vị tướng tài từng hai lần đánh thắng quân Nguyên Mông. Nhưng điều khá lạ là ở các nơi thờ Hưng Đạo đại vương, hai ban thờ hai bên thường lại thờ các thần Nam Tào và Bắc Đẩu. Thậm chí như ở khu vực Vạn Kiếp của Hải Dương, đền thờ Nam Tào và Bắc Đẩu còn được xây dựng riêng hai bên đền thờ Trần Hưng Đạo ở giữa.

Nam TaoBan thờ Nam Tào ở đền Trần Thương.

Nam Tào Bắc Đẩu là những vị thần quan nắm sổ sinh sổ tử ở dưới Địa ngục. Vị vua ở giữa mà 2 vị này theo hầu như thế phải là người cai quản Địa phủ, tức Diêm vương. Cách thực đặt Nam Tào và Bắc Đẩu ở hai bên Hưng Đạo đại vương cho thấy tín ngưỡng xưa cho rằng chính Hưng Đạo đại vương là người cai quản Địa phủ hay là Vua cha của Địa phủ.
Thông tin về Trần triều còn cho rằng: “Khi hóa Đức thánh đã về thiên đình nhận chỉ của Ngọc Hoàng phong là Cửu Thiên Vũ Đế, với sứ mệnh diệt trừ yêu ma ở cả 3 cõi thiên đình, trần gian, âm phủ”. Điều này hoàn toàn phù hợp với nhận định ở trên, rằng Hưng Đạo đại vương là vị vua của Địa phủ. Cửu thiên không phải là 9 tầng trời như Cửu trùng. Cửu là số 9 chỉ hướng Tây, hướng của sự quy về, của cõi người đã khuất. Cửu Thiên tức là trời Tây hay Địa phủ.
Thậm chí có chỗ còn cho rằng: “Hưng Đạo đại vương được tôn là Ngọc Hoàng thượng đế, vị giáo chủ Đạo Giáo Việt Nam“. Rõ ràng Trần Hưng Đạo là một Đạo sĩ, thì mới có thể làm giáo chủ Đạo Giáo. Trần Quốc Tuấn được tôn thờ không phải chỉ do tài đánh giặc. Hưng Đạo nghĩa là chấn hưng Đạo Giáo. Trần Quốc Tuấn vốn là một đạo sĩ, có thể từ trước khi quản lý quân đội.
Quốc Công Tiết Chế Hưng Đạo Đại Vương là tác giả của tác phẩm Vạn Kiếp tông bí truyền thư (萬劫宗秘傳書), còn gọi là Vạn Kiếp binh thư. Về cuốn này còn lưu được bài tựa của Trần Khánh Dư như sau:
“Phàm người khéo cầm quân thì không cần bày trận, khéo bày trận thì không cần giao chiến, khéo giao chiến thì không thể thất bại, khéo thất bại thì không thương vong. Xưa kia, Cao Dao làm chức sĩ sư mà mọi người không dám trái mệnh, Văn Vương và Vũ Vương nhà Chu là bậc thầy về văn và về võ, ngấm ngầm sửa đức để khuynh loát quyền bính của nhà Thương mà lấy nghiệp vương. Đó đều có thể gọi là những người giỏi cầm quân, không cần bày trận vậy. Vua Thuấn múa lá mộc và lông trĩ mà họ Hữu Miêu tự mình tìm đến, Tôn Vũ nước Ngô đem mỹ nhân trong cung thử tập trận mà phía tây phá nước Sở hùng cường, phía Bắc ra uy với nước Tần nước Tấn, nổi tiếng khắp chư hầu. Đó đều có thể gọi là những người giỏi bày trận, không cần giao chiến vậy. Cho đến Mã Ngập nước Tấn dựa vào bát trận đồ chuyển đánh nghìn dặm, phá được Thụ Cơ Năng mà lấy lại Lương Châu. Thế gọi là người giỏi giao chiến không bao giờ thất bại vậy.
Cho nên, trận nghĩa là bày ra, là khéo léo. Ngày xưa, vua Hiên Viên lập ra phép “tỉnh điền” để đặt binh chế, Gia Cát Lượng xếp đá bên sông để làm bát trận, Vệ công sửa lại làm trận Lục Hoa, Hoàn Ôn định ra trận Xà Thế, trước sau đều có trận đồ nổi tiếng, trình bày tuần tự, thành phép tắc rõ ràng. Nhưng người đương thời ít ai thông hiểu, muôn vàn đầu mối nhìn vào dường như rối loạn, chưa từng nắm được lẽ biến dịch bên trong. Ví như những phép tắc và suy luận của Lý Thuyên, người sau không ai hiểu nghĩa là gì.
Vì thế, Quốc công ta bèn so sánh, kê cứu trận đồ và binh pháp của các nhà, tổng hợp lại thành một bộ sách. Tuy chép cả những điều chi tiết, nhưng người sử dụng thì nên bỏ bớt những chỗ rườm, tóm lấy thực chất. Rồi lấy năm hành ứng với nhau, chín cung câu với nhau, phối hợp cương và nhu, xoay vần chẵn và lẽ, không làm hỗn loạn âm dương và thần sát, phương lợi và sao tốt, hung thần và ác tướng, ba cát và năm hung, việc nào việc ấy thực phân minh rõ rệt. Quốc công lại còn thêm bớt với chiến thuật của thời Tam đại, nhờ đó trăm trận trăm thắng. Cho nên đương thời phía bắc làm cho Hung Nô phải sợ, phía tây làm cho Lâm Ấp phải kinh. Rồi ông đem sách này dạy bảo con em làm gia truyền, không tiết lộ cho người ngoài biết. Lại có lời dặn rằng: “Sau này con cháu và bề tôi phò tá của ta có học được bí thuật này thì nên lấy đầu óc sáng suốt, linh hoạt mà thực hành và sắp đặt nó, chứ không nên lấy đầu óc cứng nhắc, tối tăm mà cất giữ và lưu truyền. Nếu trái đều đó thì sẽ mang vạ vào thân, lại hại lây đến cả con cháu. Đó gọi là tiết lậu cơ trời vậy
.”
Bài tựa của Trần Khánh Dư cho Vạn Kiếp tông bí truyền thư toàn nói tới các vua Trung Hoa từ thời cổ đại: Cao Dao, Chu Văn, Vũ, Thuấn, Hiên Viên… Vậy là “truyền thư này” được xây dựng trên nền tảng tri thức của Trung Hoa cổ đại và quan niệm thời Trần cho thấy Trung Hoa cổ đại là lịch sử cổ của người Việt.
Kỳ lạ nhất là câu: “Cho nên đương thời phía bắc làm cho Hung Nô phải sợ, phía tây làm cho Lâm Ấp phải kinh“. Nhà Trần Đại Việt sao lại Bắc giáp Hung Nô, Tây giáp Lâm Ấp? Hung Nô ở phía Bắc Đại Việt là nước nào? Lâm Ấp ở phía Tây Đại Việt là chỗ nào?
Trong bối cảnh của nước Đại Việt thời Trần thì rõ ràng Bắc Hung Nô ở đây là chỉ quân Mông Thát. Quân Nguyên được gọi là giặc Hung Nô. Còn Tây Lâm Ấp hẳn là chỉ khu vực đất Lào và Tây Bắc Việt. Đây vốn là đất thuộc Nam Chiếu. Vậy là Lâm Ấp không chỉ là miền Trung Việt, nơi mà thời Trần đã là nước Chiêm Thành. Lâm Ấp mãi tới thời Lý Trần vẫn dùng chỉ khu vực Tây Bắc và Lào.
Từ bài tựa của Trần Khánh Dư ta thấy Trần Hưng Đạo là người rất thông hiểu Dịch lý và đã vận dụng nó vào thực tế chiến tranh (binh thư) một cách thành công. Điều này minh chứng thêm khả năng ông là một Đạo sĩ, nghiên cứu Dịch học từ trước khi nắm giữ quân đội.
Trong quan niệm xưa, Ngọc Hoàng thượng đế là người đã qua vạn kiếp tu hành. Như thế tên “Vạn Kiếp” ở đây có thể nghĩa là chỉ Ngọc Hoàng. Mà như trên đã dẫn, dân gian coi Hưng Đạo đại vương là Ngọc Hoàng, có quan Nam Tào Bắc Đẩu theo hầu. Vạn Kiếp tông bí truyền thư như thế có thể hiểu là cuốn sách bí truyền của dòng họ Trần (Trần Hưng Đạo = Ngọc Hoàng = Vạn Kiếp).
Đôi câu đối chính điện đền Trần Thương ở Lý Nhân, Hà Nam:
陳迹補豐碑鴻貉江山鳴厘劎
蒼煙懷萃廟龍珠水月駐行旌
Trần tích bổ phong bi, Hồng Lạc giang sơn minh lý kiếm
Thương yên hoài tụy miếu, long châu thủy nguyệt trú hành tinh.
Dịch:
Vết Trần cộng bia hoa, Hồng Lạc núi sông vang kiếm lệnh
Khói Thương nhớ miếu rộng, giếng rồng trăng nước dựng cờ hành.

IMG_5124 (2)Đền Tam phủ ở thành phố Bắc Ninh.

Bàn thêm về vấn đề hình thành Tam và Tứ phủ. Tam phủ được biết là có trước Tứ phủ, nhưng hiện không rõ Tam phủ ban đầu gồm những phủ nào và gồm những vị thần nào. Khi xuất hiện Tứ phủ thì quá trình thay đổi hệ thống thần điện diễn ra như thế nào?
Hiện tại ở tỉnh Bắc Ninh còn lưu được một số di tích đền Tam phủ như đền ở thành phố Bắc Ninh và ở bến Bình Than (xã Cao Đức, huyện Gia Bình, Bắc Ninh). Những đền này thờ 3 vị vua chí tôn là (theo thông tin của đền ở thành phố Bắc Ninh):

  • Thiên phủ Đại thiên Thiên đế
  • Địa phủ Diêm la Thập điện Minh vương
  • Thủy phủ Đại thiên Long chúa Bát hải Long vương.

IMG_5130 (2)Điện thờ quan Tam phủ.

Như vậy, Tam phủ ban đầu gồm Thiên phủ, Địa phủ và Thoải phủ. Đặc biệt hơn là các phủ này đứng đầu là các vị đế vương chứ chưa có các nữ thần mẫu trong các phủ.
So với hệ thống Tứ phủ hiện nay ta thấy từ Tam phủ sang Tứ phủ đã bổ sung thêm:

  • Mỗi phủ thêm 1 vị mẫu chủ cùng với vua cha của phủ đó.
  • Thêm Nhạc phủ với Mẫu thượng ngàn đứng đầu. Vua cha Nhạc phủ vốn không có mặt trong Tam phủ, trong tứ phủ cũng không hiện hữu một cách rõ ràng.

Có thể thấy Tứ phủ xuất hiện cùng với sự ra đời của thánh mẫu Liễu Hạnh và các phủ đều được bổ sung vai trò thần chủ của các mẫu, song song và thay cho các vị vua cha Tam phủ trước đó. Như thế có thể nói Tứ phủ được gọi là đạo Mẫu vì nó đề cao vai trò của các nữ thần. Trong khi  trước đó Tam phủ chỉ dừng lại ở quan niệm 3 cõi Thiên Địa Thủy do các nam thần đế vương cai quản.
Câu đối ở cổng đền Tam phủ tại thành phố Bắc Ninh:
耿耿鸞輿來法會
森森鶴駕降香筵
Cảnh cảnh loan dữ lai pháp hội
Sâm sâm hạc giá giáng hương diên.
Dịch:
Lấp lánh xe loan đến hội pháp
Trầm trầm giá hạc xuống chiếu hương.

Tứ pháp và Thái Thượng Lão Quân ở Hà Nam

IMG_4586

Chùa Bà Đanh nằm bên dòng sông Đáy cạnh hòn núi Ngọc là một thắng cảnh có tiếng của đất Hà Nam. Chùa còn có tên là Bảo Sơn tự, tương truyền rằng vào thế kỷ thứ VII, đây là một ngôi đền nhỏ thờ Tứ pháp, đến thời Lê chùa được xây dựng đàng hoàng và to đẹp hơn. Câu đối trong chùa ca ngợi cảnh đẹp và sự linh thiêng của ngôi chùa độc đáo này:
神界寂空水鏡山鬟層閣外
靈蹤彷彿竹響松濤半天来
Thần giới tịch không, thủy kính sơn hoàn tằng các ngoại
Linh tung phảng phất, tùng đào trúc hưởng bán thiên lai.
Dịch:
Cõi thần lặng không, núi bọc nước soi tầng gác trước
Dấu thiêng phảng phất, trúc reo thông vẫy nửa trời qua.

IMG_4581 (2)Chùa Bà Đanh – núi Ngọc.

Trong cung cấm của chùa ngoài một pho tượng Tứ pháp còn có tượng Phật Tam Thế cùng với Thái Thượng Lão quân và Nam Tào, Bắc Đẩu. Câu đối trong chùa nói về Tứ pháp:
榕化靈光儕四法
梅修品格遇三乘
Dong hóa linh quang sài tứ pháp
Mai tu phẩm cách ngộ tam thừa.
Dịch:
Cây dung hóa thiêng cùng Tứ pháp
Cốt mai tu phẩm rõ Tam thừa.
Câu đối này nói tới sự tích bà Man Nương thời Sĩ Nhiếp ở thành Luy Lâu, theo thầy Khâu Đà La tu hành, sau đó sinh một đứa con gái, được thầy làm phép gửi vào trong một cây dung thụ bên sông. Về sau cây dung thụ được dùng để tạc tượng Tứ pháp, là các vị thần cầu mưa linh ứng ở khu vực này.
Tứ pháp gồm 4 vị nữ thần Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện. Dân gian gọi là các Bà Dâu, Bà Dàn, Bà Đậu, Bà Nành, … tùy từng địa phương. Có nhiều ý kiến cho rằng các “bà” ở đây là ảnh hưởng tín ngưỡng thờ thần của người Chăm, do các tù binh Chăm thời Lý Trần Lê lập nên…
Mây Mưa Sấm Chớp thực ra là 4 tính chất của Đế Thích hay thần dông tố Indra, một vị thần tối cao của đạo Bà Là Môn. Có thể chữ “Bà” trong tên “Bà Đanh” ở đây chính là chỉ đạo Bà – La Môn. Chữ “Bà” này không phải là yếu tố ảnh hưởng của người Chăm từ Trung Bộ Việt như thường nghĩ. Khu vực Trung Bộ Việt vào đầu Công nguyên đang thuộc cai quản của Sĩ Nhiếp ở miền Bắc. Khâu Đà La, Sĩ Nhiếp thực chất là các tu sĩ của đạo Bà La Môn. Do đó, nếu đạo Bà La Môn phổ biến ở Giao Chỉ thì cũng phổ biến ở miền Trung. “Người Chăm” miền Trung như vậy chịu ảnh hưởng tín ngưỡng của người Việt ở miền Bắc trong trường hợp này.

Một chút bàn luận về nhân vật Sĩ Nhiếp trong sử Việt của tác giả Văn Nhân Nguyễn Quang Nhật: Sử hiện nay cho Sĩ Nhiếp có tên khác là Sĩ Tiếp. Suy nghĩ theo hướng khác thì Sĩ không phải là họ mà chỉ kẻ Sĩ hay người có học. Sĩ Tiếp là quan triều Lý Bôn (Lưu Bang) và Vương Mãn. Cuối thời Vương Mãn bọn Lục Lâm thảo khấu nổi loạn chiếm kinh đô Tràng An, giết vua Vương Mãn. Không còn vua và triều đình trung ương, khắp nơi các quan đầu mục nổi lên xưng tướng, xưng vương. Riêng Sĩ Tiếp chỉ đóng cửa giữ thành, bảo an dân chúng… Phải chăng chính vì thế mà sử gọi là Sĩ Tiếp? Chữ “tiếp” là tiếp tục – tiếp nối…
Thời Hai Bà Trưng sử hiện nay bỏ qua hẳn chi tiết Mã Viện sau khi diệt Đô Dương bộ tướng của Trưng Vương thì nghị hoà… 2 nước Hán – Trưng nhà ai nấy ở. Biên giới được đánh dấu bằng cột đồng ở động Cổ Sâm – Khâm Châu, nay thuộc Quảng Tây. Tư liệu viết trên cột đồng khắc câu … trụ đồng gãy thì Giao Chỉ… tiêu đời… tức rất rõ ràng lúc cắm cột đồng phân ranh thì Giao Chỉ còn nguyên…
Do bỏ hẳn đoạn sử này nên sử cả ta và Tàu quên luôn không nói gì đến “nước” và bộ máy lãnh đạo quốc gia trên đất Giao Chỉ thời hậu Trưng này.
Sử thuyết Hùng Việt cho rằng thủ lãnh nước hậu Trưng chính là Sĩ Nhiếp – Ngạn Uy được chép trong sử.
Sĩ Nhiếp tức kẻ sĩ nhiếp quyền, đặt kinh đô nước hậu Trưng ở Luy Lâu, sau theo về với Tôn Quyền. Luy Lâu trở thành thủ phủ của Giao Châu như chép trong sử.
Quan điểm của Sử thuyết Hùng Việt là: lịch sử Thiên hạ không có thời Tam quốc, chỉ có thời Lưỡng quốc kháng Ngụy. 2 nước Thục và Ngô của người Trung Hoa vừa đánh lẫn nhau vì thù trong, vừa cùng nhau chống lại nước Ngụy của Hán tộc, tức giặc ngoài.
Gần đây việc khai quật thành Luy Lâu lần 2 đã phát hiện tới 900 mảnh khuôn đúc trống đồng với đủ loại hoa văn đặc trưng của trống đồng Đông Sơn. Niên đại của lò đúc trống đồng này ước định quãng thế kỷ 3-4.
Luy Lâu, thủ phủ Giao Châu thời Sĩ Nhiếp là đất của người Việt, nên ở đấy đúc trống đồng theo tục Việt là hoàn toàn hợp lẽ. Còn theo sử hiện nay đấy là thời Hán thuộc thì sự việc Luy Lâu đúc trống cũng giống như nước Hồi giáo chế mõ tụng kinh Phật vậy… Làm gì có việc như thế.

Vi keo

Bộ vì kèo ở chùa Bà Đanh.

Đôi câu đối ở khu tiền tế bên ngoài chùa Bà Đanh:
地湧寒江傳妙決
天移蓬島在人間
Địa dũng hàn giang truyền diệu quyết
Thiên di bồng đảo tại nhân gian.
Dịch:
Đất phun sông mát truyền phép lạ
Trời chuyển đảo bồng chốn nhân gian.
Câu đầu chỉ phép màu của Tứ pháp tạo nguồn nước cứu hạn cho nhân dân. Vế đối sau ca ngợi cảnh đẹp ở đây như chốn Bồng Lai tiên cảnh. Có thể câu này ứng với tục thờ Thái Thượng Lão Quân trong chùa, là một nơi tiên tích của đạo Giáo.

Bao Son tu

Chính điện Bảo Sơn tự.

Câu đối ở gian giữa chùa Bà Đanh:
化鼓两間司橐籥
功高四法凜靈聲
Hóa cổ lưỡng gian tư thác thược
Công cao tứ pháp lẫm linh thanh.

Vế đối sau thì ý tứ khá rõ ràng, công của Tứ pháp to lớn, vang vọng mãi tiếng thiêng. Còn vế đối đầu tương đối khó hiểu. Vế này sử dụng từ ngữ trong Đạo Đức Kinh, chương 5 – Thiên Thượng:
Thiên địa chi gian, kì do thác thược hồ
Tạm dịch là Trời đất là không gian, giống như cái ống bễ vậy.
“Hóa cổ” là cái trống Tạo hóa. Cả vế này “Hóa cổ lưỡng gian tư thạc thược” hiểu nôm na là: Trống Hóa Công có 2 gian (Trời và Đất) thì (ngài) cai quản cái ống bễ nối chúng.
Đối tượng được nói đến ở đây là người cai quản sự liên thông giữa trời và đất chính là Thái Thượng Lão Quân. Vế đối này như vậy ca ngợi vai trò, quyền lực của Thái Thượng Lão Quân.
Câu đối trên là dẫn chứng một cách rõ ràng rằng chùa Bà Đanh thờ Thái Thượng Lão Quân như một đối tượng thờ chính, sánh ngang cùng với Tứ pháp, chứ không phải phối thờ.
Chùa Ba Đanh như vậy thờ tới 3 tôn giáo:

  • Tứ pháp là đạo Bà La Môn.
  • Đạo Phật, và
  • Đạo Lão.

Đây không phải mô hình Tam giáo đồng lưu thông thường vì không có yếu tố “Nho giáo” trong chùa này. Chắc chắn tục thờ cúng này có nguồn gốc, có lịch sử hình thành riêng của nó. Tại sao Thái Thượng Lão Quân lại được thờ cùng Tứ pháp ở chùa Bà Đanh?
Thần tích vùng Phủ Lý, Hà Nam giải đáp câu hỏi này. Theo thần tích của xã Phù Đạm thì Thái Thượng Lão Quân, hiệu là Lý Bá Hoành, tự là Lão Đam, húy là Thái Ông. Ngài giáng sinh đầu thai ở thôn Kim Chân, xã Thúc Lực…
Ngài vốn tính thông minh, thông hiểu thiên văn địa lý. Ngài đem đạo phù thủy truyền bá cho nhân dân. Ngài đến xã Phù Khê (tức Phù Đạm) thấy nhân dân trong xã bị dịch chết quá nửa. Ngài bèn đóng giả một cụ già viết 1 đạo bùa thổi vào trong xã, bao nhiêu người bị bệnh trong xã đều khỏi…

P1210273Đình Phù Vân ở Phủ Lý.

Thôn Phù Vân của xã Phù Đạm xưa nay thuộc thành phố Phủ Lý. Đình Phù Vân vẫn còn lưu giữ được tục thờ Thái Thượng Lão Quân ở đây. Theo thần tích trên Thái Thượng Lão Quân chính là Lão Tử, vị tổ sư của Đạo Giáo. Lão Tử giáng sinh ở ngay khu vực Hà Nam của nước ta, từng chữa dịch bệnh cho nhân dân trong vùng. Đó là lý do tại sao khu vực Hà Nam lại thờ Thái Thượng Lão Quân như ở chùa Bà Đanh. Các di tích và truyền tích ở Hà Nam là minh chứng về quê hương bản quán của Lão Tử ở Việt Nam, ngay trên đất Hà Nam.
Câu đối khác ở chùa Bà Đanh:
一息蓬蓬八表遊行天地使
層臺屹屹萬家欹頌海山僊
Nhất tức bồng bồng, bát biểu du hành thiên địa sử
Tằng đài ngật ngật, vạn gia y tụng hải sơn tiên.
Dịch:
Một thoáng bồng bồng, tám phương du hành khiển trời đất
Hai tầng ngân ngất, vạn nhà khen tụng thần núi sông.

Các bộ tứ trong thần điện Việt: Tứ pháp

Tứ pháp là bộ bốn vị thần Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện (Mây, Mưa, Sấm, Chớp), được kể trong Truyện Man Nương. Chuyện xảy ra dưới thời Sỹ Nhiếp, liên quan tới vị sư đến từ Ấn Độ là Khâu Đà La. Tứ pháp được tạo tượng thờ từ thân cây dung thụ, nơi ẩn chứa đứa con gái của Man Nương và Khâu Đà La và được tin là các thần cầu mưa rất linh ứng.
Sự tích Tứ pháp được tóm tắt trong câu đối sau ở chùa Đậu (chùa Thành Đạo thờ Pháp Vũ ở Thường Tín, Hà Nội):
萬古仰玄功涸潤枯繁嘉惠普霑南海甸
两間鍾灝氣樹藏石化慶源溯自士王朝
Vạn cổ ngưỡng huyền công, hạc nhuận khô phồn, gia huệ phổ triêm Nam hải điện
Lưỡng gian chung hạo khí, thụ tàng thạch hóa, khánh nguyên tố tự Sỹ Vương triều.
Dịch:
Vạn năm ngưỡng phép thiêng, thấm hạn tưới khô, ơn lành phủ khắp điện Nam Hải
Hai gian đúc khí lớn, giấu cây hóa đá, nguồn tốt đến từ triều Sỹ Vương.
Thụ tàng” chỉ chuyện Man Nương sinh con, mang cho Khâu Đà La, Khâu Đà La giấu đứa bé trong cây Dung thụ, sau trở thành Tứ pháp. “Thạch hóa” chỉ chuyện phần cây Dung thụ có đứa bé con Khâu Đà La cứng như đá, rìa búa bổ vào đều mẻ. Sau được tạc thành Thạch Quang Phật.
Trong các bài viết trước đây đã từng xác định, Tứ pháp là bốn tính chất hay là hiện thân của thần dông tố Indra, vị thần tối cao của đạo Bà La Môn. Khâu Đà La và bản thân Sỹ Nhiếp là những tu sĩ theo Bà La Môn giáo.

Bia chua DauBia đá “Tu tạo Pháp Vũ tự bi” chùa Đậu.

Chùa Đậu ở Thường Tín còn gọi là chùa Vua, không phải là chùa dành cho vua chúa (Sỹ Nhiếp không xưng vua), mà là chùa thờ Vua. Vua ở đây là thần Phạm Thiên – Đế Thích của đạo Bà La Môn. Chùa này theo các tư liệu vốn có tên là Kính Thiên điện hay điện thờ Trời.
Tương tự, ở thành phố Hà Nội cũng có chùa Vua thờ thần Đế Thích. Khu vực chợ gần đó gọi là chợ Trời, không phải là chợ ở ngoài trời, mà là khu vực thờ ông Trời. Chùa Vua đúng tên mà nay còn ghi ở đó là Thiên Đế điện.
Đế Thích là vị thần cai quản thời tiết và chiến tranh. Cũng vì vậy mà dân gian kể thành ra Đế Thích rất giỏi chơi cờ. Chơi cờ tướng là nghệ thuật điều binh khiển tướng, tức là tổ chức chiến tranh.

Thiên Đế điện – chùa Vua Hà Nội.

Đạo Bà La Môn như vậy rất thịnh hành dưới thời Sỹ Nhiếp ở cả miền Bắc và miền Trung Việt. Họ Phạm của Sĩ Nhiếp cũng như họ Phạm ở Lâm Ấp có thể vừa là pháp danh trong đạo, vừa là họ. Trong quan niệm của Bà La Môn thì tầng lớp thống trị là con của thánh thần. Thần Bà La Môn là Phạm Thiên nên người cai quản đất nước cũng mang họ Phạm.
Như thế trung tâm Luy Lâu vốn khởi đầu không phải là bởi Phật giáo mà là đạo Bà La Môn. Chỉ sau khi Sỹ Nhiếp mất thì Phật giáo ở đây mới bắt đầu nổi lên, bằng sự xuất hiện của sư tổ Khương Tăng Hội, chép dịch kinh và truyền đạo. Việc Khương Tăng Hội từng sang Kiến Nghiệp để thuyết giáo cho Tôn Quyền nay có thể hiểu lại.
Khi Sỹ Nhiếp mất, Tôn Quyền cho Lữ Đại sang thay họ Sỹ – Phạm cai quản Giao Châu. Việc Đông Ngô khuyến khích Phật Giáo ở Giao Châu như thế còn có ý nghĩa về chính trị, nhằm loại bỏ “tàn dư” của thời Sỹ Nhiếp do Bà La Môn giáo thống trị. Giao Châu từ đó chuyển sang chịu ảnh hưởng của đạo Phật. Trong khi khu vực miền Trung vẫn tiếp tục do họ Phạm lãnh đạo và tiếp tục theo Bà La Môn giáo. Khương Tăng Hội không chỉ từ Giao Châu sang thuyết giáo Tôn Quyền mà có thể đã dựa vào Tôn Quyền để khuếch trương Phật giáo tại Giao Châu, nơi vốn là lãnh địa của Bà La Môn giáo họ Phạm.
Vị sư tổ Thiền tông Khương Tăng Hội đã soạn các bản kinh bằng chữ Nho rõ ràng là với mục đích truyền bá Phật Giáo ở Giao Châu sau thời Sỹ Nhiếp. Tác phẩm Lục độ tập kinh của Khương Tăng Hội do đó không phải là kinh nguyên văn của Ấn Độ được dịch mà là sách do Khương Tăng Hội sáng tác với mục đích truyền giáo vào Giao Châu – Trung Quốc. Chính vì vậy mà trong Lục độ tập kinh ta thấy xuất hiện có những mô típ điển hình của truyền thuyết Việt như chuyện sinh trăm trứng hay chuyện sừng tê bảy tấc rẽ nước (An Dương Vương). Thiền sư Lê Mạnh Thát đã từng lấy đây làm dẫn chứng để cho rằng các truyền thuyết của nước ta là đi chép từ kinh của Ấn Độ. Như vậy là không hợp lý. Ngược lại, đây là những truyền thuyết Việt đã được Khương Tăng Hội vận dụng đưa vào trong kinh Phật để cho phù hợp với tâm lý và tư tưởng người Việt khi mới truyền giáo. Thủ pháp truyền giáo này được áp dụng ở thời kỳ đầu du nhập đạo Phật sang phương Đông như thời Đông Tấn có sư Tuệ Viễn đã dùng các điển tích của Trang Tử để giảng đạo Phật ở Trung Quốc.
Việc một khu vực chuyển từ ảnh hưởng của Bà La Môn giáo sang Phật giáo gặp rất phổ biến ở thời kỳ đầu của Phật giáo. Sự việc này được hình ảnh hóa thành ra 2 vị thần tối cao của Bà La Môn giáo là Indra (Đế Thích) và Brahma (Phạm Thiên) trở thành 2 vị hộ pháp khi Phật tổ ra đời. Trong các chùa ngày nay thường gặp tượng của Phạm Thiên và Đế Thích đặt ở 2 bên tượng Cửu long (Thích Ca sơ sinh) hoặc thờ thành ban Đức Ông riêng.

Duc OngBan thờ Đức Ông chùa Bộc.

Ở chùa Bộc có ban thờ Đức Ông nằm phía bên trái chính điện. Bức tượng Đức Ông này có quần áo trang phục như một vị vua và được cho là hình tượng của vua Quang Trung. Tuy nhiên, đôi câu đối hai bên ban thờ này chép:
洞裡無塵大地山河留棟宇
光中化佛小天世界轉風雲
Động lý vô trần, đại địa sơn hà lưu đống vũ
Quang trung hóa Phật, tiểu thiên thế giới chuyển phong vân.
Dịch:
Trong động bụi không, đất rộng núi sông lưu đền mái
Giữa quang phật hóa, một trời thế giới chuyển gió mưa.
Đoạn câu đối “tiểu thiên thế giới chuyển phong vân” là chỉ thần Đế Thích, vị thần cai quản chuyện làm mưa làm gió ở trên thế giới này đã theo Phật. Tứ pháp, Vân Vũ Lôi Điện, là hiện thân của thần Đế Thích, bắt nguồn từ Bà La Môn giáo du nhập vào Giao Châu dưới thời Sỹ Nhiếp. Sau này, từ khi Khương Tăng Hội soạn kinh và truyền giáo ở Giao Châu thì các điện thờ Tứ pháp mới chuyển hóa thành các chùa thờ Phật.

Các bộ tứ trong thần điện Việt: Hoa Lư Tứ trấn

Hoa Lư là kinh đô đầu tiên của nước ta tính từ thời phục hưng – độc lập, từ khi Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi tới khi nhà Lý dời đô về Thăng Long. Là kinh đô nên nơi đây cũng có bộ 4 vị thần đóng vai trò Tứ trấn, trấn giữ 4 phương của kinh thành. Không có tư liệu nào cho biết chính xác phương vị của Tứ trấn Hoa Lư, nhưng khi xét từng vị một sẽ thấy cần xoay lại phương vị này một góc 90 độ ngược chiều kim đồng hồ so với quan niệm hiên nay.
Hoa Lư nằm phía Nam của thành Thăng Long nên ở 2 phương vị Bắc và Nam, tứ trấn Hoa Lư trùng với tứ trấn Thăng Long.

Trấn Bắc – Thiên Tôn: Thiên Tôn là cách gọi khác của Huyền Thiên đại thánh mà thôi vì Lão Tử trong Đạo Giáo là Thái Thanh Đạo Đức Thiên Tôn. Thiên Tôn – Huyền Thiên phải là vị thần trấn Bắc, không thể là trấn Đông như quan niệm hiện tại ở Hoa Lư.
Công nghiệp của vị Thiên Tôn ở Hoa Lư trùng khớp với Huyền Thiên ở Cổ Loa, với thành tích chủ yếu là giúp Thục An Dương Vương xây thành. Nơi thờ chính là ở thôn Đa Giá (Ninh Mỹ, Hoa Lư). Tại đây có động Thiên Tôn và đền Đa Giá thờ thần. Ngọn núi nơi có động Thiên Tôn cũng được gọi là núi Vũ Đương Sơn, tức là ngọn núi mà Huyền Thiên đã tu hành trong truyền thuyết.
Động Thiên Tôn là một di tích rất cổ, là tiền đồn cửa ngõ của Hoa Lư. Ở đây tìm thấy cả những viên gạch Giang Tây quân (thời Đường) và Đại Việt quốc quân thành chuyên (thời Đại Việt) như dưới nền thành Hoa Lư. Phía trên động có một chùa nhỏ, nhưng không thờ Phật, mà thờ Tam Thanh (của Đạo Giáo) cùng với Quan Âm Diệu Thiện và cha mẹ của bà là Trang Vương và hoàng hậu. Chùa này cùng với động Thiên Tôn tương truyền do Cao Biền xây.
Tại sao Hoa Lư lại lấy thần Thiên Tôn làm thần trấn giữ cửa ngõ kinh thành? Nếu Cổ Loa là nơi Huyền Thiên – Lão Tử thành nghiệp, thì Ninh Bình rất có thể chính là quê hương, nơi sinh của Lão Tử – Thiên Tôn. Đó là lý do vì sao thần Thiên Tôn lại rất gắn bó với Hoa Lư.

Gach Dai Viet

Mảnh gạch có chữ Đại Việt ở động Thiên Tôn.

Trấn Đông – Quý Minh: Hiện tại vị thần này đang được cho là thần trấn Nam của Hoa Lư. Đền thờ chính của thần là đền Trần trong quần thể di tích danh thắng Tràng An. Trần là chữ ghép Đông A, chỉ vị thần trấn Đông.
Vì ở Hoa Lư có cả thần Cao Sơn và Quý Minh nên nhiều tác giả đã nhầm lẫn khi cho rằng đây là 2 người anh em của Tản Viên Sơn Thánh. Ở núi Ba Vì đúng là có bộ ba Tản Viên, Cao Sơn và Quý Minh, nhưng đó đều là các thần núi. Thần Quý Minh ở Hoa Lư lại là một vị thủy thần. Lễ hội Tràng An đặc trưng bởi tiết mục đua thuyền rồng, thể hiện rõ điểm này.
Trong đền Trần Tràng An còn có tượng thờ Quý Nương, là mẹ của Quý Minh. Đây cũng là điểm để phân biệt với thần Quý Minh trong Ba Vì. Quý Nương hay nàng Ba (trong thứ tự Mạnh, Trọng, Quý) là mẹ của vua cha Bát Hải Động Đình, vị thủy thần của biển Đông đánh Thục 4000 năm trước. Quý Minh tức là vị Quan thứ Ba hay Quan lớn đệ Tam Thoải phủ, là anh em cùng bọc trứng với vua cha Bát Hải. Vua cha Bát Hải như đã nói trong bài về Tứ phủ là Lạc Long Quân.
Quan lớn đệ Tam là người đứng đầu (Trưởng Lệnh) thủy binh của Lạc Long Quân, đứng đầu Ngũ vị tôn quan của ban Công đồng trong Tứ phủ. Nơi đóng quân và nơi hóa của vị này là ở Yên Lệnh (nơi an nghỉ của Trưởng Lệnh) hay ở đền Lảnh (Duy Tiên, Hà Nam). Phạm vị phía Đông Hoa Lư thuộc về khu vực hoạt động của Quan đệ Tam. Do đó Hoa Lư lấy Quý Minh làm thần trấn Đông là hợp lý.

Trấn Nam – Cao Sơn: Trong bài về Thăng Long Tứ trấn đã bàn nhiều tới nhân vật trấn Nam Cao Sơn và xác định đó là Cao Biền, thầy phong thủy nổi tiếng thời Đường. Cao Biền không chỉ là người xây thành Đại La mà còn là người xây thành cả Hoa Lư. Những viên gạch Giang Tây quân của Tĩnh Hải Tiết độ sứ Cao Biền xác thực việc này. Ngay chi tiết tiền đồn của Hoa Lư là động Thiên Tôn do Cao Biền xây cũng là dẫn chứng khác về đóng góp của Cao Biền với thành Hoa Lư. Cao Biền đánh giặc Nam Chiếu, tiến tới sào huyệt khởi nguồn của Nam Chiếu ở Nghệ Tĩnh, cho sửa chùa Hương Tích trên núi Hồng Lĩnh. Đó là vì sao ở động Thiên Tôn lại có di tích của Cao Biền dựng để thờ Quan Âm Diệu Thiện và Trang Vương (là 2 người thờ ở chùa Hương Tích – Hà Tĩnh).
Trấn Nam của Hoa Lư do đó là thần Cao Sơn hay Cao Biền – Cao Hiển. Một trong những nơi thờ  Cao Sơn là chùa Bái Đính cũ.
Theo bia ở đền Kim Liên thì nơi các vị tướng của Lê Tương Dực gặp đền Cao Sơn trong rừng là ở huyện Phụng Hóa, thuộc Nho Quan hoặc Tràng An, chưa rõ chính xác nơi nào.

Dam HoaBan thờ vợ Cao Hiển ở đình Đại Bạch Mai.

Khảo cứu thêm, tại sao trấn Nam Cao Sơn đại vương lại là Cao Biền. Đền Kim Liên, nơi thờ chính của thần Trấn Nam Thăng Long Cao Sơn có tấm bia đá cổ được vớt ở bến Bồ Đề về kể lại sự việc thần hiển linh giúp Lê Tương Dực dẹp loạn lên ngôi. Hội đền Kim Liên khi tổ chức vào ngày 15-16/3 Âm lịch hàng năm đều có nơi là Bạch Mai, Phương Liệt và Quỳnh Lôi rước kiệu đến, chứng tỏ những nơi này thờ cùng một vị thần với đền Kim Liên. Tuy nhiên, đình Đại, nơi cũng thờ Trấn Nam Cao Sơn đại vương ở Bạch Mai, lại có thần tích chép đó là Cao Hiển, người Bắc quốc…
Câu đối ở đình Đại Bạch Mai:
凌雲彩筆星斗動文光飄然身上僊宮出世名留前北史
浮水石碑古今傳異事獨是匡扶帝統平胡功在我南邦
Lăng vân thái bút tinh đẩu động văn quang, phiêu nhiên thân thượng tiên cung, xuất thế danh lưu tiền Bắc sử
Phù thủy thạch bi cổ kim truyền dị sự, độc thị khuông phù đế thống, bình Hồ công tại ngã Nam bang.
Dịch:
Bút sáng tỏa mây, sao Đẩu động ánh văn, thân nhẹ bay lên cung tiên, xuất thế danh lưu sử Bắc trước
Bia đá dạt sông, xưa nay truyền sự lạ, một tay phù trợ triều đế, dẹp Hồ công ở nước Nam ta.
Vế đối đầu nói ca ngợi văn tài của Cao Hiển khi đỗ đạt ở Bắc quốc. Vế đối sau đề cập rất rõ chuyện bia đá trôi sông được vớt lên, và chuyện phù trợ Lê Tương Dực lên ngôi. Tức là khẳng định Cao Hiển ở đình Đại cũng chính là Cao Sơn đại vương của đền Kim Liên. Cũng là người đã đánh giặp giặc Hồ ở nước Nam.
Hoành trướng ở đình Đại: Lưỡng quốc phong vương hiệu, chỉ ra rằng Cao Sơn đại vương là người Bắc được phong thần ở nước Nam. Đình Đại Bạch Mai còn thờ cả vợ ông Cao Hiển, cũng như đình Phương Liệt thờ bà Đàm Hoa là vợ Cao Sơn.

Luong quocHoành trướng Lưỡng quốc phong vương hiệu ở đình Đại Bạch Mai.

Việc liên hệ Cao Hiển với Cao Biền không phải chỉ bây giờ mới có. Trong Hải Dương địa dư, tổng đốc Hải Dương thời Nguyễn là Phan Tam Tinh đã nhận xét về đền thần Cao Vương ở Hải Dương như sau:
Nay khảo xem quan chế đời Tống không thấy có chức Đại thừa tướng, quan danh sử truyện cũng không có bề tôi nào họ Cao tên Hiển cả. Vả, Khánh Lịch ngang với đời vua Lý Thái Tông, Cao Vương có công với nhà Tống thì nhà Tống thờ là đáng, cớ chi lập miếu thờ lại sang cả nước ta? Duy Cao Biền nhà Đường là Quận vương Bột Hải, từng sang làm Tiết độ sứ [nước ta], hoặc trước kia tướng tá có lập đền thờ, rồi dân sở tại nhân đấy mà thờ, cứ thế truyền sai đi mà thôi.

Trấn Tây – Không Lộ thiền sư: Như vậy vị trí còn lại là trấn Tây phải dành cho Không Lộ thiền sư. Ở Hoa Lư vị này được chép là Nguyễn Minh Không, quê ở Đàm Xá (Gia Viễn, Ninh Bình). Nay ở Đàm Xá còn đền thờ thánh Nguyễn khá đẹp. Nguyễn Minh Không có công chữa bệnh cho vua Lý nên được phong là Lý triều quốc sư… Tuy nhiên, thân thế sự nghiệp của vị quốc sư này còn rất nhiều điều chưa sáng tỏ.
Một trong những nơi thờ chính của Không Lộ thiền sư là chùa Keo tại làng Hành Thiện (Xuân Hồng, Xuân Trường, Nam Định). Ở đây sự tích của vị thiền sư này lại bị lẫn lộn với vị Dương Không Lộ, cũng là thiền sư nhưng quê ở Thái Bình.
Cũng tại Hành Thiện còn có ghi chép cho rằng Không Lộ thiền sư là đạo sĩ Thông Huyền trong câu chuyện hai vị Giác Hải và Thông Huyền hạ tắc kè thời Lý Nhân Tông. Vua lấy đó làm lạ, làm một bài thơ khen:
Giác Hải tâm như hải
Thông Huyền đạo lại huyền
Thần thông cùng biến hóa
Một Phật, một thần tiên.
Nếu Giác Hải là tu Phật thì Thông Huyền là một đạo sĩ (“thần tiên”). Mà bản thân Không Lộ thiền sư có lẽ không hẳn là người tu Phật hoặc tu theo dòng Mật tông, chứ không phải Thiền tông. Với những gì ông làm như đi trên không, có phép rút đất, chữa bệnh cho vua… thì có vẻ ông là một pháp sư (thầy phù thủy) hơn là một tăng sĩ của đạo Phật. Việc đặt Không Lộ thiền sư vào một trong Tứ trấn Hoa Lư cũng cho thấy ông là một pháp sư, giỏi nghề trấn yểm.

Dai phap su

Hoành phi Đại pháp sư ở trước cung cấm chùa Keo Hành Thiện.

Bia đá tại chùa Keo Hành Thiện ghi rõ: ”Thần Quang tự Đại pháp sư bi”. Tức là gọi Không Lộ là Đại pháp sư. Hoành phi trong chùa cũng ghi vậy. Đôi câu đối về Không Lộ thiền sư ở chùa Keo Hành Thiện:
幽秘會三玄地可縮天可升靈跡渺茫四器併隨雷雨化
神通超六智水衣濡火衣熱塵寰遊戱百針特為帝王醫
U bí hội tam huyền, địa khả súc, thiên khả thăng, linh tích diểu mang, tứ khí tinh tùy lôi vũ hóa
Thần thông siêu lục trí, thủy bất nhu hỏa bất nhiệt, trần hoàn du hí, bách châm đặc vị đế vương y.
Dịch:
Thâm bí đủ tam huyền, phép rút đất, phép bay không, tích thiêng mênh mông, bốn vật hội theo mưa sấm hóa
Thần thông vượt lục trí, nước không chìm, lửa không nóng, cõi trần dạo chơi, trăm kim chuyên chữa bệnh đế vương.

Buc cham Hanh Thien 2

Một mảng chạm bên nóc mái ngoài cung cấm chùa Keo Hành Thiện.

Còn một liên hệ khác, đó là chuyện Pháp sư diệt Mộc tinh được nói tới trong Lĩnh Nam chích quái. Truyện Mộc tinh có đoạn cuối như sau:
…Đến đời vua Đinh Tiên Hoàng có pháp sư Văn Du Tường vốn người phương bắc, đức hạnh thanh cao, đã từng đi qua nhiều nước, biết được tiếng các dân man, học được thuật làm nanh vàng và răng đồng, năm hơn 80 tuổi sang nước Nam ta. Tiên Hoàng lấy lễ thầy trò mà tiếp, pháp sư bèn dạy cho nghề tạp kỹ để làm trò vui cho thần Xương Cuồng xem mà giết y. Đoàn tạp kỹ này có Thượng Kỵ, Thượng Can, Thượng Hiểm, Thượng Đát, Thượng Toái, Thượng Câu. Hàng năm tới tháng 11 lại dựng lầu Phi Vân cao 20 thước, dựng một cây đứng ở trong, tết vỏ gai làm dây chão dài 136 thước, đường kính rộng 2 tấc, lấy mây mà quấn ngoài rồi chôn hai đầu dây xuống đất, giữa gác lên cây. Thượng Kỵ đứng lên trên dây mà chạy nhanh 3,4 lần, đi đi lại lại mà không ngã. Kỵ đầu đội khăn đen, mình mặc quần đen. Dây của Thượng Can dài 150 thước, có một chỗ mắc chạc ba. Can hai tay cầm hai cán cờ. Hai người đi trên dây, gặp nhau ở chỗ chạc ba thì lại tránh, lên xuống mà không ngã. Khi thì Thượng Đát lấy một tấm gỗ lớn rộng 1 thước 3 tấc, dày 7 tấc đặt lên trên cây cao 17 thước 3 tấc, Đát đứng ở trên nhảy 2, 3 cái, tiến tiến lùi lùi điên đảo. Khi thì Thượng Toái lấy tre đan thành lồng hình như cái lờ bắt cá, dài 5 thước, tròn 4 thước rồi chui vào đứng thẳng mình mà lăn. Khi thì Thượng Câu vỗ tay nhảy nhót, la hét kêu gào, chuyển động chân tay, vỗ đùi vỗ bụng, tiến lùi lên xuống, hoặc cưỡi ngựa bôn tẩu, cúi mình xuống lấy vật ở dưới đất mà không ngã. Khi thì Thượng Hiểm ngả mình nằm ngửa lấy thân đỡ một cái gậy dài rồi cho đứa trẻ trèo lên mà không rớt xuống. Khi thì cho bọn ca hát gõ trống khua chiêng, ca múa rầm rĩ. Lại giết súc vật mà tế. Thần Xương Cuồng tới, thấy thế bèn đến xem, pháp sư đọc mật chú rồi lấy kiếm mà chém. Thần Xương Cuồng cùng bộ hạ đều chết hết, không thể trở lại thành yêu nữa. Lệ tiến lễ hàng năm bèn bỏ, dân lại sống yên lành như xưa.
Cái tên pháp sư Văn Du Tường nếu so ra với Dương Không Lộ thì rất gần nhau. Tường – Dương. Văn Du hay Vân Du, cùng nghĩa với Không Lộ. Như đã biết, thời Đinh của nước ta chính là thời kỳ đầu của nhà Lý. Vì thế nói pháp sư thời Đinh thì cũng là Lý pháp sư hay Lý triều quốc sư.
Không Lộ ở Ninh Bình còn được gọi là ông Khổng Lồ, là người có những sự tích kỳ lạ như gánh núi, bắt cá… Nay nếu ông Khổng Lổ có thêm “chặt cây”, diệt Mộc tinh thì cũng là tương đồng.
Đặc biệt hơn nữa, trong văn hóa dân gian còn bảo lưu được tục diễn trò rối đầu gỗ ở khu vực Nam Định. Trò này còn gọi là trò Ổi Lỗi mà trung tâm là 6 đầu rối bằng gỗ, gọi là các thánh tượng, được diễn với nghi thức thờ thánh, tức là thờ các vị “pháp sư” Từ Đạo Hạnh và Không Lộ. 6 “thánh tượng” này do đó rất giống với 6 vị đoàn tạp kỹ biểu diễn của pháp sư Văn Du Tường là: Thượng Kỵ, Thượng Can, Thượng Hiểm, Thượng Đát, Thượng Toái, Thượng Câu. Thánh tượng đọc thiết âm là Thượng. Như thế 6 nhân vật tham gia diễn trò trừ thần Xương Cuồng là 6 thánh tượng Kỵ, Can, Hiếm, Đát, Toái, Câu. Sự tích pháp sư trừ thần Xương Cuồng hóa ra thuộc về Không Lộ thiền sư.

Buc cham Hanh Thien 3

Mảng chạm những đầu người đầy thần bí ở chùa Keo Hành Thiện.

Để kết thúc khảo cứu tổng hợp về Tứ trấn, xin bàn thêm về vai trò của các pháp sư trong lịch sử. Có thể thấy thời đại nào các pháp sư cũng đóng vai trò quan trọng, tham gia vào chính sự của đất nước. Từ thời Hùng Vương đã có Lão Tử, vị đại giáo chủ của Đạo Giáo, khuyên răn vua Chu trong thời suy mạt. Hoặc chính các quan cai trị đứng đầu một khu vực là các pháp sư hay tu sĩ như trường hợp của Sĩ Nhiếp và Cao Biền. Cho đến như Không Lộ làm quốc sư – đại pháp sư cho triều Đinh – Lý hẳn cũng đã góp công đáng kể vào việc kiến thiết nước Đại Việt lúc ban đầu với những việc như chữa bệnh, đúc tứ đại khí An Nam, diệt trừ tà (thần Xương Cuồng)…

Các bộ tứ trong thần điện Việt: Tứ trấn Thăng Long

Trước hết thử bàn về khái niệm Tứ trấn. Khái niệm này chỉ áp dụng cho một khu vực nhất định mà mỗi “trấn” chiếm một phương vị của 4 phương xung quanh khu vực đó. Trong khi Tứ linh cũng theo 4 phương nhưng vì không có khu vực trung tâm cố định nên phương vị của Tứ linh không rõ ràng như Tứ trấn.
Điểm thứ hai cần bàn là khu vực được trấn giữ này là khu vực có tầm quan trọng, thường là kinh đô của quốc gia. Có là kinh đô thì mới cần đến 4 vị thần trấn 4 hướng. Trong dân gian có 2 nơi có bộ thần Tứ trấn là cố đô Hoa Lư và kinh thành Thăng Long, cho thấy khái niệm Tứ trấn đi liền với khu vực kinh thành.
Điểm thứ ba là khái niệm thần “trấn” phương của kinh thành thì phải là những vị thần có khả năng “trấn” áp tà ma, bảo vệ vượng khí cho kinh đô. Những vị võ tướng dù đánh giặc rất giỏi cũng không thể đóng vai trò “trấn trạch” được vì đánh giặc và trấn tà là 2 lĩnh vực hoàn toàn khác nhau. Các vị tướng đánh giặc do đó chủ yếu sẽ nằm ở bộ Tứ linh, chứ không phải Tứ trấn.
Như vậy, các vị thần trấn phương phải là những… Pháp sư, tức là những người có “phép” trừ yêu dẹp quỷ, thông thạo phong thủy địa lý, có khả năng trấn trạch,…  Như vậy thì mới có thể là thần bảo hộ một phương của kinh thành. Đây là khái niệm quan trọng, mang tính phát hiện khi xét tới các bộ Tứ trấn trong 2 kinh đô xưa của nước Việt.

THĂNG LONG TỨ TRẤN
Dễ nhận ra lai lịch nhất là thần Trấn Bắc – Huyền Thiên Trấn Vũ. Đền thờ vị này là đền Quán Thánh nằm ở đầu phố Thụy Khuê bên Hồ Tây. Như đã từng xác định, Huyền Thiên đại thánh là Lão Tử, vị tổ của Đạo Giáo. Thời Đường Lão Tử được phong là Thái Thượng Huyền Nguyên Hoàng Đế, liên quan tới sự kiện lên ngôi của Lý Thế Dân Đường Thái Tông ở cửa Huyền Vũ. Huyền Vũ là phía Bắc.
Lão Tử tất nhiên rất giỏi công việc của một “pháp sư”, trừ yêu dẹp quỷ. Lão Tử vốn là quan thủ thư của nhà Chu, khi Tây Chu suy, chuyển dời sang phía Đông, vùng Đông Đô gặp một trận động đất lớn. Quan thủ thư lúc này có thể có vai trò như một thầy cúng của triều đình. Lão Tử nhân cơ hội động đất đã bày đặt chuyện quỷ thần lập đàn cúng tế, khai quật xương cốt trên núi, nói là của các đời Hạ Thương, nhằm răn dạy vua Chu về lẽ trời và đạo lý.

Chua Kim Quy

Thần chúa Kim Quy làm lễ bái Huyền Thiên đại thánh trong lễ hội tại đền Sái (Thụy Lôi, Đông Anh, Hà Nội).

Truyền thuyết Việt chép chuyện Lão Tử thành việc Huyền Thiên đại thánh (cụ già – Lão Tử) đã cử thần Kim Quy giúp An Dương Vương trừ Bạch Kê Tinh ở núi Thất Diệu khi xây thành Cổ Loa. Câu đối ở nghi môn Miếu Bạch Kê ở Yên Phong, Bắc Ninh:
千秋鈥鈿前王澤
百越山河故國恩
Thiên thu hỏa điền tiền vương trạch
Bách Việt sơn hà cố quốc ân
.
Dịch:
Hỏa điền ngàn năm lộc vua trước
Núi sông Bách Việt ơn nước xưa.

Miếu Bạch Kê là nơi thờ tinh gà trắng trong truyền thuyết về An Dương Vương xây thành Cổ Loa. Miếu nằm trên núi Thất Diệu, tương truyền là nơi xưa kia An Dương Vương đã diệt Bạch Kê tinh ở đây.

Mieu Bach Ke

Nghi môn miếu Bạch Kê.

Câu đối trên nói chuyện Bạch Kê là chuyện của cả Bách Việt và Bạch Kê là “tiền vương” của An Dương Vương. “Tiền vương” hay vua đời trước của An Dương Vương, tức là Hùng Vương. Câu đối như thế nói Hùng Vương là vua chủ của Bách Việt.
Theo truyền thuyết thì Bạch Kê tinh là linh khí của các vua đời trước đã hiện lên ngăn cản An Dương Vương xây thành. Cũng trong truyền thuyết kể rằng An Dương Vương “liền sai đào núi Thất Diệu, lấy được nhiều nhạc khí cổ và xương cốt“.
Miếu Bạch Kê nằm ở thị trấn Sọ với sự tích trước đây ma quỷ thường ám hại người qua lại, nên để lại rất nhiều xương cốt và đầu lâu. Do đó nơi này có tên là Sọ. Sự tích này ứng với việc An Dương Vương đã đào được xương cốt của các vua đời trước tại núi Thất Diệu. Nói theo ngôn ngữ khảo cổ là đã khai quật được các mộ cổ ở núi này.

IMG_1631 (2)

Hoàn tiền có chữ Đông Chu tìm thấy ở vùng Cổ Loa.

Hai chữ Hỏa điền viết ở bộ Kim 金, chỉ đồ dùng bằng kim loại. Trong số các “hiện vật khảo cổ” đã tìm được ở Cổ Loa có những đồ tế khí bằng đồng từ thời Thương Chu và cả những đồng hoàn tiền (Điền 鈿 nghĩa là tiền) đúc nổi 2 chữ Đông Chu rõ ràng.
Chính vì năng lực trấn quỷ trừ tinh ở thành Cổ Loa mà Huyền Thiên đại thánh được đặt làm thần Trấn Bắc của kinh thành Thăng Long. Nhà Lý đã rước Huyền Thiên từ núi Sái (Thụy Lôi, Đông Anh) về lập đền thờ ở Thụy Khuê, trấn Bắc kinh thành Thăng Long là vậy.

Vị thần Trấn Tây là Linh Lang đại vương được thờ ở đền Thủ Lệ và đền Voi Phục ở cuối Thụy Khuê bên Hồ Tây. Vị thần này được truyền thuyết kể là hoàng tử nhà Lý có công đánh giặc Vĩnh Trinh. Nhưng thời Lý (dù là Tiền hay Hậu Lý) của nước ta không hề thấy sách sử ghi có hoàng tử nào như vậy và có loại giặc nào là giặc Vĩnh Trinh cả. Đây là một nhân thần hoàn toàn ở một thời điểm khác, sớm hơn nhiều so với nhà Lý sau này.
Cách đánh giặc của Linh Lang đại vương mới thật kỳ lạ. Ông dùng một lá cờ lớn, cưỡi voi bay ra trận là giặc tan. Đánh giặc bằng cờ thì chỉ có là đánh ma quỷ, dùng cờ như pháp bảo của một pháp sư để diệt.
Linh Lang đại vương chính xác là Ninh Lang, hay Chu Công, nghĩa là vị Công tước của phía Tây (Chu = Chiêu; Ninh là tính chất tĩnh, định của hướng Tây). Chu Công là người đã xây thành Đông Đô nên được chọn làm người bảo hộ cho kinh thành Thăng Long, rất hợp lý. Chu Công cũng là một trong tứ thánh của Dịch học, có những đóng góp vào việc hoàn thiện Dịch lý. Ông dẹp giặc (cuộc nổi loạn của hậu duệ nhà Ân) chủ yếu nhờ ân đức, chứ không phải võ lực. Do đó cũng có thể coi ông là một Pháp sư. Chí ít thì ông cũng đã là Thái sư dưới triều Chu Thành Vương.

Thu Le

Nghị môn ngoại đền Thủ Lệ – Tây Trấn từ.

Vị thần Trấn Đông là thần Long Đỗ thờ ở đền Bạch Mã trên phố Hàng Buồm. Vị thần này là ai mà lại được tôn làm thần trấn Đông của kinh thành?
Câu đối ở đền Bạch Mã:
南國上神四鎭升龍傳越史
東城顯聖壹威馬跡正光天
Nam quốc thượng thần, tứ trấn Thăng Long truyền Việt sử
Đông thành hiển thánh, nhất uy mã tích chính quang thiên.
Dịch
Thượng thần nước Nam, Thăng Long tứ trấn truyền sử Việt
Hiển thánh thành Đông, dấu ngựa một uy tại trời xanh.
Long Đỗ cũng là Long Độ vì chữ Đỗ là viết kiêng húy Trần Thủ Độ từ thời Trần. Long Độ đình hầu chính là Sĩ Nhiếp. Sĩ Vương là người đã gìn giữ thành Luy Lâu – Long Biên (Bắc Ninh) trong thời loạn lạc hàng chục năm, nên được lấy làm thần bảo hộ hướng Đông cho thành Thăng Long là hợp lý. Sĩ Vương là một tu sĩ đạo Bà Là Môn, liên quan đến việc hô mây gọi gió của Tứ pháp.
Sĩ Vương “khi ra vào thì đánh chuông khánh, uy nghi đủ hết; kèn sáo thổi vang, xe ngựa đầy đường, người Hồ đi sát bánh xe để đốt hương thường có đến mấy mươi người”. Hình ảnh này cho thấy Sĩ Nhiếp từng là một tu sĩ hay pháp sư, có người Hồ đi theo đốt hương phục vụ. Những truyện thần kỳ khác cũng được kể về Sĩ Nhiếp như truyện ông đã chết đi 3 ngày lại còn sống lại sau khi được Đổng Thừa cho uống thuốc tiên…

Bach Ma

Đền Bạch Mã.

Sang vị thần cuối cùng của Tứ trấn Thăng Long là thần Trấn Nam – Cao Sơn đại vương. Đền thờ chính của vị này là đình Kim Liên ở quận Đống Đa ngày nay. Nhận xét rằng các thần Tứ trấn kinh thành là các pháp sư, thầy cúng hay thầy địa lý, một lần nữa xác nhận rằng Cao Sơn đại vương ở Kim Liên là thầy phong thủy nổi tiếng Cao Biền thời Đường. Tài trấn yểm của Cao Vương thì chắc chẳng phải bàn.
Cao Vương là người đã xây thành Đại La nên được tôn thờ làm thần bảo hộ kinh thành Thăng Long hoàn toàn hợp đạo và hợp lý. Cao Vương là thần Trấn Nam vì thành tích chính của ông là dẹp giặc Nam Chiếu. Vùng phía Nam Hà Nội (Thường Tín), Ninh Bình (Phụng Hóa, Nho Quan), Thanh Hóa (Thọ Xuân), tới tận Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình đều có các đền thờ Cao Biền, thờ đúng tên Cao Biền hoặc dưới tên Cao Sơn Cao Các đại vương.

Khe Hoi

Nghi môn đình Khê Hồi (Thường Tín, Hà Nội), nơi thờ Cao Sơn đại vương.