Hai vị nữ chủ của người Việt cổ

Nếu không kể đến những vị mẫu chủ thời kỳ huyền thoại như mẫu Tây Thiên, mẫu Thần Long Động Đình, mẫu Âu Cơ, mẫu Ma Thị Cao Sơn thì sử Việt còn kể đến những vị nữ thủ lĩnh thiên hạ khác, với công tích, sự nghiệp cũng rất hiển hách, không kém gì các vị đế vương.

Ân Hậu Ma Cô Tiên

Vị nữ thủ lĩnh rất cổ được biết là từ thời nhà Ân. Truyện Giếng Việt trong Lĩnh Nam chích quái kể thời Tần, Thôi Vĩ ở chân núi Trâu Sơn đã đến Ân Vương thành, được Ân Hậu tiếp đãi, rồi được Ma Cô Tiên ban cho phúc lộc ra về. Ma Cô Tiên đã trở thành vị phúc thần, thọ thần phổ biến trong văn hóa truyền thống, thường được thể hiện trong bức vẽ Ma Cô hiến thọ.

Ở chùa Ma Cô Tiên tại thôn Châu Cầu, xã Châu Phong, Quế Võ, Bắc Ninh còn có tấm bia Thánh Tổ Cô Tiên tự bi ký, cho biết Ma Cô Tiên được tôn xưng là Thánh tổ tại đây. Sắc phong của làng Châu Cầu gọi bà là  Thiên tiên Thánh mẫu Đệ nhất Cửu trùng Công chúa.

Ân Hậu Ma Cô Tiên cũng chính là Bạch Kê tinh trong truyền thuyết ở chân núi Ma Lôi (núi Sái, Đông Anh) khi An Dương Vương xây thành Cổ Loa. Mẫu Bạch Kê còn được thờ trên núi Thất Diệu (Yên Phong, Bắc Ninh) gần đó với sự tích là một công chúa con vua Hùng. Cũng ở vùng này còn có sự tích các Cô tiên đã giúp An Dương Vương xây thành Cổ Loa nhưng không thành.

Câu đối ở đền mẫu Bạch Kê:

Hồng Lạc di phong trang thể thế
Tiên Long dư duệ khải hồng cơ.

Nghĩa là:

Hình thể trang nghiêm, di dấu từ Hồng Lạc
Cơ đồ to lớn, dòng dõi vốn Tiên Rồng.

Ma Cô Tiên còn hiển linh dưới thời Hai Bà Trưng, giúp các vị nữ tướng của Trưng Vương. Như ở Bồng Mạc, Liên Mạc, Mê Linh bà đã tặng cho các tướng Ả Nang, Ả Nương chiếc áo tảng hình để chống giặc. Trong các sự tích này bà được gọi là Ma Bà.

Ma Bà ở Phùng Dị, Quế Võ, Bắc Ninh.
Thánh Tổ Cô Tiên tự bi ký ở chùa Châu Cầu, Châu Phong, Quế Võ, Bắc Ninh.

Nhự Nương Trình Thị Hoàng Hậu

Vị nữ chủ công nghiệp hiển hách khác là bà Trình Thị Hoàng Hậu, vợ của vua Triệu Đà. Văn tế ở đền Đồng Sâm (Kiến Xương, Thái Bình) ca ngợi:

Huy nguyệt phủ nhi hùng, kiêm thất quận đế thuỷ Viêm bang
Hoành ngọc thoa nhi nghi, biểu lục cung mẫu nghi thiên hạ.

Dịch nghĩa:

Vung búa nguyệt hào hùng, gồm thâu bảy quận, là Đế mở Viêm bang
Nâng thoa ngọc uy nghi, biểu chính sáu cung, là Mẫu nghi thiên hạ.

Ở Đồng Sâm có lễ tục hát ca trù là lễ Chầu Cử vào ngày giỗ của Triệu Vũ Hoàng Đế. Tư liệu của đền Đồng Sâm còn lưu lại được 8 bài ca trù chầu thánh và có một bài văn tế tổ nghề ca công. Những tư liệu này đã được đưa vào hồ sơ công nhận của UNESCO cho Ca trù là di sản văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp năm 2009.

Lời một bài ca trù ở Đồng Sâm ca ngợi Triệu Vũ Hoàng Đế và Trình Thị Hoàng Hậu:

Cơ khai thất quận, quy mô không thị Hạng Tần
Biểu chính lục cung, nghi phạm viễn đồng Cơ Tự.

Nghĩa là:

Bảy quận mở nền, quy mô không thua Tần Hạng
Sáu cung chính tỏ, khuôn phép sâu như Tự Cơ.

Trình Thị Hoàng Hậu còn được thờ ở làng Nhự Nương (Trực Ninh, Nam Định). Theo thần tích Nhự Nương tại đây bà đã xây dựng căn cứ kháng chiến,  tích trữ quân lương, chiêu dụ anh hùng để chống giặc. Bà cũng đã từng thoát vòng vây của kẻ thù ở khu vực này mà về với Triệu Vương.

Câu đối ở đền Nhự Nương:

Thục thận khuê nghi, thất quận sơn hà tư nội trị
Thanh cao miếu mạo, thiên thu hương hỏa hiển anh linh.

Dịch nghĩa:

Vẻ ngọc thục hiền, non sông bảy quận riêng nội trị
Miếu mạo cao sáng, hương lửa nghìn thu tỏ anh linh.

Tên Nhự Nương còn trùng với tên vị Vua bà Nhữ Nương là Thủy tổ Quan họ ở làng Diềm (xã Hòa Long, huyện Yên Phong, Bắc Ninh). Vua bà có tên phong là: Đương cảnh thành hoàng Thiên tử Nhữ Nương nam nữ Nam Hải Đại Vương. Tên Nam Hải Đại vương, cũng trùng với tên hiệu thờ của Triệu Vũ Đế ở Đồng Sâm, là Nam Hải Tôn ninh Triệu Đại vương. Cụm tên “Thiên tử … nam nữ” tương ứng chỉ rằng đây là cặp vợ chồng làm vua Triệu Vũ Đế và Trình Thị Hoàng Hậu.

Cùng làng Diềm có ngôi đình nổi tiếng có bức cửa võng chạm khắc tinh xảo. Làng Diềm thờ 5 vị thành hoàng là Đô Thống, Giáp Ngọ, Nhữ Nương Nam Hải, thánh Tam Giang (Trương Hống) và Ngũ Vị. Theo ghi chép tại đây thì thánh Tam Giang Trương Hống là vị tướng có công theo Triệu Việt Vương đánh giặc. Thần Nam Hải là một nữ thần đã báo mộng âm phù cho thánh Tam Giang dẹp giặc. Như vậy mối liên hệ về thời gian giữa Vua bà Nhữ Nương Nam Hải với nhà Triệu rất rõ. Có thể nhận định rằng Vua bà Thủy tổ Quan họ Nhữ Nương Nam Hải cũng chính là Trình Thị Hoàng Hậu, người được coi là tổ nghề ca công ở Đồng Sâm.

Cùng với nhận định Triệu Vũ Đế là Hiếu Cao Tổ Lưu Bang thì Trình Thị Hoàng Hậu chính là Lữ Hậu. Trình Thị thiết Trĩ, là tên cúng cơm của bà Lữ Hậu. Lữ Hậu mới là người đã “biểu chính lục cung”, mở đầu các nghi lễ tam cung lục viện từ thời nhà Hiếu (Tây Hán).

Cái tên Nhữ Nương hay Nhự Nương khi đọc phản thiết cho chữ Nữ hay Lữ, là chỉ họ của Lữ Hậu. Nhự Nương Trình Thị do đó tương đương với Lữ Trĩ, không ai khác chính là Hoàng Hậu họ Lữ của nhà Hiếu.

Lữ Hậu còn là bậc “tiền bối” của Ả Lã, tức Trưng Vương vào thời sau này. Truyền thống “nữ trung hào kiệt” của người Việt đã có từ thời trước Công nguyên.

Việc tôn thờ các vị nữ chủ là một truyền thống lâu đời của người Việt và trong sử Việt đã không ít lần xuất hiện những vị nữ chủ hiển hách. Đây hoàn toàn chẳng phải chế độ “mẫu hệ” gì. Đơn giản là thời thế tạo anh hùng, các nữ anh hùng cũng không ngoại lệ. Thiên hạ chuyển mình, xã hội phát triển qua những cuộc “cách mạng”. Vai trò của các nữ chủ nổi lên vào thời thế đó, ngược lại, cho thấy sự tiến triển vượt bậc của xã hội Việt thời cổ.

Tượng Trình Thị Hoàng Hậu ở đền Đồng Sâm, Kiến Xương, Thái Bình.
Một trang chép bài ca trù ở đền Đồng Sâm

Rồng hiện Nhất Dạ Trạch

Thần tích làng Nhuế Dương ở Khoái Châu, Hưng Yên kể về quá trình khởi nghĩa của Triệu Quang Phục: Ngả Việt ta tại Long Biên có người Thái Bình, họ Lý tên là ông Bôn, theo trời thuận người thừa thời thế mà khởi nghĩa. Nhưng đang khi đó chưa có nam nhi nào có tài thao lược. Ông Bôn tích trữ binh lương, thần phong chưa động. Tin thay! có Thiếu Khang dẹp loạn tất có Thần Mĩ dẹp loạn cùng. Rồng lên ở trên đầm không có ý với mây mà mây tự nhiên bay đến.

Đương khi ấy ở xã Hương Canh, huyện Châu Diên, phủ Tam Đới, đạo Sơn Tây có một nhà họ Triệu tên Túc. Tổ tiên nhà đó vốn họ Việt, giúp Triệu Võ Đế (tức Triệu Đà) có công nên được ban cho họ Triệu. Ba bốn đời đều làm quan lớn cho triều Triệu Vũ Đế.  Đến ông Túc cũng là bậc nho y có tiếng trên đời, lấy vợ là Trưng Thị Đàm.

Triệu Quang Phục có tổ tiên đã theo Triệu Vũ Đế (Triệu Đà) có công nên được ban cho họ Triệu. Họ Triệu nhiều đời làm quan lớn, cho đến ông Triệu Túc. Triệu Túc theo như Đại Việt sử ký toàn thư cho biết lại là Thái phó của Lý Bôn, tức là một vị tướng quan trong trong cuộc khởi nghĩa của Lý Nam Đế.

Cũng Thần tích Nhuế Dương kể, khi Triệu Việt Vương mất lại thấy Tạp bộ Đại phu ở xã Đại Lan bản huyện cũng tự đến tận nơi cung sở chính, lập làm đền miếu, vâng chép thần hiệu Triệu Việt để phụng thờ.

Đại Lan nay là xã Xuân Quan, Văn Giang, Hưng Yên, nơi có đền thờ Triệu Vũ Đế ở Long Hưng điện. Tập sử ký Xuân Lan (thần tích Xuân Quan) cho biết: Triệu Việt Vương, tên húy là Quang Phục, sinh ở làng Lan Cứu (nay là xã Xuân Lan), là hậu duệ của Cổ Tiên Thánh Đế (tức Triệu Đà).

Như vậy, Triệu Quang Phục là dòng dõi Triệu Vũ Đế, sinh ở Xuân Quan. Cho dù các thần tích khác như thần tích Nhuế Dương cho biết Triệu Quang Phục quê ở xã Hương Canh, huyện Châu Diên, phủ Tam Đới, đạo Sơn Tây, nhưng rất có thể Xuân Quan là một trong những nơi Triệu Quang Phục đã lớn lên thủa ban đầu.

So sánh với Thần tích Hạ Mạo (TT. Phú Thọ) khi mà Hậu Hùng Vương đã cử người con Út đến giúp Triệu Đà chống Tần thì Hậu Hùng Vương sẽ là Triệu Túc, Lý Bôn là Triệu Đà, còn Út Ngọ Lôi Mao là Triệu Quang Phục.

Theo các thần tích việc Lý Bôn được Triệu Quang Phục như rồng gặp mây, như minh chúa gặp tướng tài (vua Hạ Thiếu Khang được bề tôi là Thần Mi giúp diệt loạn Hậu Nghệ, trung hưng nhà Hạ). Triệu Quang Phục là Tả tướng của Lý Bôn, được phong thực ấp ở đạo Sơn Nam.

Thần tích Nhuế Dương chép: Quang Phục vâng mệnh bái tạ, đi đến nhận việc ở Sơn Nam, ngắm xem đất đai có hình thắng hiểm trở để  lập cung doanh mà ở. Một hôm đi đến nơi đất đầu xã Nhuế Dương, xứ Nhất Dạ Trạch, huyện Đông An Khoái Lộ. Bốn bề đất Nhuế Dương, trước có sông lớn, ba mặt đầm nước, núi không cao mà đất bãi như gìn giữ. Nước có sâu mà nguồn giếng êm chảy. Trái phải xung quanh có rồng hổ ôm chầu, thật đúng là nơi đất hiểm yếu. Ngay hôm đó bèn truyền quân xây dựng cung doanh vài mươi gian. Chính cung dựa Càn hướng Tốn. Quang Phục ở đó.

Đến khi giặc Lương quay trở lại, tấn công nước Vạn Xuân. Lý Nam Đế vào động Khuất Lão, giao quyền quản lý Long Biên lại cho Tả tướng Triệu Quang Phục. Quang Phục tự thấy Long Biên bốn mặt có giặc, bèn rút hết quân về nơi chốn cũ ở Nhuế Dương, trong đầm Nhất Dạ huyện Đông An mà ở, cùng với quân Lương cự chiến, qua một năm mà không phân thắng thua.

Như vậy, Nhuế Dương chính là nơi Triệu Quang Phục đã đóng đồn quân chính trong trận chiến đầm Nhất Dạ. Gần Nhuế Dương, cùng tổng Phù Khê của huyện Khoái Châu xưa có làng Bùi Xá, cũng là nơi thờ Triệu Quang Phục. Thần tích Bùi Xá rất đặc biệt, khi cung cấp nhiều chi tiết mới lạ về cuộc khởi nghĩa đầm Dạ Trạch:

Còn Quang Phục ở huyện Đông An, thấy trong huyện có đầm Nhất Dạ tại đất xã Vĩnh Hưng (tức xã An Vĩnh). Đầm này chu vi không biết bao nhiêu dặm, cỏ lác mọc rậm rạp. Bốn bề bùn lầy sình trũng. Bên trong có một chỗ nhỏ có thể ở. Quang Phục bèn lập đồn lớn ở trong đầm.

Thường khi dẫn quân đánh quân Lương thì thấy có một lão ông, râu tóc dài khỏe, thân thể kỳ dị, cao hơn 9 thước, cầm một cái dùi sắt, theo khói sương trong đầm mà lên, tiếng như chuông lớn, hình như sắt trắng, đánh quân Lương thua to.

Sự việc xong ông lão lại cùng với Quang Phục đi dạo, nói cười vui vẻ như anh em cùng một bọc đến chơi vậy. Phàm khi Quang Phục có việc bị quân Lương tập kích thì đều đến báo trước thời gian. Nếu Quang Phục gạn hỏi họ tên, duyên cớ thì đều không báo sự thực.

Một hôm Quang Phục đi đến cung sở ở xã Bùi Xá. Nhân dân đang làm lễ đón mừng thì bỗng thấy lão ông từ bên ngoài đi đến. Quang Phục bèn mời vào trong ngồi. Lão ông nói rằng:

–   Tôi vốn là thanh khí chốn bèo nước, là dòng dõi một bầu trăm trứng họ Hùng trước đây, cũng là phúc thần của Bùi Xá. Tôi là Đông Hải Đại vương, là người con thứ 10 trong số 50 người con về biển, họ Hùng tên Chiểu, ở giữ biển Đông nên gọi là Đông Hải Đại vương. Sau lại kiểm giữ đầm Nhất Dạ ở Sơn Nam, làm thần ở Bùi Xá trong đầm Dạ Trạch.

Trong đầm Dạ Trạch, Triệu Quang Phục đã được thần đầm là Đông Hải Đại vương, một vị thủy thần dòng dõi Lạc Long Quân xuống biển giúp và báo tin cho.

Quang Phục theo đó mà chọn ngày trai giới, lập đàn dâng lễ cáo tế trời đất, cầu đảo bách thần. Ba ngày đèn hương không dứt. Bỗng thấy trời đất mù mịt, mây gió nổi lên. Có một vị thần tướng cưỡi rồng vàng từ trên trời hạ xuống, đứng trên đàn. Ông Phục đại bái ở trước. Thần tướng mới nói rằng:

– Ta là Quý Minh Đương Lai,  cho khanh một vật để làm nỏ thần báu vật trời ban. Cho dù có giặc mạnh cũng không phải lo lắng vậy.

Thì ra người trao móng rồng cho Triệu Quang Phục không phải là Chử Đồng Tử mà là Quý Minh Đại vương, vị Hữu kiên thần Tản Viên Sơn Thánh. Quý Minh Đại vương còn có tên là Lãng Nhạc, là vị thủy thần trong Tam vị Tản Viên.

Thần tích Bùi Xá có bài thơ nói về chuyện này:

Sơn thuỷ tòng lai tương biệt thú
Như hà sơn thuỷ đắc đồng nguyên
Giả lệnh tại đương thì giả
Cảm vấn chư công đắc minh.

Dịch nghĩa:

Sông núi theo đi mà chia biệt
Tại sao sông núi lại cùng nguồn?
Nếu là thủ lĩnh đương thời đó
Dám hỏi các ngài rõ không?

Bài thơ ám chỉ việc 50 người con theo cha xuống biển là Thủy thần, 50 người con theo mẹ làm Sơn thần thời Lạc Long – Âu Cơ. Cùng nhau chia biệt nhưng đều là con cùng một bầu cha mẹ, cùng một nguồn.

So vào việc Triệu Quang Phục nhận được móng rồng từ các vị thủy thần Đông Hải Đại vương và Quý Minh Đại vương thì có thể ở đây ám chỉ Triệu Quang Phục là dòng theo mẹ lên núi. Một dẫn chứng khác là đền thờ Triệu Quang Phục ở xã An Vĩ (Khoái Châu) còn có tên là đền Vua Rừng.

Triệu Quang Phục là dòng Tiên theo mẹ lên núi cũng tương ứng với thần tích Hạ Mạo cho biết vua Triệu là dòng dõi họ Hùng, có biểu tượng là lông chim phượng hoàng (Lôi mao), tức là dòng Tiên (chim phượng).

Dòng dõi Tiên họ Triệu đã được sự giúp đỡ phò trợ của dòng Rồng xuống biển mà có được báu vật đâu mâu làm lẫy nỏ thần, dẹp tan giặc loạn. Ở Bùi Xá còn thường kể câu chuyên là cây gạo trước đình khi nở hoa thì ở làng đối diện thế nào cũng có nhà cháy. Cây gạo chính là hình tượng của Rồng như trong chuyện bảy cây gạo ở Nhật Chiêu bên hồ Tây. Hoa gạo nở cũng là lúc móng rồng phát huy uy lực, hướng vào đâu là tan giặc ở đó.

Câu đối ở đình Phù Sa (Yên Mô, Ninh Bình):

兜鍪聖武興南李
獨木神兵走北梁

Đâu mâu thánh vũ hưng Nam Lý
Độc mộc thần binh tẩu Bắc Lương.

Dịch nghĩa:

Đâu mâu võ thánh dấy Nam Lý
Độc mộc binh thần đuổi Bắc Lương.

Ở đây chiếc móng rồng làm đâu mâu tương đương với việc dùng thuyền độc mộc để đánh quân Lương. Phải chăng khả năng dùng thuyền nhẹ chính là năng lực của “rồng”, của dòng tộc người xuống biển, đã giúp Triệu Quang Phục chiến thắng giặc Lương trên mặt nước đầm Dạ Trạch?

Sau khi có được móng rồng bảo bối, giặc được dẹp tan, Triệu Quang Phục lên ngôi tự xưng vương là Triệu Việt Vương. Vương lại về thành Long Biên ở. Trong sửa văn đức, ngoài phòng biên cương, dốc lòng hưng bình để yên Trung Quốc. Cảnh tượng thái bình ở đời rạng rỡ. Bèn xa giá đi chu du khắp thiên hạ. Núi Nhân dạo bộ, biết sông hỏi bến. Núi sông tụ Thần Phù, Yên Tử, Cao Đê, mặt trời hồng, mây trắng, trăng gió cuốn Hoa Quật, Long Biên. Trên dưới núi xanh nước biếc. Phàm đến nơi nào thấy sơn thủy hữu tình đều lập hành cung, cho miễn binh dao để ngày sau làm nơi hộ nhi (Thần tích Nhuế Dương).

Đoạn này nói đến quá trình cai quản đất nước của vua Triệu. Thiên hạ thái bình cũng nhờ có móng rồng vậy, tức là có được sự giúp đỡ của dòng Rồng Lạc xuống biển. Vua Triệu đi khắp nơi, xây dựng nhiều hành cung, nay là các di tích để lại ở nước ta. Số di tích thờ Triệu Việt Vương còn lại cho đến ngày nay được thống kê lên tới hơn 100 nơi trải từ Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình, Hưng Yên, Hà Nội, Bắc Ninh tới tận Thanh Hóa, Vĩnh Phúc.

Sau đó chính sử thường kể là chuyện Lý Phật Tử, dòng dõi Lý Nam Đế, cùng con trai là Nhã Lang đem quân đến đánh vua Triệu. Triệu Việt Vương nghĩ đến tình xưa với Lý Nam Đế (Triệu Võ Đế) nên đã chia đất nước làm hai, cùng trị với Lý Phật Tử. Nơi cắt giới được gọi là bãi Quân Thần.

Tuy nhiên, Thần tích Bùi Xá lại kể bãi Quân Thần lại là do Lý Phật Tử chia nước với Nhã Lang: Phật Tử lên ngôi tự lập là Hậu Lý Nam Đế. Nam Đế nghĩ đến chữ nghĩa cha con, quân thần bèn cắt giới từ Thượng Cát, huyện Từ Liêm về phía Tây cho Nhã Lang ở. Từ Thượng Cát về phía Đông Nam Việt ở, gọi là Quân Thần.

Với cách kể như vậy thì Nhã Lang là dòng dõi của Triệu Quang Phục mới đúng. Họ Lý là Quân (Đế), họ Triệu làm Thần (Vương) (Thần tích Bùi Xá). Hậu Lý Nam Đế chiếm được thiên hạ mà xưng đế. Hậu duệ của họ Triệu là Nhã Lang lùi về phía Tây Bắc Việt, chiếm giữ xưng vương. Bãi Quân Thần ở Thượng Cát (Từ Liêm) là ranh giới chia đôi vùng Bắc Việt thành 2 phần. Phần Đông do Hậu Lý Đế nắm giữ. Phần Tây do Nam Triệu Vương nắm giữ. Nam Triệu sau này gọi thành Nam Chiếu, là con cháu Triệu Vũ Đế như Truyện Nam Chiếu trong Lĩnh Nam chích quái, hay Tập sử ký Xuân Lan kể.

Khu vực vùng đầm lầy tả ngạn sông Hồng là nơi khởi đầu cuộc khởi nghĩa của Triệu Việt Vương. Triệu Quang Phục dòng dõi vua Hùng mẹ Tiên lên núi, trước là theo Triệu Vũ Đế Lý Bôn chiếm thành Long Biên, sau rút về đóng quân giữa đầm Dạ Trạch ở Nhuế Dương, rồi gặp các vị thủy thần cưỡi rồng tháo móng, chế thành vũ khí, tạo ra thuyền độc mộc, dẹp được giặc. Triệu Quang Phục xưng Vương, đi khắp nơi xây dựng đất nước. Con cháu họ Lý là Hậu Lý Nam Đế dẫn quân đến đánh. Triệu Việt Vương tử tiết ở cửa biển Đại Nha. Con cháu vua Triệu rút về phía Tây Bắc Việt, cắt giới Quân Thần ở Từ Liêm, xưng là Nam Triệu, sau là Nam Chiếu.

Lưu hầu Trương Lương ở… chùa Hà

Khu vực chùa Hà ở Dịch Vọng (Hà Nội) thờ vị Đại Vương là Triệu Chí Thành, Đô thống Nguyên soái của Triệu Việt Vương. Sự tích đầy đủ của vị Đại vương này được chép trong thần tích hai giáp Thọ Tháp và Bối Hà dưới đây.

Điều lạ trong thần tích Bối Hà là không hề nói gì tới Lý Bôn (Lý Nam Đế), cho dù lại kể việc Triệu Việt Vương vào hồ Điển Triệt, rồi động Khuất Liêu chống giặc. Sau đó Triệu Việt Vương lên ngôi thiên tử, xưng Đế. Có thể thấy, Triệu Việt Vương trong thần tích này chính là Triệu Vũ Đế – Lý Bôn – Lưu Bang, chứ không phải Triệu Quang Phục.

Đại vương Chí Thành nổi tiếng thông minh từ nhỏ. Ngài ngày ngày thường ở riêng một chỗ, tự xem sách, không cần người chỉ dạy, giỏi đàn sáo, tinh thông âm luật. Đến khi trưởng thành ngài tài đủ văn võ, phẩm chất hơn người, anh hùng vượt đời xưa, tính tình lương thiện, khoan hòa trung chính, giỏi bày mưu lược, nuôi dưỡng hùng tài.

Đoạn kể này không khác gì nói về Trương Lương, mưu sĩ số 1 của Lưu Bang. Trương Lương từng lập mưu ám sát Tần Thủy Hoàng khi đi Đông du, nên rất có thể Trương Lương đã từng đến vùng đất Bắc Việt nước ta ngày nay, vốn là nơi Tần Thủy Hoàng ra biển Đông gặp đạo sĩ Yên Kỳ Sinh tìm phương thuốc trường sinh.

Điểm đáng chú ý khác là Đại vương Chí Thành rất giỏi âm luật và đàn sáo. Tiếng sáo của Trương Lương cũng đã đi vào sử sách khi nó được dùng để phá tan quân Sở của Hạng Vũ bên sông Ô Giang.

Khi Triệu Việt Vương chống quân Lương gặp khó khăn, Đại vương Chí Thành đã lập đàn cầu khấn trời phật, và được Lão Phật giáng thế, ban cho tỉ phù làm bảo bối. Còn Trương Lương cũng nối tiếng với câu chuyện học được Thái công binh pháp của Khương Tử Nha. Đoạn trích Phật giáng trong thần tích Bối Hà cũng được chép trong Hùng Vương Thánh Tổ ngọc phả. Vị “Phật” ở đây không ai khác chính là Thái Công Lã Vọng của vua Hùng Văn Lang.

Đại vương Chí Thành còn là người đã dùng chiếc móng rồng mà Chử Đồng Tử trao cho Triệu Việt Vương làm ra nỏ thần, phá tan quân Lương ở sông Bình Giang, chém tướng Dương Sằn ở núi Phù Long. Tương tự như đã kể ở trên, Trương Lương là người đã thổi tiêu làm tan rã quân Sở, giết được Hạng Vũ bên bờ Ô Giang.

Sau khi Triệu Việt Vương lên ngôi Thiên tử, Đại vương Chí Thành mộng thấy Thiên tướng xuống triệu hồi về Thượng Đế, rồi hóa ở Thạch Bàn Long Đầu. Còn Trương Lương là đại công thần được Lưu Bang phong là Lưu hầu, nhưng cuối cùng xin được học phép tu tiên, không màng danh lợi mà mất.

Thạch Bàn là nơi Lã Vọng câu cá, Văn Vương cầu hiền, cũng là nơi Trương Lương trở về tìm gặp thầy của mình là Hoàng Thạch Công sau khi thành nghiệp, tức là khi quay về tu theo tiên đạo.

Có thể thấy 2 sự tích về Đại vương Triệu Chí Thành ở Bối Hà và Lưu hầu Trương Lương hoàn toàn khớp nhau, nhất là một khi xác định Triệu Việt Vương là Lý Bôn – Lưu Bang.

Chữ Hà ở đây nghĩa là nhờ ơn. Bối Hà là nhờ ơn quý báu của bậc Tiên Phật danh sĩ đại công thần Trương Lương, một trong Hán sơ tam kiệt.

Thần tích giáp Thọ Tháp và Bối Hà, Dịch Vọng: https://bahviet18.com/2023/07/18/giap-tho-thap-giap-boi-ha-xa-dich-vong-trung-phung-sao-than-tich/

Nam Việt Úy Đà diễn nghĩa

Nam Việt Úy Đà liệt truyện trong Sử ký Tư Mã Thiên rõ ràng có nhiều “nỗi oan” của vua Triệu cần được xem xét, diễn giải lại, mà “nỗi oan” có thể thấy ngay được là thông tin Triệu Đà trị vì 70 năm, thọ 121 tuổi (!!!). Với tuổi thọ “không thể có” này của vua Triệu, có thể thấy những câu chuyện về vua nước Nam Việt sẽ không phải đơn thuần là chỉ kể về 1 nhân vật như truyện đã chép…

Triệu Vũ Đế khởi nghĩa kháng Tần

Các di tích hiện còn tới nay về nhà Triệu ở Việt Nam là nguồn bổ sung những dữ liệu quan trọng cho quá trình khởi nghĩa kháng Tần của Triệu Đà trên đất Việt. Thời Tần Triệu Đà làm quan huyện Long Xuyên (cũng là huyện Nam Hải, theo thần tích Đồng Sâm), lấy vợ Trình Thị ở Đồng Sâm, Thái Bình mà lưu cư tại đây. Trình Thị đọc thiết âm là Trĩ, chỉ ra sự liên quan của vị hoàng hậu này với Cao Hậu, người có tên cúng cơm là Lữ Trĩ. Lưu Bang xuất phát ban đầu cũng là một đình trưởng nhỏ ở đất Bái, lấy vợ là họ Lữ và sống tại đó. Khu vực Thái Bình còn là nơi có nhiều di tích khởi nghĩa của Lý Bôn, người đã kết duyên cùng Hoàng hậu Đỗ Thị Khương. Thái Bình đọc phản thiết là Bái, tên vùng đất nơi Lưu Bang làm đình trưởng và lấy bà Lữ Trĩ.

Ngoài di tích ở Đồng Sâm (Kiến Xương, Thái Bình), Triệu Đà còn được kể đến ở một số khu vực khác. Trước hết, đó là núi Vũ Ninh (Quế Võ, Bắc Ninh) nơi có tới 8 làng thờ Triệu Vũ Đế. Đây là căn cứ ban đầu khởi nghĩa của Triệu Đà chống lại nhà Tần. Di vật thời này còn tại đây là phần thân của con thần thú nửa rồng nửa phượng bằng đá lớn, hiện vẫn còn tại thôn Cựu Tự xã Ngọc Xá. Truyện Giếng Việt trong Lĩnh Nam chích quái kể ở núi này có con rắn lớn, trên trán có chữ Vương, chuyên ăn thạch nhũ. Còn Cao Tổ bản kỷ kể việc Lưu Bang khi ở núi Mang Đãng đã chém rắn trắng, là con Bạch Đế mà khởi nghĩa.
Không xa núi Vũ Ninh, ở xã Ngô Cương (Gia Bình, Bắc Ninh) có sự tích kể Triệu Đà khi lâm trận thất thế, được một đám mây đỏ hạ xuống che chở mà thoát nạn. Câu chuyện này khá giống với việc Lưu Bang khi bỏ vào rừng núi Mang Đãng kháng Tần thì bà Lữ Trĩ luôn thấy có đám mây lành trên nơi Lưu Bang trú ngụ.
Khi quan úy Nam Hải là Nhâm Hiêu thấy phản loạn các nơi nổi lên chống lại nhà Tần, Nhâm Hiêu bàn với Triệu Đà chặn con đường nhà Tần mới mở đến Việt để tự giữ. Nhâm Hiêu chết, Triệu Đà thay, “lập tức truyền hịch đến các cửa ải Hoành Bồ, Dương Sơn, Hoàng Khê” để chặn đường, tự phòng thủ. Chi tiết này trong thần tích Đồng Sâm đã cho thấy con đường mà nhà Tần mở ra trên đất Việt là chạy từ vùng Cao Bằng (Hoàng Khê?) qua Bắc Kạn (Dương Sơn) tới Quảng Ninh (Hoàng Bồ). Trên con đường này Tần Thủy Hoàng đã làm cuộc Đông du, ra biển Đông, gặp đạo sĩ Yên Kỳ Sinh nơi chân núi Yên Tử ở Đông Triều. Cửa ải cuối cùng của con đường Tần – Việt này là Hoành Bồ, thuộc Quảng Ninh, gần bãi biển Hạ Long ngày nay.
Di tích quan trọng khác là ở khu vực Long Biên, đặc biệt là đình Xuân Quan (Văn Giang, Hưng Yên). Đây là nơi Triệu Đà đã thấy rồng bay lên trên sông Nhị, bắt đầu “Long Hưng” lập nghiệp đế vương, tấn công vào trị sở của Tần lúc đó ở Cổ Loa. Thần tích Đồng Sâm cũng kể Triệu Đà đánh Thục, đóng quân ở Tiên Du, Bắc Ninh.
Sử ký Tư Mã Thiên ghi Triệu Đà giết các trưởng quan do Tần xếp đặt, dùng bè đảng của mình thay vào làm quận thủ. Nếu không phải là một cuộc “khởi nghĩa vũ trang” thì làm sao Triệu Đà có thể giết được các quan lại nhà Tần một cách dễ dàng như vậy? Long Hưng cũng là tên quê hương của Lý Bôn, người đã nổi lên đánh chiếm Long Biên, lập nước Vạn Xuân.

Thần thú ở núi Vũ Ninh.

Nam Việt lập quốc

Sử ký Tư Mã Thiên ghi, khi Tần bị diệt vong, Đà liền đánh chiếm Quế Lâm, Tượng Quận, tự lập làm Nam Việt Vũ Vương, Sau khi Cao Đế bình định thiên hạ, do Trung nguyên lao khổ nên bỏ qua không giết Đà. Nhà Hán năm thứ 11, sai Lục Giả nhân đó lập Đà làm Nam Việt Vương, cùng chẻ tín phù để thông sứ.
Đoạn sử hết sức quan trọng này về việc Triệu Đà xưng Vương, nhưng cũng lại hết sức khó hiểu, gây lầm lẫn. Nhà Tần diệt vong năm 206 TCN, còn Cao Đế năm thứ 11 là năm 196 TCN, ngay năm sau đó Lưu Bang mất. Hai sự kiện cách nhau tới 10 năm. Triệu Đà nếu đã xưng là Nam Việt Vũ Vương từ năm 206 TCN rồi thì sao mãi mười năm sau, đến cuối đời Lưu Bang mới cho người đến phong Vương cho Nam Việt? Người khởi nghĩa ở Chân Định chống Tần đã là Lưu Bang thì ai là người xưng Vũ Vương vào năm 206 TCN?
Vấn đề Nam Việt Vũ Vương được làm sáng tỏ nhờ nhận định: Triệu Đà khởi nghĩa ở miền Bắc Việt là Lý Nam Đế, cũng là Hiếu Cao Tổ Lưu Bang. Vì Lý Bôn – Lưu Bang đều xưng Đế của cả Thiên hạ Trung Hoa, nên người xưng Vương ở Nam Việt không phải là Triệu Đà.
Theo thần tích Hạ Mạo (Phú Thọ), Hậu Hùng Vương tên là Chàng Ánh, vốn là dòng dõi vua Hùng thứ 17 nước Văn Lang, được ban cho họ Lê, lấy vợ là con gái Đông Chu Quân (tức An Dương Vương). Khi Tần (Thục) chiếm được miền Bắc Việt, Chàng Ánh đã không khuất phục mà tự lập ở Việt Tây (Quảng Tây), xưng là Hậu Hùng Vương. Người con út của Hậu Hùng Vương đã được cử đem ba ngàn quân tham gia cuộc khởi nghĩa của Triệu Đà.
Triệu Đà lên ngôi là Vũ Đế, nhưng vẫn cắt Quảng Tây cho Việt. Sau 6 năm Hùng Ánh Vương lâm bệnh…. Đến khi Hùng Ánh Vương lâm chung… bèn ban tên Chàng Út Lôi Mao, cho tự cai quản. Ngày 15 tháng 8 Hùng Vương băng hà, Chàng Út phát tang, kế vị, xưng là Việt Tây Út Ngọ Lôi Mao Đại vương. Vũ Đế cho lệnh sách phong. Ba năm tang lễ xong, Vương cho hoàng hậu họ Triệu giám quản đất nước… Vũ Đế mới ban sắc: Cha truyền con nối là lễ thế tập…
Đối chiếu với Nam Việt Úy Đà liệt truyện thì:

  • Triệu Đà khởi nghĩa ở Đường Sâm, Vũ Ninh, Long Biên là Triệu Vũ Đế – Hán Cao Tổ – Lý Nam Đế.
  • Khi nhà Tần sụp đổ, thiên hạ phân chia, chư hầu tranh giành, người đã chiếm Quế Lâm, Tượng Quận, tự xưng Nam Việt Vũ Vương là Hậu Hùng Vương họ Lê.
  • Hơn 9 năm sau, tính từ khi Tần vong, tức đúng là quãng năm 196 TCN, Triệu Vũ Đế – Hán Cao Tổ sắc phong cho Út Ngọ Lôi Mao làm Nam Việt Vương. Vì Chàng Út là con rể Triệu Vũ Đế, nên từ đó Nam Việt Vương lấy Triệu làm họ.

Như vậy, người được Lưu Bang cử Lục Giả sang sắc phong ở Nam Việt không phải là Triệu Vũ Vương, mà là Triệu Văn Vương. Nhận định đột phá này cho phép giải quyết được vấn đề tuổi thọ 120 năm của Triệu Đà, vì trong 70 năm trị vì Nam Việt có tới 3 vị vua nối nhau: Triệu Vũ Đế – Lưu Bang, Triệu Vũ Vương – Lê Hùng Ánh và Triệu Văn Vương – Út Ngọ Lôi Mao.
Nhìn theo dòng sử khác của thời Tiền Lý Nam Đế, thì khi Lý Bôn chiếm Long Biên dựng nước Vạn Xuân, có Triệu Quang Phục tham gia khởi nghĩa, được phong là Tả tướng. Lý Nam Đế rút về hồ Điền Triệt là sự kiện Lưu Bang bị Hạng Vũ đuổi vào vùng Hán Trung. Triệu Quang Phục được Lý Bôn giao phó, ở lại giữ Long Biên, chống lại quân họ Hạng (truyền thuyết gọi là giặc Lương) không được, phải rút về vùng đầm Dạ Trạch ở Khoái Châu (Hưng Yên), dùng lối đánh du kích mà cầm cự trong nhiều năm. Cuối cùng Triệu Quang Phục cũng đuổi được quân Hạng ra khỏi Bắc Việt. Không lâu sau đó, Quang Phục dẫn quân dẹp loạn Lâm Ấp thắng lợi, thanh thế ngày càng lớn.
Tới khi Lưu Bang giết được Hạng Vũ, lên ngôi Hoàng đế thì vùng phía Nam đã nằm trong phạm vi cai quản của cha con Triệu Túc và Triệu Quang Phục. Triệu Túc là dòng quý tộc Lạc tướng Chu Diên, tức chính là Hậu Hùng Vương, người bắt đầu chiếm cứ quận Quế Lâm – Quảng Tây từ thời Tần. Quang Phục nhận sự ủy thác của Lý Nam Đế đóng quân ở quận Nam Hải (Long Biên) và rồi chiếm được cả vùng Lâm Ấp. Với địa bàn như vậy, không khó hiểu khi Triệu Túc tự xưng là Nam Việt Vũ Vương ngay khi Lưu Bang và Hạng Vũ còn đang tranh hùng thiên hạ.
6 năm sau, Lê Túc – Triệu Vũ Vương mất, khoảng năm 199 TCN. Quang Phục kế vương vị của cha, tiếp tục đánh chiếm mở rộng địa bàn và đi khắp nơi trong nước an định dân tình. Triệu hậu nắm giữ quyền triều chính khi Quang Phục không ở trong triều.
3 năm sau khi mãn tang cha, Triệu Quang Phục, tức Út Ngọ Lôi Mao, nhận sắc phong và phẫu phù của Hiếu Cao Tổ, trở thành Triệu Văn Vương. Đây mới là lý do chính việc Nam Việt Vương đã tiếp đãi sứ giả của Hán là Lục Giả một cách hậu hĩ, lưu giữ trong cung mấy tháng, tặng tơ lụa, trang sức, ngàn vàng. Nam Việt chính thức ra nhập nước Vạn Xuân của Lý Nam Đế Lưu Bang dưới dạng một phiên vương nội thuộc.

Lý Nam Đế và Hoàng hậu Đỗ Thị Khương ở Thái Bình.

Triệu Văn Đế Hưng Quốc

Phần lớn các chư hầu là công thần được Lưu Bang phong vương khi tranh hùng cùng Hạng Vũ đều nhanh chóng bị Lưu Bang tìm cách loại bỏ sau khi lên ngôi. Tề Vương Hàn Tín, Lương Vương Bành Việt, Cửu Giang Vương Anh Bố, Triệu Vương Trương Ngao, Yên Vương Lư Quán lần lượt theo nhau ra đi. Danh hiệu phong vương chỉ còn đối với những người con của Lưu Bang.
Trong bối cảnh đó thì mới thấy Nam Việt Vương ngang nhiên tồn tại, lại còn được chính Lưu Bang phong vương, phải là một thế lực mạnh như thế nào. Chắc chắn Nam Việt Vương là đại công thần và có quan hệ thân thích với Hiếu Cao Lưu Bang.
Thời Cao Hậu, nhà Hiếu không bán đồ sắt cho Nam Việt. Nam Việt Vương cho rằng đây là âm mưu của Trường Sa Vương muốn phế bỏ tước vương của Nam Việt. Một lần nữa thông tin trên lại cho thấy sự tranh giành vương vị thời kỳ này khốc liệt như thế nào. Trong số các chư hầu nhà Hiếu, Nam Việt Vương là vị vương có thế lực mạnh nhất, uy hiếp trực tiếp đến Đế vị của nhà Hiếu.
Cao Hậu cử Long Lự Hầu Chu Táo xuất quân đánh Nam Việt nhưng đã nhận thất bại thảm hại. Cao Hậu mất. Triệu Việt Vương lúc này không còn phải kiêng dè gì nữa, công khai xưng chế, tức là xưng Đế toàn thiên hạ. Nhân đà binh uy đó, Triệu Văn Đế chiêu dụ luôn 2 vùng đất Mân Việt ở phía Đông và Tây Âu Lạc trở thành nước chư hầu của nhà Triệu. Trung Hoa lúc này chia thành 2 đế quốc. Nhà Hiếu làm Đế ở phương Bắc. Nhà Triệu xưng Đế ngang hàng với nhà Hiếu, đi xe mui vàng, cắm cờ tả đạo, ở phương Nam. Đất đai nhà Triệu Đông Tây dài vạn dặm.
Bằng chứng xác đáng về hiệu xưng Đế của Triệu Văn Đế là ngôi mộ Triệu Mạt đã phát hiện ở Quảng Tây. Trong mộ đã tìm được bộ ấn vàng, đặc biệt nhất là ấn “Văn Đế hành tỉ”, xác nhận chắc chắn rằng người xưng Đế Nam Việt là Triệu Văn Vương. Quy mô, mức độ phong phú và quý giá của các hiện vật trong mộ cho thấy nó không kém gì mộ của các vị Đế của nhà Hiếu cùng thời. Ngoài ấn Văn Đế hành tỉ trong mộ còn có “ấn Đế”, khẳng định ngôi Đế của nhà Triệu.
Cao Hậu mất, các trung thần nhà Hiếu đã tôn người con của Lưu Bang là Đại Vương Lưu Hằng (vị Vương ở đất Đại) lên ngôi, là Hiếu Văn Đế. Ngay trong năm đầu tiên khi lên ngôi, Hiếu Văn Đế đã phải vội vã giải quyết quan hệ với nhà Triệu. Lục Giả, người từng đi sứ phong Vương cho vua Triệu, một lần nữa được cử đi sứ Nam Việt.
Lý do Lục Giả đưa ra để thuyết phục Triệu Văn Đế bỏ xưng chế là chuyện mồ mả người thân và con em ở Chân Định đang thuộc nhà Hiếu. Lý do này thực là “lãng xẹt” vì xét ra vua Triệu đã hơn nửa thế kỷ không về quê, mồ mả với người thân đâu có quan trọng so với ngôi Đế nữa. Hợp lý hơn như theo truyền thuyết Việt cho biết, Triệu Việt Vương nghĩ đến ân tình cũ với Lý Nam Đế (Lưu Bang) từ khi khởi nghĩa kháng Tần nên mới đồng ý giảng hòa với Lý Phật Tử – con cháu họ Lưu.
Triệu Văn Đế là con của Triệu Túc, dòng dõi nhà Chu, nên mồ mả và người thân ở đây phải chăng là chỉ tông miếu và con cháu của Chu Vương? Chỉ khi vua Triệu thực sự xuất thân là quý tộc từ thời Chiến Quốc thì mới có mồ mả và dòng dõi ở phương Bắc.
Sau chuyến đi sứ của Lục Giả, Triệu Văn Đế đồng ý bỏ xưng chế và xưng là phiên vương khi thông sứ. Nhưng trong nước ông vẫn dùng ấn và nghi lễ Đế vị như thường, mà bằng chứng là những chiếc ấn vàng trong lăng mộ của ông ở Quảng Tây.
Một chi tiết mà Nam Việt Úy Đà liệt truyện chép không rõ ràng là về Triệu Hồ. Sử ký chép Hồ là cháu Triệu Vũ Đế nhưng không rõ thời gian mất, tựa hồ như chuyện của Triệu Hồ được ghép vào dòng sử nước Nam Việt vậy. Lăng mộ tìm được ở Quảng Tây cho thấy Văn Đế có tên là Triệu Mạt. Và Văn Đế là người đã xưng Đế, chứ không phải ở thời kỳ đã bỏ Đế hiệu như Sử ký chép.
Chuyện Triệu Hồ là cháu của Triệu Đà có lẽ là chép theo truyền thuyết Mỵ Châu – Trọng Thủy. Sự thực thì Trọng Thủy là con của nhà Tần họ Triệu, chứ không phải nhà Triệu nước Nam Việt. Triệu Hồ phải chăng tương đương với công tử Hồ Hợi, tức Tần Nhị Thế?

Cuối thời Triệu Văn Đế đã xảy ra chuyện Mân Việt Vương đánh phá biên giới với Nam Việt. Triệu Văn Đế muốn lợi dụng quân đội nhà Hiếu nên báo cho nhà Hiếu xin giúp binh. Không ngờ quân Mân Việt tự mâu thuẫn nội bộ mà tan. Triệu Văn Đế đành phải tạ ơn nhà Hiếu bằng cách cho thái tử Anh Tề vào chầu làm con tin.

Văn Đế hành tỉ
Đế ấn trong mộ Văn Đế Triệu Mạt ở Quảng Tây.

Nam Việt vong quốc

Như vậy Triệu Văn Đế mất năm Kiến Nguyên thứ 4 (137 TCN), là năm mà Sử ký chép Triệu Vũ Đế băng hà. Anh Tề làm con tin ở Trường An hơn chục năm, quay về kế vị. Anh Tề lập tức dấu đi Đế ấn.
Hành động dấu ấn này khá khó hiểu. Anh Tề dấu ấn để làm gì? Trong cách nhìn mới thì hành động này có thể hiểu là Anh Tề đã bỏ việc dùng Đế hiệu mà Triệu Văn Đế vẫn duy trì ở trong nước. Anh Tề trở thành Triệu Minh Vương, thần phục nhà Hiếu.
Rất có thể Đế ấn này là chiếc móng rồng mà thần nhân đã trao cho Triệu Quang Phục ở đầm Dạ Trạch. Anh Tề là Nhã Lang trong truyền thuyết Việt, đã dấu móng rồng thần đi, dẫn đến việc Nam Việc mất nước.
Những diễn biến tiếp theo của nhà Triệu Nam Việt thì đã khá rõ ràng. Minh Vương mất, con thái tử Hưng lên nối ngôi, là Triệu Ai Vương. Mẹ là Cù hậu làm Thái hậu, truyền thuyết Việt gọi là Cảo Nương.
Do đã đánh mất Đế hiệu, thần phục nhà Hiếu nên mẹ con Cù hậu đã bị thừa tướng họ Lữ giết. Kiến Đức được Lữ Gia lập làm vua Triệu Vệ Dương Vương.
Nguyên Đỉnh năm thứ 5, Hậu Lý Nam Đế cho Lâu thuyền tướng quân Dương Bộc và Phục Ba tướng quân Lộ Bác Đức tấn công, Phiên Ngung thất thủ. Vua Triệu cùng Lữ Gia lên thuyền chạy về đến cửa Đại Nha ở Nam Định thì bị bắt. Nhà Triệu nước Nam Việt chấm dứt từ đây.

Đọc giải sự tích về Triệu Việt Vương

Trước những tư liệu mới về Triệu Đà ở miền Bắc Việt và Hậu Hùng Vương ở Phú Thọ (thần tích Hạ Mạo và Mạo Phổ) thì nay đã có thể xem xét lý giải được các sự tích về Triệu Việt Vương. Một sự tích Triệu Việt Vương điển hình là bản ngọc phả của thôn Kiều Ngõa, xã Lịch Đông, huyện Tây Chân, phủ Thiên Trường, đạo Sơn Nam Hạ, nay thuộc xã Liêm Hải, Trực Ninh, Nam Định. Đây là bản ngọc phả được lưu truyền ở địa phương, không phải dạng thần tích do Hàn lâm viện đại học sĩ Nguyễn Bính soạn, nên nó còn lưu giữ được các thông tin nguyên bản dân gian, chưa qua chỉnh lý của nhà nước phong kiến xưa.

Trang cuối ngọc phả thôn Kiều Ngõa.

Kể về nguồn gốc của Triệu Quang Phục, ngọc phả chép: Khi đó ở nước ta tại huyện Châu Diên, phủ Tam Đới, đạo Sơn Tây có một người họ Triệu tên Túc, vợ là Lý Thị Đàm. Tổ tiên của ông Túc vốn làm quan có tiếng, trải qua 6 triều thì về quê sinh sống.

Cha của Triệu Việt Vương là Triệu Túc, tổ tiên từng làm quan to qua 6 triều vua trước đây. Đây là thông tin khó hiểu nhưng cũng là manh mối xác định nguồn gốc của Triệu Việt Vương. Khi so sánh với thần tích Hạ Mạo (Phú Thọ) thì Triệu Túc tương đương với Chàng Ánh, dòng dõi Hùng Vương, quê ở Sơn Tây (Phú Thọ), làm quan nhiều đời trong triều Hùng. Bà mẹ Lý Thị Đàm tương đương với con gái Đông Chu Quân trong thần tích Hạ Mạo. Còn Triệu Quang Phục tương đương với Chàng Út Ngọ trong thần tích này.

Một điểm đáng suy nghĩ khác là ông Triệu Túc được biết là ở huyện Chu Diên. Chu Diên nghĩa là con chim màu đỏ, tương ứng với hình tượng Phượng hoàng ngậm bút ngọc bay đến trong tiếng sấm của thần tích Mạo Phổ. Lôi Mao hay lông sấm là hình ảnh gặp phổ biến trên trống đồng của nước Nam Việt. Rất có thể Chu Diên cũng là hình tượng biểu trưng của nước Nam Việt như được thể hiện trên các trống đồng. Ý nghĩa của hình chim Phượng hoàng đỏ là chỉ dòng Tiên của nhà Chu – Thục (An Dương Vương).

Ngọc phả Kiều Ngõa chép: Ông Túc rất vui mừng, cho rằng người con này tất sẽ hưng phục gia nghiệp, bèn đặt tên là ông Phục. Nếu Triệu Túc là dòng dõi Hùng Vương thì chữ Phục trong tên Triệu Quang Phục là có nghĩa phục hưng lại cơ đồ họ Hùng. Ở đây chỉ cơ đồ của nước Âu Lạc, đã bị nhà Tần chiếm mất vào thời Hùng Vương cuối cùng – thời An Dương Vương. Triệu Quang Phục là dòng dõi nước Âu Lạc của nhà Chu – Thục, đã tham gia khởi nghĩa chống lại nhà Tần mà phục quốc.

Ngọc phả kể: Ít lâu sau Lâm Ấp vào cướp bóc. Ông Bôn lập đàn bái ông Phục làm Tả tướng, Phạm Tu làm Hữu tướng, sai dẫn quân đánh phá. Từ đó Bắc đuổi Tiêu Tư, Nam dẹp Lâm Ấp. Triệu Quang Phục tham gia khởi nghĩa kháng Tần của Lý Bôn – Triệu Vũ Đế, được bái làm Tả tướng. Trong quá trình khởi nghĩa đó, Triệu Quang Phục được cử đánh dẹp quân Lâm Ấp ở phương Nam. Dấu vết của việc này là di tích thờ Triệu Việt Vương ở xa về phía Nam như đền Triệu Việt Vương ở xã Trinh Hà, Hoằng Hóa, Thanh Hóa.

Ngọc phả kể: Ông Phục tự lập là vua, hiệu là Triệu Việt Vương, đóng đô ở thành Long Biên. Đây là sự kiện Triệu Quang Phục được phong Vương ở vùng đất Bắc Việt sau khi khởi nghĩa chống Tần thắng lợi. Trong thần tích Hạ Mao thì Chàng Út Ngọ đã được Triệu Vũ Đế gả con gái cho và cho dùng chữ Triệu làm tên gọi. Trong Hoa sử gọi là Triệu Văn Vương, vị vua thứ hai của nước Nam Việt. Vị vua đầu là Triệu Vũ Vương, hẳn là để chỉ Triệu Túc – Hậu Hùng Vương.

Ngọc phả Kiều Ngõa kể: Ông Phục nhận được móng rồng ở đầm Dạ Trạch. Móng rồng là chiếc ấn rồng Văn Đế hành tỉ, mà nay đã tìm thấy trong mộ của Triệu Văn Đế tại Quảng Châu. Đây là sự kiện Triệu Văn Vương xưng Đế sau khi Lữ Hậu nhà Tây Hán mất. Với vị trí là Đại tướng quân và là con rể của Lý Bôn (Lưu Bang), khi cả Cao Tổ và Cao Hậu quy tiên, Triệu Quang Phục cho rằng mình mới là người nối ngôi chính thống nên đã xưng Đế và lập quốc gia riêng. Cũng vì sự tự xưng này mà Triệu Việt Vương còn được gọi là Hoàng đế trong các tư liệu xưa.

Ngọc phả kể: Việt Vương cũng dời đô về Ngọc Ninh. Ngọc Ninh ở đây hẳn là chỉ núi Vũ Ninh (Châu Sơn), từng là nơi đóng quân của Triệu Vũ Đế khi khởi nghĩa. Có thể Triệu Quang Phục đã tham gia khởi nghĩa cùng Triệu Vũ Đế ngay từ những ngày đầu ở núi Vũ Ninh. Ngoài ra, đây có thể còn chỉ sự kiện vua Triệu dời trị sở từ Long Biên về Phiên Ngung khi xưng đế, lập quốc Nam Việt.

Ngọc phả kể: Vương thường đi khắp thiên hạ, tìm chỗ lập đồn doanh để làm nơi phòng bị. Một hôm Vương xa giá tới thôn Kiều Ngõa, xã Lịch Đông, huyện Tây Chân, phủ Thiên Trường, đạo Sơn Nam. Vương truyền quân cùng nhân dân thiết lập một đồn sở. Vương thường xa giá đến đây đóng quân ở đồn, dạy dân trồng cấy, dân được lợi nhiều.

Sau khi khởi nghĩa thắng lợi và lên ngôi vua, Triệu Việt Vương từng đi khắp nơi, lập các đồn doanh ở vùng ven biển. Như vậy khu vực hành cung vua Triệu ở Ninh Bình (Thần Thiệu, Trùng Thượng, Trùng Hạ) thuộc về thời Triệu Văn Vương, không phải thời Vũ Đế Triệu Đà. Dẫn chứng khác là ở đền Thượng Hoàng Đan (Ý Yên, Nam Định) gần đó thờ đủ 5 đời nhà Triệu nước Nam Việt, chứ không chỉ một mình Triệu Việt Vương hay Triệu Vũ Đế.

Ngọc phả kể về sự kết thúc của Triệu Việt Vương: Địa phương lập đền chính ở nơi Vương hóa, viết thần hiệu là Triệu Việt Hoàng đế để phụng thờ. Tới nay vẫn còn đền (tức xã Độc Bộ, nay đổi là Lục Bộ). Lại nói, từ khi ông Phục hóa về sau nhân dân thôn Cầu Ngõa, xã Lịch Động đều bị tật dịch, súc vật không yên. Nhân dân đi bốc quẻ xem, mới lập miếu ở nơi đồn dinh, viết thần hiệu Việt Vương Hoàng đế để phụng thờ.

Các di tích ở vùng ven biển Nam Định như vậy là di tích hình thành từ nơi hóa của Triệu Việt Vương. Người đã hóa ở cửa biển Đại Nha lúc này không phải là Triệu Văn Vương thời khởi nghĩa kháng Tần, mà là Triệu Vệ Dương Vương, vị vua cuối của nhà Triệu Nam Việt. Người cháu của Lý Bôn là Lý Phật Tử, tức là vua Hiếu Vũ Đế, đã tấn công kinh đô Phiên Ngung. Triệu Vệ Dương lên thuyền chạy về phía Tây, về nơi quê cha đất tổ, nhưng khi đổ bộ vào vùng cửa biển Nam Định – Ninh Bình thì bị quân của Lộ Bác Đức truy sát. Vua Triệu đã bị bắt và tử tiết ở vùng ven biển này. Nhân dân sau đó lập đền thờ, không chỉ thờ vị vua cuối cùng của nhà Triệu mà là thờ cả triều đại nhà Triệu nước Nam Việt dưới tên Triệu Việt Vương.

Các di tích thờ phụng Triệu Vũ Đế và Triệu Việt Vương.

Như vậy, danh xưng Triệu Việt Vương ở nước ta có thể là:

  1. Triệu Trọng Thủy: Ai cũng biết chuyện Trọng Thủy là con trai của Triệu Đà, lừa gạt con gái của An Dương Vương lấy mất lẫy nỏ thần, dẫn đến cơ đồ nước Âu Lạc đắm chìm biển sâu. Thế mà vẫn có một người không biết tới chuyện này, đó là Tư Mã Thiên, vì trong Nam Việt Úy Đà liệt truyện không hề nhắc tới Trọng Thủy hay Mỵ Châu. Lý do là Trọng Thủy không phải con trai của Nam Việt Úy Đà, mà là vương tử của Tần Vương. Nhà Tần vốn mang họ Triệu do tổ tiên đánh xe ngựa cho Chu Mục Vương và được phân phong ở Triệu thành. Triệu Việt Vương thứ nhất do đó là Tần Vương.
  2. Triệu Vũ Đế: Vị quan lệnh Long Xuyên đã khởi nghĩa kháng Tần thành công, xưng Đế thiên hạ tất nhiên cũng là một vị vua Triệu của người Việt, nên gọi ông là Triệu Việt Vương hoàn toàn phù hợp. Các di tích ở miền Bắc Việt tại Thái Bình, Hưng Yên, Bắc Ninh và Hà Nội hiện đang gọi Triệu Vũ Đế là Triệu Việt Vương. Đây chính là Cao Tổ của họ Triệu, cũng là Lý Bôn hay Lưu Bang.
  3. Triệu Quang Phục: Là người nối tiếp ngôi của Nam Việt Đế Lý Bôn, Triệu Quang Phục tất nhiên là vua của nước Nam Việt, nên cũng được gọi là Triệu Việt Vương. Sự tích Hạ Mạo cho biết chàng Út Ngọ là dòng dõi Hùng Vương, tham gia khởi nghĩa kháng Tần cùng Triệu Vũ Đế, được gả con gái và phong là Triệu Vương, cai quản đất Nam Việt. Như thế Triệu Túc tương đương với Hậu Hùng Vương, còn Triệu Quang Phục là Út Ngọ Lôi Mao. Trong Sử ký Tư Mã Thiên thì Út Ngọ tương ứng là Triệu Văn Vương, mà ngôi mộ có ấn Văn Đế hành tỉ đã được phát hiện ở Phiên Ngung – Quảng Châu. Triệu Văn Đế khi lên ngôi đã có một số lần về thăm quê ở Bắc Việt và từng dẹp quân Lâm Ấp ở phía Nam nên rải rác vẫn còn các di tích hành cung Triệu Việt Vương của vị vua này ở Thanh Hóa, Ninh Bình.
  4. Triệu Vệ Dương Vương: Vị vua Triệu đã thất thủ thành Phiên Ngung, phải lên thuyền chạy về phía Tây, tới cửa biển Đại Ác ở Nam Định thì bị truy sát bắt giết cũng là Triệu Việt Vương. Di tích thờ Triệu Việt Vương ven bờ biển Nam Định – Ninh Bình có rất nhiều, chính là dành cho Triệu Vệ Dương Vương, vị vua cuối cùng của nhà Triệu nước Nam Việt.
Phả đồ so sánh các dòng sử về Triệu Việt Vương.

Nước Nam Việt nhà Triệu trong văn hóa khảo cổ và lịch sử Việt Nam

Đại Việt sử ký toàn thư đã chép Kỷ nhà Triệu cho nước Nam Việt với 5 đời vua, kéo dài hơn trăm năm từ cuối thế kỷ III TCN đến cuối thế kỷ II TCN. Thế nhưng các nhà khảo cổ nước ta hiện nay lại có xu hướng là cứ hiện vật nào có niên đại này thì gọi chung là văn hóa Đông Sơn và gắn nó với nước Âu Lạc của Thục An Dương Vương. Hơn 100 năm tồn tại của một vương triều chính thức xưng Đế đầu tiên, có lãnh thổ được biết rộng lớn nhất trong sử Việt trở nên “bặt vô âm tín” về mặt khảo cổ. Cứ tưởng chừng như nước Nam Việt chưa hề có mặt ở đất Việt Nam vậy.

Bằng chứng rõ ràng nhất về các di vật nhà Triệu Nam Việt ở nước ta là ở thành Cổ Loa. Nhà sưu tầm Kiều Quang Chẩn viết: Chúng ta trở lại Cổ Loa với những tường thành hào lũy bao bọc, chứng tỏ là một nơi cư trú quan trọng, xứng đáng một kinh đô thời cổ. Hàng vạn mũi tên đồng nhiều chiếc chưa thành phẩm đào được ở Cầu Vực, những vũ khí hình tim ở Mả Tre, những khuôn đúc đồng chứng tỏ Cổ Loa có xưởng đúc vũ khí. Ngoài ra người ta còn đào được một trống Đông Sơn lớn và hoàn hảo có hoa văn được xếp loại chung với những chiếc trống Đông Sơn quan trọng nhất theo phân loại Heger I. Loại trống này có hoa văn trên vai y hệt như chiếc thạp trong mộ Triệu Muội ở Quảng Châu và chiếc thạp của Triệu Đà ở bảo tàng Babier Mueller tại Thụy Sĩ. Ta có thể dễ dàng định tuổi chiếc trống và bộ vũ khí chôn theo cùng thời với Triệu Đà và người cháu của ông, tức khoảng thời gian ra đời nước Nam Việt năm 206 TCN cho đến khi cháu ông mất năm 122 TCN.

Hàng vạn mũi tên đồng ba cạnh đã được tìm thấy ở Cổ Loa. Cho dù mũi tên đồng tạo ra cảm giác liên quan đến chiếc nỏ thần của An Dương Vương, nhưng niên đại lò đúc những mũi tên này lại là thế kỷ II TCN, tức sau thời An Dương Vương gần nửa thế kỷ. Niên đại mẫu than lấy từ lò đúc có khuôn đúc tên ở đền Thượng Cổ Loa xác định bằng C14 rơi vào quãng năm 189 TCN. Hiển nhiên thời gian này Cổ Loa đang nằm trong nước Nam Việt nhà Triệu.

Đồ gốm ở thành Cổ Loa có ống ngói khá đặc trưng, được gọi là ngói Cổ Loa. Nhưng loại ngói này lại thấy giống với loại ngói ở Trung Quốc thời Tây Hán, mà cụ thể là ngói trong mộ Văn Đế Triệu Mạt rất nổi tiếng ở Quảng Châu. Thật may mắn là hiện vật của nhà Triệu Nam Việt có thể được biết một cách chính xác nhờ ngôi mộ của Triệu Văn Đế, có ấn tín ghi tên đầy đủ, chính xác.

Trong mộ Triệu Văn Đế cũng có đồ đồng Đông Sơn. Đó là chiếc thạp lớn, trên thân có kiểu tạo hoa văn in chìm rất giống với thạp đồng Hợp Minh tìm thấy ở Yên Bái (đã được công nhận bảo vật quốc gia năm 2013). Trống đồng Cổ Loa có hoa văn tương đồng thạp trong mộ Triệu Văn Đế như đã nói trên. Phần lớn các trống đồng cỡ lớn, hoa văn cầu kỳ phức tạp, ví dụ như trống đồng Sao Vàng đang được trưng bày ở Bảo tàng lịch sử, là trống đồng Đông Sơn giai đoạn muộn, tương ứng với niên đại thế kỷ II-I TCN. Do đó về thực chất đó chính là những trống đồng nước Nam Việt.

Một đồ vật điển hình khác của đồ đồng Đông Sơn muộn là những chiếc chuông voi. Gọi là chuông voi, nhưng đây là những chiếc chuông đồng nhỏ dạng hình tam giác cân có 2 tai nhỏ ở phía trên. Một trong những chiếc chuông voi tìm thấy ở Cốc Lếu, Lào Cai có dòng chữ Bang kỳ túc cát phúc đúc nổi. Chữ sử dụng trên chuông là dạng chữ Triện Lệ, loại chữ phổ biến từ thời Tây Hán.

Rồi đến việc phát hiện dấu vết lá dong trên mảnh nồi đồng tìm thấy ở Vĩnh Lộc, Thanh Hóa, cũng có niên đại xác định là thế kỷ II – I TCN. Món bánh chưng nấu bằng chiếc nồi này do đó cũng là dưới thời nước Nam Việt, chứ không thể là của chàng Lang Liêu trước đó vài thế kỷ.

Chuông có chữ phát hiện ở Cốc Lếu, Lào Cai.
Đầu ống ngói Cổ Loa.
Khuôn đúc tên ở Cổ Loa.

Sự “ra đi” cố ý của nhà Triệu Nam Việt khỏi văn hóa khảo cổ và sử Việt thường dựa trên một số thông tin có tên Âu Lạc của Sử ký Tư Mã ThiênTiền Hán thư, bao gồm:

  • Khi Cao Hậu mất Triệu Đà “dùng uy lực uy hiếp nơi biên giới, đem đồ đạc của cải đút lót Mân Việt, Tây Âu Lạc để bắt họ lệ thuộc mình“.
  • Sau đó là trong bức thư của Triệu Đà gửi Hiếu Văn Đế có đoạn: “Đông Mân Việt nghìn người cũng xưng hiệu là vương. Tây Âu Lạc nước trần truồng cũng xưng là vương.”
  • Khi Lộ Bác Đức diệt nước Nam Việt, “Giám quan người Việt quận Quế Lâm là Cư Ông dụ dân Âu Lạc đi theo nhà Hán“.
  • Năm 110 TCN khi nhà Tây Hán được toàn bộ Nam Việt: “Tả tướng Hoàng Đồng của Âu Lạc xưa chém được Tây Vu Vương nên được phong làm Hạ Phu hầu“.

Với lý do tới thời Tây Hán vẫn còn tướng của Âu Lạc nên có chuyên gia thậm chí còn kết luận rằng Triệu Đà chưa từng làm chủ được nước Việt ta và nước Âu Lạc của An Dương Vương còn kéo dài dài… Nhẹ nhàng hơn thì có người cho rằng các quý tộc Âu Lạc (từ thời An Dương Vương) vẫn có quyền tự trị cho mãi đến thời Hiếu Vũ Đế diệt Nam Việt. Từ đó để suy ra trống đồng, chuông đồng, thạp đồng… của thế kỷ II TCN tìm thấy ở Việt Nam thuộc về nước Âu Lạc hay thuộc về dòng dõi quý tộc Âu Lạc.

Dựa vào tên Âu Lạc trong thư tịch trên để kết luận nước Âu Lạc còn tồn tại dưới thời Nam Việt thì quá chủ quan. Trong 2 thông tin đầu Triệu Đà nói về nước “Tây Âu Lạc”, không phải Âu Lạc. Đất Âu Lạc ở miền Bắc Việt ngày nay nằm ở phía Nam, chứ không nằm ở phía Tây của nước Nam Việt. Tây Âu là chỉ một khu vực khác, là vùng đất giữa Vân Nam và Quảng Tây. Thủ lĩnh của Tây Âu là Dịch Hu Tống đã bị nhà Tần giết từ thế kỷ III TCN. Khu vực này có thể đã “tái xưng vương” khi Tần Thủy Hoàng mất, thiên hạ đại loạn, các nước chư hầu cũ đều tự xưng vương.

Còn 2 thông tin sau thì lại càng mù mờ vì chỉ nói đến dân Âu Lạc và tướng của Âu Lạc xưa. Âu Lạc ở đây chỉ một vùng đất, không phải là một nước riêng, vì không có thủ lĩnh Âu Lạc. Đến năm 110 TCN, nước Âu Lạc của An Dương Vương đã bị diệt hơn 100 năm rồi. Làm sao còn tướng tá nào của nước Âu Lạc sống đến lúc đó nữa?

Vậy những “quý tộc” Âu Lạc nào còn tồn tại trong suốt thế kỷ II TCN ở nước Nam Việt? Sự thực thì chính các vua nhà Triệu là dòng dõi của Thục Vương nước Âu Lạc bởi nước Nam Việt vốn được khởi dựng từ vùng đất Âu Lạc vào cuối thời Tần. Điều này đặc biệt được nêu rõ trong tộc phả họ Lê ở Hạ Mạo (Thị xã Phú Thọ), cho biết Triệu Văn Vương có cha là con thứ của Hùng Vương thứ 17, mẹ là con gái của Đông Chu Quân.

Thần tích Hạ Mạo và Mạo Phổ tóm tắt như sau: Hùng Vương thứ 17 (Hùng Nghị Vương) có một người con gọi là Chàng Ánh. Chàng Ánh lấy vợ là con gái của Đông Chu Quân. Một hôm người vợ nằm mơ thấy có chim phượng hoàng ngậm chiếc bút ngọc đến trao trong tiếng sấm. Từ đó bà có mang, sinh ra những người con đặt tên là Bút Lôi Mao.

Khi Tần đánh chiếm nước Âu Lạc, Chàng Ánh đã chống lại và tách lập một nước riêng ở Quảng Tây (Việt Tây), gọi là Hậu Hùng Vương, được ban tính danh họ Lê. Các con của Hậu Hùng Vương tiếp đó đã tham gia của khởi nghĩa chống Tần cùng với Triệu Đà. Khi nhà Tần bị diệt, người con Út có công nhất được phong làm Vương cai quản vùng đất Việt, lấy tên là Út Ngọ Lôi Mao Đại vương. Chàng Út lấy con gái của Triệu Đà làm hoàng hậu. Từ đó Nam Việt gọi là nhà Triệu.

Sự tích chim phượng ngậm ngọc bay đến trong tiếng sấm và tên của vị vua Út Ngọ Lôi Mao là lời giải thích cho hình tượng hình người đội lông chim, thậm chí là hình người hóa lông chim, là đặc trưng thường gặp trên các đồ đồng Đông Sơn như trống đồng, thạp đồng, rìu đồng… Hình lông chim này là Lôi Mao, hay lông sấm của loài chim phượng, chỉ dòng tiên theo mẹ Âu Cơ, nói lên quan hệ trực tiếp giữa triều đại nước Nam Việt với dòng Âu Lạc.

Hình người đội lông chim cách điệu trên trống đồng Sao Vàng.

Đôi câu đối ở đình Hạ Mạo, khẳng định sự tích về 5 đời họ Lê nối nhau làm vua ở vùng đất Quảng Tây:

雄 貉 紀 傳 來 滅 蜀 平 吳 明 在 史

粵 西 相 遜 後 龍 祥 山 壯 莫 成 莊

Hùng Lạc kỷ truyền lai, diệt Thục bình Ngô minh tại sử

Việt Tây tương tốn hậu, long tường sơn tráng mạc thành trang.

Dịch nghĩa

Hùng Lạc ký truyền lại, diệt Thục bình Ngô rạng ở sử

Việt Tây cùng nhường sau, điềm rồng thế núi bãi thành trang.

Tới thời Hiếu Vũ Đế, Lộ Bác Đức dẫn quân diệt kinh đô Nam Việt ở Phiên Ngung. Các quý tộc Nam Việt (tức họ Lê) lên thuyền trở về vùng quê cha đất tổ ở Phong Châu, từ đó có sự phản kháng của Tây Vu Vương chống lại Tây Hán, đóng đô ở Cổ Loa, vốn là tòa thành quân sự xây dựng quy mô từ thời Tần và thời Triệu Đà. Quân Tây Hán tiếp tục đánh Bắc Việt. Hậu quân của Nam Việt phải ẩn lên vùng rừng núi Tây Bắc và Thanh Nghệ, trở thành tiền thân của Nam Chiếu Mạnh Hoạch ở thời kỳ tiếp theo. Đây là lý do vì sao các vùng Tây Bắc và Thanh Nghệ lại phát hiện khá nhiều đồ đồng Đông Sơn giai đoạn muộn, là sự nối tiếp Nam Việt – Nam Chiếu trong giai đoạn này.

Tổng hợp thông tin từ các nguồn thần tích và di tích khác nhau có thể xác định những nhân vật và sự kiện lịch sử chính xảy ra trên đất Việt vào cuối thế kỷ III TCN – thế kỷ II TCN như sơ đồ sau.

Kinh Dương Vương mở nước kỷ Hồng Bàng

Thần tích làng Tiên Cát, Việt Trì, Phú Thọ là một bản thần tích đặc biệt, khác với những thần tích hay gặp khác vì nó không phải được biên soạn bởi các vị quan của triều đình, mà là tư liệu được ghi chép và lưu giữ bởi những người dân ở địa phương tại vùng đất tổ Phong Châu. Trong thần tích Tiên Cát có rất nhiều chi tiết về thời kỳ Kinh Dương Vương – Hùng Vương và có lẽ đây chính là tư liệu gốc cho việc biên soạn các bản ngọc phả Hùng Vương sau này. Đây cũng là một bằng chứng rõ ràng cho việc các truyền tích Hùng Vương đã được lưu truyền rất lâu từ trước thời Lê.

Thần tích Tiên Cát mở đầu: Xưa Kinh Dương Vương vâng lệnh dẫn các tướng dời đến núi Nam Miên trấn giữ, chọn nơi hình thế thắng địa có để lập đô ấp, mới tới đất Hoan Châu (nay là xứ Nghệ An). Vua ngắm xem hình thế, thấy được một vùng có quý cuộc như lâu đài muôn nhẫn, tên là núi Hùng Bảo Thứu Lĩnh, tất cả có 199 núi, tụ họp ở cửa Hội Thống ven giáp biển. Núi chạy quanh co, sông chảy uốn khúc, địa thế rồng cuộn hổ ngồi, bốn hướng cùng trông. Vua bèn xây dựng đô thành làm nơi cho bốn phương triều cống Nam Bang.

Nước ta bắt đầu được dựng nước từ vùng Nghệ Tĩnh, nơi có núi Hồng Lĩnh, được truyền thuyết gọi là Thứu Lĩnh, gần cửa biển Hội Thống. Vị Kinh Dương Vương đầu tiên đã mở nước và đóng đô tại đây.

Thần tích Tiên Cát kể tiếp: Ngày sau Vua lại đi tuần thú, rong ruổi xem khắp các nơi sông núi, đến xứ Sơn Tây thấy một nơi địa hình trùng điệp, sông chung núi đúc. Vua bèn thân ngự giá lên núi, tìm mạch đất, nhận thấy khí mạch từ núi Côn Lôn xuất ra, qua Ải Môn rốn nước thoát mạch, rồng dẫn đi xa, thế rõ từ núi Tụ Long liền tới châu Thu Vật xứ Tuyên Quang, biến ra toà kim tinh cao muôn nhẫn. Mạch đất chạy tới phủ Lâm Thao, Hạ Hòa, Thanh Ba, Sơn Vi, Tây Lan, Phù Khang, đến chùa Hoa Long, thôn Việt Trì ở ngã ba sông Bạch Hạc….

Nhìn thấy tất cả hình thế ấy, Vua nhận ra thế cục của đất quý đẹp hơn đô thành cũ Hoan Châu, bèn lập chính điện ở núi Nghĩa Lĩnh. Vua thường ngự giá đến ở. Bên ngoài lại lập dựng đô thành Phong Châu, lập nước tên là Văn Lang.

Vị Kinh Dương Vương đi tuần thú rồi mở kinh đô tại Phong Châu trên núi Nghĩa Lĩnh thì phải là Đế Minh. Truyện Họ Hồng Bàng cho biết: Đế Minh cháu ba đời Viêm Đế Thần Nông sinh ra Đế Nghi, nhân đi tuần về phía Nam đến núi Ngũ Lĩnh mừng gặp và lấy được con gái bà Vụ Tiên rồi trở về, sinh ra Lộc Tục. Lộc Tục mặt mày sáng sủa, thông minh phúc hậu, Đế Minh rất lấy làm lạ, muốn cho nối ngôi mình. Lộc Tục cố từ, xin nhường cho anh là Đế Nghi. Đế Minh liền lập Đế Nghi làm người nối ngôi cai trị đất phương Bắc, phong cho Lộc Tục làm Kinh Dương Vương để cai trị đất phương Nam, lấy hiệu nước là Xích Quỷ.

Ý nghĩa của đoạn truyện mở nước này là Đế Minh đã hình thành nên một vùng thiên hạ vạn bang với kinh đô đóng ở 2 đầu Nam Bắc. Thời kỳ mở nước Hồng Bàng có 2 phần là Lạc và Hồng (tức Nam và Bắc) với 2 kinh đô là Nghĩa Lĩnh và Thứu Lĩnh, do 2 vị vua chủ trị là Lộc Tục ở đất Lạc và Đế Nghi ở đất Hồng. Đất nước ban đầu được mở theo trục Bắc Nam.

Trong thần tích Tiên Cát, Kinh Dương Vương đã căn dặn con cháu: Ta từng xem được địa hình Sơn Tây có một chỗ ở núi Nghĩa Lĩnh, ngàn núi quy phục, vạn sông chầu tôn, tất có trăm đời đế vương, sau có thần tiên bất tử, do đó đã thiết lập thành đô quý Phong Châu, lại tạo cung Tiên Cát để bố trí nàng Thứ phi tại đó, cũng biết Ngọc nương có tiên cốt, không phải trần phàm. Đất đó tuy là khu nhỏ ở bên sông nhưng do trời đất an bài, núi sông thông đường, cũng đều là đất quý, không phải tầm thường, để làm quốc bảo (tức cung Tiên Cát, sau đổi thành trang Tiên Cát). Con cháu hãy gìn giữ, làm cảnh thủy phủ tiên cung. Chớ làm sai rời đất đó. Để giúp mạch nước được bền lâu.

Đế Nghi là dòng chính thống của Đế Minh, nên tiếp nối cai quản ở vùng Cựu đô Ngàn Hống trên núi Thứu Lĩnh (dãy Hồng Lĩnh – vùng đất Hồng). Lộc Tục (Lạc tộc) là dòng bà Vụ Tiên, được thần tích Tiên Cát kể là bà Thứ phi của Kinh Dương Vương (Đế Minh), xuất xứ từ vùng miền núi châu Đại Man. Bà Thứ phi là dòng Tiên tộc (tức là dòng trên núi, chữ Tiên là người ở trên núi) nên nơi bà ở và được thờ mang tên là đền Tiên.

Câu kể thường gặp trong các thần tích: “Hoan Châu thắng địa kiến lập kinh đô. Nghĩa Lĩnh hình cường trùng tu miếu điện” diễn tả đúng quá trình mở nước theo hướng Nam Bắc của họ Hồng Bàng.

Thần tích Tiên Cát kể:

Bấy giờ khí xuân ấm áp, vô vàn cảnh sắc. Vua bản tính thích phong thuỷ bèn lên thuyền ngự tuần du ngoài biển, đi xem núi sông, trải xem hình đất nước, lạc ra ngoài biển. Bất giác thấy thuyền rồng đã thẳng đến xứ hồ Động Đình. Vua sai dừng thuyền, đứng lên xem, chợt thấy một người con gái lưng eo xinh đẹp, dung nhan tuyệt sắc, từ dưới đáy nước đi đến. Thật là một cuộc hội ngộ hiếm có xưa nay. Vua bèn sai chèo thuyền đến gần. Vua nói:
– Tiên nữ đẹp quá, từ đâu đến đây?
Thiếu nữ đáp:
– Thiếp tên là Thần Long, chính là con gái Động Đình Quân, ở trong thâm cung cửa ngọc, từ lâu đợi bậc anh hùng. Nay trời cho được gặp gỡ, nguyện được theo phụng hầu khăn túi.
Vua vui mừng đẹp ý, bèn dắt vào trong thuyền rồng. Vua cùng người con gái quay giá trở về thành đô, lập Thần Long làm chính cung.

Nước Hồng Lạc sau khi phát triển theo trục Nam Bắc thì chuyển sang giai đoạn mở rộng theo hướng Đông Tây, mà được đánh dấu bằng sự kiện Kinh Dương Vương lấy Thần Long Động Đình. Động Đình là vùng sông nước ven biển phía Đông, do một bộ tộc cư trú gọi là Long tộc. Kinh Dương Vương lúc này là Tản Viên Sơn Thánh đã kết duyên cùng với Thủy Tinh Động Đình, mở rộng dòng giống Lạc Hồng theo hướng tiến về phía Đông.

Tản Viên Sơn Thánh là vị chủ trị vùng Sơn Tây thì đã rõ. Bản thân chữ Tản là tính chất của quẻ Tốn, chỉ hướng Tây. Còn vị vua cai quản miền sông nước phía Đông chính là Lạc Long Quân, người con của Kinh Dương Vương và Thần Long Động Đình. Long Quân được ghi là hóa sinh về biển làm Động Đình Đế Quân.

Đền Tiên Cát cũng thể hiện sự kết hợp của 2 dòng sông và núi, thể hiện ở việc Ngọc Tiên nương (Thứ phi của Kinh Dương Vương) kết nghĩa với 2 người con gái thủy phủ Long cung là Thủy Tinh và Bạch Hoa nương. Lạc Long Quân sau này còn cử thêm 3 hoàng tử trong dòng thủy phủ là Cự Linh, Ất Linh và Thông Thủy Long vương đến hộ giá các vị tiên nương ở cung Tiên Cát.

Như thế, cho tới Lạc Long Quân, người Việt họ Hồng Bàng đã hoàn thành thời mở nước họ Hùng về 4 hướng qua các triều đại Kinh Dương Vương ban đầu là:

  • Đế Minh, vị Hùng Vương đầu tiên, được thờ ở đền Hùng là Đột Ngột Cao Sơn Thánh Vương, là vị Thái tổ khai sinh họ Hồng Bàng.
  • Đế Nghi, vị vua Hùng thứ hai, được thờ ở đền Hùng là Viễn Sơn Thánh Vương. Kinh đô chính ở Thứu Lĩnh trên đất Hồng phương Bắc xưa.
  • Lộc Tục, vị vua Hùng thứ ba, được thờ ở đền Hùng là Ất Sơn Thánh Vương. Lộc Tục là dòng Tiên tộc ở phương Nam xưa, kinh đô đóng tại núi Nghĩa Lĩnh, vùng đất Lạc.
  • Tản Viên Sơn Thánh, vị vua Hùng thứ tư, thường được gọi là Kinh Dương Vương, chủ trị miền rừng núi phía Tây.
  • Lạc Long Quân, vị vua Hùng thứ năm, chủ trị miền sông nước Động Đình ở phía Đông.

Thần tích Tiên Cát cho biết, Hùng Vương từ Kinh Dương Vương trải 18 đời tới Hùng Duệ Vương thì nhường ngôi cho Thục Vương. Thục Vương khi đó đã rời đô về Cổ Loa, còn đất Phong Châu trở thành nơi sinh sống của nhân dân. Tới thời mạt Trần, họ Hồ tranh quyền, kéo đến bãi đá bên sông cạnh đền Tiên Cát, cho cưa phá những voi đá, ngựa đá chầu về núi tổ tại đây, chạm vào địa mạch linh thiêng từ thời Kinh Dương Vương. Hổ báo, kinh nghê đều nổi giận, tiến vào đất Tiên Cát mà giết đuổi quân nhà Hồ… Chi tiết này cho thấy những di tích bằng đá về Kinh Dương Vương và Hùng Vương đã hiện hữu ít nhất là trước thời nhà Hồ. Chắc chắn các tư liệu ghi chép và di tích thờ phụng Hùng Vương đã có từ rất sớm.

5 vị Kinh Dương Vương mở nước họ Hùng đầu tiên ở 5 phương, khởi đầu cho các nhóm tộc người Bách Việt sau này. Tản Viên Sơn Thánh là Nam Thiên Thánh tổ của Lạc tộc, tức là nhóm người Kinh Mường. Long Quân là Vua cha của Long tộc, sau này là nhóm Tày Thái. Đế Nghi là tổ của Viêm tộc phương Bắc xưa (Nam nay), sau là người La Lồi hay người Chiêm Hồ. Lộc Tục dòng bà Vụ Tiên là tổ của nhóm Miêu tộc, tức người Miêu Dao sau này. Một nhánh dòng Đế Minh là Đế Lai do cuộc tranh chấp với Lạc Long Quân đã phải chạy về phía Tây, sau là người Di Lão hay người Âu (trong Âu Cơ, Âu Lạc).

Ngũ tộc thời lập quốc họ Hùng đã bao trùm đầy đủ các nhóm tộc người của vùng Đông Nam Á. Cho nên vua Hùng là tổ của Bách Việt là chính xác. Thần tích chép: “Đời đời cha truyền con nối, đều xưng là Hùng, ngọc lụa xe sách núi sông thống nhất, chính là thủy tổ Bách Việt“.

Thần tích Tiên Cát cũng cho biết ý nghĩa của ngày giỗ tổ Hùng Vương vào tháng 3 âm lịch. Mùa xuân ngày 12 tháng 3 bỗng thấy trên trời một tiếng sấm nổ vang rền, giữa trùng sóng nước đều trở nên mờ mịt. Trăm vương tự nhiên cùng hóa (trước cùng sinh một bầu trăm trứng, nở ra trăm người, sau cũng cùng hóa, đều tại đầu núi Nghĩa Lĩnh vậy. 50 người con theo mẹ lên núi làm sơn thần. 50 người con theo cha xuống nước làm thủy thần, đều tại đây).

Trăm người con trai họ Hùng đã đồng sinh cùng bọc đồng bào và đồng hóa vào ngày 12 tháng 3. Ngày tháng 3 này chính là ngày giỗ tổ của trăm họ Bách Việt, gồm cả 5 nhóm tộc người đã nói ở trên. Giỗ tổ Hùng Vương không phải chỉ là giỗ tổ người Kinh hay người Mường, mà của trăm tộc người trên mảnh đất Việt, Đông Nam Á và Nam Trung Hoa.

Nam Hải vĩ nhân

Học giả Phan Kế Bính có tác phẩm Nam Hải dị nhân liệt truyện, kể về các vị vua, các danh thần, danh tướng, các vị thần… nước Nam. Nhưng tại sao lại gọi nước ta là “Nam Hải” thì không thấy ai nói tới. Thực ra, khu vực miền Bắc nước ta từng có tên là Nam Hải, mà bằng chứng rõ ràng là việc nhà Tần chiếm đất Lĩnh Nam chia thành 3 quận Quế Lâm, Tượng Quận và Nam Hải. Một loạt những danh nhân đất Việt của thời kỳ trước Công nguyên lại càng xác thực tên gọi Nam Hải cho vùng nước Nam ta.

Nam Hải Quan Âm Diệu Thiện

Sự tích về công chúa Diệu Thiện con vua Trang Vương, chịu nhiều khổ nạn nhưng vẫn có lòng thiện tâm dùng tay mình làm thuốc cứu vua cha, cuối cùng tu thành Phật Bà Quan Âm được nhiều sách cổ ghi lại. Những tác phẩm Nam Hải Quan Âm Phật sự tích ca hay Nam Hải Quan Âm bản hạnh quốc ngữ diệu soạn trùng san đã gắn tên gọi Nam Hải với Phật Quan Âm. Nơi tu hành của Phật Quan Âm là núi Hương Sơn (Hà Tĩnh) ở “Nam Hải”. Vậy rõ ràng tên gọi Nam Hải chỉ vùng nước Nam ta ngày nay.

Quan Âm Diệu Thiện được thờ không chỉ ở núi Hương Sơn mà từ thời nhà Đường, Cao Vương Biền đã cho xây chùa Thiên Tôn ở Ninh Bình thờ công chúa Diệu Thiện cùng Trang Vương và Hoàng hậu. Chùa này đặc biệt không thờ Phật mà thờ Tam Thanh, tức là lối thời của Đạo giáo.

Chùa Thiên Tôn nằm trên núi Võ Đang ở Ninh Bình, nơi có động Thiên Tôn thờ Huyền Thiên Trấn Vũ, với công tích là giúp An Dương Vương diệt yêu quỉ xây thành Cổ Loa. Đây không gì khác là nơi thờ Lão Tử, người đã được nhà Đường phong là Thái Thượng Huyền Nguyên Hoàng Đế và là vị Đại Đạo Thiên Tôn trong bộ Tam Thanh của Đạo giáo.

Công chúa Diệu Thiện luôn được thờ cùng với Lão Tử Lý Bá Dương nên có thể xác định đây là một vị công chúa ở vào cuối thời Tây Chu, chuyển sang Đông Chu. Trang Vương như vậy là một vị vua Chu, có thể là Chu U Vương, vị vua nổi tiếng bạo ngược cuối thời Tây Chu. Đất Nam Hải lúc này ứng với khu vực phía Đông nhà Chu, nơi trận động đất vùng Tam Xuyên đã báo hiệu sự sụp đổ của vương triều Chu và được Bá Dương Lão Tử đăng đàn cảnh báo vua về họa mất nước tại Cổ Loa.

Nếu Lão Tử được coi là người mở đầu cho Đạo giáo thì Diệu Thiện chính là người mở đầu Phật giáo ở nước ta. Giáo lý của Phật Bà Nam Hải là “Thiện”, cứu khổ cứu nạn, từ bệnh tật đến thủy hỏa đạo tặc.

Chùa Quan Âm ở núi Bổ Đà (Việt Yên, Bắc Giang).

Nam Hải An Dương Vương

Thục chủ vốn là người Ai Lao, dòng dõi họ Hùng. Sau khi được vua Hùng nhường ngôi, Thục chủ về đóng đô ở Cổ Loa, xưng là An Dương Vương. Đây là chuyện xảy ra vào quãng thời Chiến Quốc. Khi đó các con của Tây Chu Quân (bộ chủ Ai Lao) tranh chấp nhau, một người trong số đó đã chiếm vùng phía Đông của vua Chu (vua Hùng), lập thành Đông Chu Quân.

Nhà Tần thông hiếu với Đông Chu Quân, cử hoàng tôn là Trọng Thủy lấy con gái của Đông Chu Quân là Mỵ Châu. Mấy năm sau, Tần diệt Tây Chu rồi cũng tiến chiếm đất Đông Chu. Thục An Dương Vương cầm sừng văn tê bảy tấc đi vào biển, kết thúc 800 năm nước Văn Lang của vương triều Chu từ Văn Vương Cơ Xương (Âu Cơ).

An Dương Vương làm chủ vùng đất Bắc Việt, đóng đô ở Cổ Loa, tức là vùng đất Nam Hải, mà tên gọi có ít nhất từ đầu thời Đông Chu (thời của Nam Hải Quan Âm và Lão Tử Lý Bá Dương). Do đó, khi Cổ Loa thất thủ, An Dương Vương chạy ra biển, được nhân dân các nơi lập đền thờ Nam Hải Đại vương. Tên thờ này đã xác nhận vùng đất An Dương Vương trị vì là đất Nam Hải.

Tượng đồng An Dương Vương ở đền Thượng Cổ Loa.

Tư lệ hiệu úy Lý Ông Trọng

Sách Từ Nguyên ghi: Nguyễn Ông Trọng đời Tần, người Nam Hải, thân dài một trượng ba thước, khí chất đoan dũng, khác với người thường. Vua Thủy Hoàng sai cầm quân giữ đất Lâm Thao, thanh thế chấn động Hung Nô.

Lý Ông Trọng người làng Thụy Hương, có tài võ lược, vào Tần được Tần Thủy Hoàng gả con gái là Bạch Tĩnh Cung Công chúa, rồi cử về trấn giữ người Hồ ở đất Lâm Thao. Nơi Lý Thân trấn thủ không phải ở phương Bắc, mà ở chính phương Nam, nơi quê hương của ông. Phò mã Lý Thân đã làm tướng trấn giữ vùng đất quê hương Nam Hải, là một trong 3 quận mà Tần lập ra ở vùng Lĩnh Nam.

Lý Ông Trọng được thờ là một trong 4 vị thượng tướng ở đền Cổ Loa. Rất có thể, người xây thành Cổ Loa với quy mô to lớn 3 vòng thành chính là Lý Ông Trọng.

Thành Cổ Loa được biết là được xây dựng qua nhiều lần. Lần thứ nhất ở vào quãng thế kỷ 4 TCN, tương ứng với thời Thục An Dương Vương ở trên. Lần thứ hai là lần xây dựng quy mô nhất vào quãng thế kỷ thứ 3 TCN. Lần xây này sử dụng công nghệ tương đồng với các công trình thành đất phương Bắc lúc đó. Với quy mô xây dựng to lớn như vậy, ước chừng có tới hàng triệu sức lao động đã được huy động. Thời gian và quy mô như vậy chỉ có triều đại của Tần Thủy Hoàng mới có thể thực hiện được.

Đầu ống ngói Cổ Loa.

Nam Hải Tôn Ninh Triệu Vũ Đế

Sử ký Tư Mã Thiên kể, Nhâm Ngao làm quận úy Nam Hải, Triệu Đà làm Long Xuyên lệnh. Khi Tần Thủy Hoàng mất, loạn lạc nổi lên, Nhâm Ngao mời Triệu Đà đến bàn kế chống giữ đất Nam Hải. Thế rồi, Triệu Đà thay thế Nhâm Ngao lĩnh quản Nam Hải, đánh diệt các quan lại nhà Tần. Tới năm Tần Nhị Thế thứ ba thì Triệu Đà xưng Vương.

Triệu Vũ Đế được thờ ở vùng Thái Bình với sắc phong gọi là Nam Hải tôn ninh Hoàng đế. Một lần nữa cho thấy, đất Nam Hải không phải là vùng Quảng Đông, mà chính là vùng Bắc Việt, nơi nổ ra khởi nghĩa của Triệu Đà kháng Tần chống Sở.

Triệu Vũ Đế khởi nghĩa từ vùng đầm nước ven sông biển ở Thái Bình, rồi Dạ Trạch, chiếm được quận trị của quận Nam Hải, tức là thành Cổ Loa. Đây là lý do tại sao trên lớp thành đất Cổ Loa của lần xây thứ hai lại có một lớp ngói tương đương với ngói như ở Phiên Ngung. Và lò đúc mũi tên, cùng hàng vạn mũi tên đồng, trống đồng Cổ Loa, vũ khí hình lưỡi cày tìm thấy ở đây là có niên đại vào thế kỷ thứ 2 TCN, thời nhà Triệu.

Nam Hải Quan Âm, Thục An Dương Vương, Hiệu úy Lý Thân, Triệu Vũ Đế là những vĩ nhân Nam Hải, những con người có công lao và sự nghiệp to lớn trên vùng đất Bắc Việt ở giai đoạn chuyển tiếp các chế độ Chu – Tần – Hán.

Trống đồng Cổ Loa, thế kỷ 2 TCN (thời Hán – Triệu).

Triệu Vũ bản kỷ

Tượng Triệu Vũ Đế ở đình Xuân Quan.

Năm 257 TCN Tần Vương phát động 50 vạn quân đánh chiếm đất Lục Lương của An Dương Vương, lập làm ba quận Quế Lâm, Nam Hải và Tượng Quận. Tượng Quận là vùng đất Vân Nam, hay vùng đất Tây Âu, nơi Tần đã giết được quân trưởng của Tây Âu là Dịch Hu Tống. Nam Hải là vùng đất của Thục An Dương Vương đời cuối ở miền Bắc Việt ngày nay. An Dương Vương thất cơ, cầm sừng văn tê bảy tấc mà đi ra biển theo thần Kim Quy, sau được các nơi tôn thờ là Nam Hải Đại Vương.

Chiếm được vùng đất căn cơ cố tổ của họ Hùng, tới thời Tần Thủy Hoàng, phò mã hiệu úy Lý Thân được cử trấn giữ quận Nam Hải, tiếp tục mở rộng thành Cổ Loa, tòa thành có từ thời Thục Vương, thành một công trình đồ sộ quy mô lớn nhất vùng Đông Nam Á. Thủy Hoàng còn cho mở một con đường từ kinh đô nhà Tần thông ra biển Nam Hải, tức biển Đông ngày nay và vài lần theo con đường đó Đông du ra biển, nêu dương công đức của nhà Tần.

Thủy Hoàng cử đạo sĩ người nước Yên là Lư Sinh vượt biển Nam Hải đi tìm thuốc trường sinh. Yên Lư Sinh hẹn gặp Thủy Hoàng ở đình Phụ Hương bên bờ biển, rồi không từ mà giã, lên ngọn núi Yên Tử hóa tiên không trở lại. Vị Nam Hải Thiên Tuế Ông này chỉ còn lưu lại trên đỉnh Yên Tử mờ sương một tảng đá có hình người.

Những cuộc Đông du của đại đế Tần Thủy Hoàng và công trình thiên niên kỷ thành Cổ Loa đã tiêu tốn hàng triệu sức lao động của nhân dân. Để đáp ứng được nhu cầu này nhà Tần cho cho bắt tất cả các thanh niên đến tuổi đều phải đi dân phu, ai không tuân theo sẽ bị xử theo pháp luật nhà Tần, tức là chỉ có con đường chết.

Các quận phía Nam nhà Tần và các địa danh khởi nghĩa của Triệu Vũ Đế.

Phò mã Lý Ông Trọng mất, vị quận thủ thay thế ở đất Nam Hải là Nhâm Ngao. Trong khi đó, vùng Chân Định hay Long Xuyên xưa được giao cho một viên quan lệnh là Triệu Đà. Triệu Đà từng nhìn thấy Tần Thủy Hoàng đi tuần du ven biển Đông và rất ngưỡng mộ một đại trượng phu như vậy.

Là một viên quan lệnh địa phương, Triệu Đà có trách nhiệm bắt các dân phu phục vụ công trình xây dựng ở Cổ Loa cũng như cho các chuyến đi của Tần Thủy Hoàng. Một lần khi áp giải dân phu, dọc đường dân phu bỏ trốn nhiều, lại gặp trời mưa nên đoàn người bị lạc đường. Triệu Đà biết theo luật nhà Tần nếu đưa dân phu đến muộn và thiếu chắc chắn người đầu tiên bị xử tội chính là vị quan áp giải, nên khi đến vùng đầm nước Dạ Trạch, Triệu Đà cho thả hết dân phu rồi dẫn nhau lên núi ẩn náu, trốn tránh sự truy sát của nhà Tần.

Toàn bộ đám dân phu tử tội tôn người tuấn kiệt là Triệu Đà lên làm thủ lĩnh, bắt đầu cuộc “khởi nghĩa” kháng Tần. Quân khởi nghĩa ngày thì ẩn náu trong đầm lầy hay rừng rú, đêm thì ra cướp bóc, vì tất nhiên, không cướp bóc thì lấy gì mà ăn. Quân Tần gặp phải chiến tranh du kích của người Việt do vậy thường xuyên bị quấy phá, không cách nào dẹp được. Thế lực của Triệu Đà ngày càng lớn, hình thành nhiều vùng căn cứ khác nhau.

Trong quá trình khởi nghĩa ban đầu, tương truyền rằng Triệu Đà đã thấy rồng vàng bay lên bên bờ sông Hồng mà lập đồn quân ở Long Hưng (Xuân Quan), cạnh đầm Dạ Trạch. Cũng truyền thuyết Việt kể Triệu Việt Vương khi ở đầm Dạ Trạch đã được một thần nhân cho một chiếc móng rồng để làm mũ đâu mâu, đánh đâu thắng đó.

Con Rồng đá ở núi Vũ Ninh.

Triệu Đà là người quê gốc ở đất Phong Châu, đất tổ Hùng Vương, làm quan ở huyện Chân Định, tức vùng Thái Bình – Nam Định ngày nay. Tại đây ông đã kết duyên với bà Trình Thị Lan Nương, con gái một gia đình khá giả ở trong vùng. Trước đó, ông còn có quan hệ tình cảm với một vị gọi là Quận Phu nhân, cho sống cùng với con trai là Thạch công ở xã Luật Ngoại, đất Chân Định xưa (nay là huyện Kiến Xương, Thái Bình).

Khi Triệu Đà bất đắc dĩ cầm đầu dân phu khởi nghĩa ở đầm Dạ Trạch, 2 vị phu nhân tích cực tham gia tích trữ lương thực, chiêu mộ dân binh, trở thành 2 căn cứ kháng chiến phục vụ cho quân khởi nghĩa. Cứ như vậy trong vòng mười năm.

Khi Tần Thủy Hoàng mất, loạn lạc các nơi nổi lên. Ở vùng nước Sở tại Hồ Nam có nhà họ Hạng, dòng dõi vương tôn quý tộc Sở khởi nghĩa. Ở vùng Quế Lâm và Phiên Ngung, lúc này có họ Lê, là một hậu duệ Hùng Vương, tức là dòng dõi Thục An Dương Vương chiếm giữ. Thế cục thiên hạ uy hiếp trực tiếp đến vùng đất Nam Hải, nên buộc vị quận thủ Nam Hải lúc này là Nhâm Ngao phải tính kế tìm cách tự bảo vệ mình.

Nhâm Ngao bèn phải giảng hòa với quân khởi nghĩa của Triệu Đà, mà lúc này đã lan rộng với các căn cứ từ Thái Bình (Chân Định), Dạ Trạch (Khoái Châu, Hưng Yên) và núi Vũ Ninh (Quế Võ, Bắc Ninh). Triệu Đà nhân lúc Nhâm Ngao thất thế đã chiếm luôn quận Nam Hải mà tự xưng là Chúa công, mà sau được các thần tích và sắc phong ở Thái Bình gọi là Nam Hải Đại vương.

Từ bàn đạp là quận Nam Hải, quân Triệu đã tích cực chuẩn bị cho cuộc tranh hùng thiên hạ, mở lò rèn, đúc nên hàng vạn mũi tên đồng trong thành Cổ Loa, với lẫy nỏ đồng được cải tiến, có sức mạnh vượt trội, cùng với hàng loạt những rìu hình “lưỡi cày” cất trong trống đồng Cổ Loa.

Vũ khí hình lưỡi cày ở Cổ Loa.

Từ Nam Hải Triệu Đà đã hợp quân với Sở tấn công Ung Châu, thủ phủ của quận Quế Lâm. Con trai của thừa tướng Tần Lý Tư là Lý Do trấn thủ tại Ung Châu đã thất thủ, tử trận trong trận này.

Có thể, trong việc chiếm Quế Lâm còn có sự tham gia của đội quân Hậu Hùng Vương họ Lê là Chàng Út Ngọ Lôi Mao, nên sau đó họ Lê được phong đất tại Quảng Tây và lấy con gái của Triệu Đà. Đội quân họ Lê này sau đó tiếp tục tấn công chiếm được vùng Quảng Đông, chuyển về lập căn cứ ở Phiên Ngung.

Quân khởi nghĩa kháng Tần chia làm 2 hướng tấn công vào Tần đô. Quân Sở đi theo hướng Bắc, gặp nhiều khó khăn vì phải đương đầu với quân chủ lực của nhà Tần do đại tướng Chương Hàm chỉ huy. Quân của Triệu Đà vòng theo hướng Nam, dễ dàng lấy lại được vùng Tượng quận xưa của Tây Âu, rồi tấn công vào đất Ba Thục.

Năm 206 TCN, sử ghi nhà Tần sụp đổ, Triệu Đà giết các trưởng lại nhà Tần, lập tức chiếm Quế Lâm và Tượng Quận rồi xưng là Nam Việt Vương. Cái tên Triệu Việt Vương bắt đầu có từ đây.

Cuộc phân tranh thiên hạ giữa Sở và Triệu còn kéo dài trong nhiều năm. Đã có lúc quân Sở tấn công vào quê hương bản quán của quân Triệu là đất Nam Hải, được các thần tích Việt gọi là giặc Lương. Quân Triệu thiệt hại nặng nề trong trận này. Quận phu nhân và con trai Thạch công của Triệu Việt Vương tử trận trên sông Lịch Bài ở Kiến Xương. Trình phu nhân may mắn hơn, trốn thoát khỏi vòng vây để về hội ngộ với vua Triệu.

Cuối cùng thì thiên hạ được định đoạt về tay họ Triệu. Triệu Đà xưng là Hoàng đế, tức Triệu Vũ Đế, phong Trình Thị là Hoàng hậu. Vị con rể họ Lê ở Phiên Ngung thì được phong là Triệu Vương.

Khi Triệu Đà mất, rồi Trình Hoàng hậu nhiếp chính cũng không được lâu. Năm 190 TCN Trình Hoàng hậu qua đời. Triệu Vương ở Phiên Ngung bèn tự lập mình là Đế, dựng cờ tả đạo, đi xe hoàng ốc, sánh ngang với vua Hán. Ngôi mộ Triệu Mạt cùng với ấn Văn Đế hành tỷ tìm thấy ở Quảng Châu là minh chứng cho sự biệt tách Nam Bắc này.

Gương Tây Hán tìm thấy ở Bắc Việt.

Cuộc đời của Triệu Đà xuất thân là một thường dân áo vải đất Phong Châu, lưu lạc làm quan lệnh Chân Định, khởi nghĩa kháng Tần ở Dạ Trạch và Vũ Ninh, chiếm được quận đô Nam Hải là Cổ Loa, tiêu diệt các quan lại nhà Tần ở Quế Lâm, Tượng Quận, thuần phục được Tây Âu, Mân Việt, mà xưng Vũ Đế. Hành trình lang ba lang bang nhưng đã thống nhất, ổn định được thiên hạ sau nhà Tần, đánh dấu bước ngoặt vĩ đại trong sử Việt, chuyển từ thời phong kiến phân quyền cho các chư hầu sang phong kiến tập quyền trung ương thống nhất.

Câu đối về Triệu Vũ Đế ở đình Xuân Quan (Long Hưng điện):

Nhất chỉ dĩ vô Tần, vạn lý khai tiên Mân Lạc tuyệt

Lưỡng lập hà nan Hán, ức niên xương thủy đế vương cơ.

Dịch nghĩa:

Một lệnh dẹp không Tần, mở ra vạn dặm vời Mân Lạc

Hai ngôi sánh cùng Hán, nền móng muôn năm khởi đế vương.

Phủ việt của Nam Hải đại vương Triệu Vũ Hoàng đế ở đền Đồng Xâm.

Nam Hải Triệu Việt Vương ở Chân Định

Sự tích mẫu tử A Dung và Thạch thần hộ quốc ở 2 xã Luật Nội và Luật Ngoại của đất Chân Định xưa chứa đựng những thông tin hết sức kỳ lạ, tưởng chừng như vô lý về thời kỳ Triệu Việt Vương. Chuyện kể bắt đầu từ một vị lệnh doãn huyện Chân Định thời Triệu Đà là dòng dõi Hùng Vương, tức là ở quãng thời gian ít nhất là thế kỷ 3 trước Công nguyên. Thế nhưng, vợ và con của ông lại đánh giặc Lương cho Triệu Việt Vương. Nếu theo sử sách chính thống ngày nay Triệu Việt Vương hay Triệu Quang Phục ở vào quãng thế kỷ thứ 6 sau Công nguyên, tức cách thời Triệu Đà ít nhất là 800 năm. Vậy Triệu Việt Vương ở Chân Định là ai, làm vua vào thời kỳ nào trong sử Việt?

Đình Luật Nội

Thần tích làng Luật Nội, nơi thờ Thạch Thần Đại tướng quân, nay thuộc xã Quang Lịch, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình chép:

Hùng Tuệ, Lệnh doãn huyện Trực Định nhân chuyến thăm thú hạt huyện, ông tới xã Luật Nội và quyết định xây một dinh sở để Phu nhân Thánh mẫu dưỡng nhàn. Bấy giờ, ông đã 50 tuổi, Phu nhân tuổi cũng ngoài 40. Sau một đêm nằm mộng gặp thần nhân, Phu nhân có thai sinh ra một người con trai khôi ngô tuấn tú, mệnh danh là Thạch Công. Năm lên 16 tuổi thân cao sáu thước, sức khỏe trăm người không địch nổi. Tuệ Công làm sớ tâu lên Triệu Việt Vương. Vương cả mừng, phong cho thân mẫu là Bà A Phương Dung Trinh Thục Quận Phu nhân, tặng 10 hốt vàng, sắc chỉ cho về quê Luật Ngoại viết tên tự hiệu, hưởng lộc trăm năm.

Nước ta bị họa giặc Lương, vua trao cho Thạch Công chức Tổng đốc Kinh lược đốc lĩnh thủy bộ chư quân vụ, kiêm tri Tiết chế bình Lương tặc Đại thần quan Thạch thần Đại tướng quân. Trên đường ra trận, Tướng quân ghé về thăm mẹ, thân mẫu đã chiêu tập được gần 600 tráng đinh trong hạt. Không may trong một trận đánh không cân sức, mẫu tử phải nhảy xuống sông tự vẫn để bảo tồn danh tiết. Nghe tin Triệu Việt Vương vô cùng thương tiếc phong cho Thánh mẫu Phu nhân, Thánh tử Thạch thần Hộ quốc Đại vương. 

Còn thần tích Luật Ngoại, là nơi thờ Thánh mẫu (Luật giang linh từ) kể: Thục chúa nghe vua Duệ không có con trai nối dõi, mới dẫn quân mã đến đánh, một trận lấy được nước Nam. Đóng đô ở thành Cổ Loa, huyện Đông Ngạn, phủ Từ Sơn, đạo Kinh Bắc. Giữ nước cộng được 50 năm thì có người Chân Định Bắc quốc, họ Triệu tên là Đà, dẫn mười vạn hùng binh tiến thẳng đến nước Nam đánh Thục Vương. Qua ngoài 3 năm, tất cả 105 trận thì Thục Dương Vương mất. Khi ấy Triệu Đà lên ngôi Hoàng đế, đóng đô ở An Quảng. 

Người phát động hàng chục vạn quân diệt Thục Vương mang họ Triệu thì phải là Tần Vương, vì nhà Tần vốn mang họ Triệu từ tổ tiên là Tạo Phụ được phong đất ở Triệu Thành. “Triệu Đà” trong thần tích này là chỉ vua Tần. Câu chuyện ở Chân Định như vậy bắt đầu dưới thời nhà Tần.

Thần tích Luật Ngoại kể tiếp: Lại nói, khi đó nước ta truyền rằng ở động Nghĩa Lĩnh, tổng Xuân Lũng, huyện Sơn Vi, phủ Lâm Thao (nay là tại Cổ Tích) có một vị phụ đạo quan lang, là dòng dõi thủy thần trong trăm trứng của Hùng Vương, họ Hùng, tên là ông Tuệ, trấn ở đầu sông (tức nay là sông Đà và sông Nhị Hà), lấy người con gái của vị tiến quan miền núi, tên là nàng A Dung, có nhan sắc tuyệt thế, mặt như kính ngọc không chút bụi, miệng cười như hoa nở…

Lại nói, khi ấy ông Tuệ tinh thông võ nghệ, lại có thuật lạ tài kỳ. Lúc đó Triệu Việt Vương nghe tin ông Tuệ mạnh sánh trăm người, thân dài chín thước, sức có thể bát núi, thường lên rừng đuổi hổ, được nhân dân địa phương đều xưng là thiên tướng giáng trần. Ngay hôm đó Vua mới lệnh cho sứ thần đem chiếu đến triệu Ông vào kinh, hỏi xem tài lạ thuật kỳ. Khi đó ông Tuệ tuân chiếu theo sứ thần đến yết kiến Đế, làm lễ bái tạ, trình tấu văn võ thao lược, binh pháp Thái Công, không việc gì không biết, không vật gì không hiểu. Đế bèn phong làm quan doãn huyện Chân Định, phủ Kiến Xương, đạo Sơn Nam Hạ. Ngày hôm đó ông Tuệ liền đi nhận chức.  

Người làm quan huyện Chân Định thời Tần chính là Triệu Úy Đà như được chép trong Sử ký Tư Mã Thiên. Úy Đà được kể là người Chân Định, thời Tần làm quan huyện lệnh huyện Long Xuyên, sau thay Nhâm Ngao làm Nam Hải úy, khi Tần Thủy Hoàng mất đã giết các quan lại nhà Tần mà xưng là Nam Việt Vương. 

Các bài văn tế và sớ tấu của đình Luật Ngoại đều gọi vị Hùng Tuệ Công là “Nam Hải Đại vương“. Một nơi khác ở Kiến Xương thờ Hùng Tuệ Công là thôn Thượng xã Cao Mại (nay là xã Quang Hưng), cũng gọi ông là thần Nam Hải tạo lực.  Đồng thời, sắc phong ở đền Đồng Xâm (xã Hồng Thái, cùng huyện Kiến Xương) cho Triệu Vũ Hoàng Đế cho biết tên thờ của Triệu Vũ Đế là “Nam Hải Tôn ninh“. Người làm chủ Nam Hải vào cuối thời Tần thì rõ ràng là Triệu Vũ Đế.

Bái sớ của đình Luật Ngoại.
Một mảnh sắc phong của đền Đồng Xâm có ghi: Gia phong Triệu Vũ Hoàng Đế Nam Hải Tôn ninh.

Chuyện lạ là khi Bà A, vợ của Hùng Tuệ Công sinh được người con trai Thạch Công có tướng lạ, Triệu Việt Vương cho gọi đến xem, khen Thạch Công. Nhưng thay vì phong tước cho Thạch Công, Triệu Việt Vương lại sắc phong cho bà mẹ là Quận Phu nhân, còn cho vàng để về làm nơi hưởng lộc trăm năm. Điều này chỉ có thể hiểu nếu Triệu Việt Vương chính là chồng của Bà A, tức ông Hùng Tuệ. Tước vị Quận phu nhân chỉ ra rằng đây là một trong những bà vợ của vua, mang họ Quận.

Quận phu nhân được Tuệ Công cho lưu lại ở Luật Ngoại, “giúp người già, trợ nhà nghèo, đem tài sản mà chiêu kết khách khứa. Những nơi như cầu chính, đường lớn đều được sửa chữa, không nơi nào là không làm“. Hành động này thực chất là chuẩn bị cơ sở cho cuộc khởi nghĩa lâu dài của Tuệ Công. Bà A là một nữ tướng, chứ không phải chỉ là một vị phu thê sinh con đẻ cái bình thường. 

Trong thần tích Luật Ngoại, khi hai mẹ con Bà A và Thạch Công đánh giặc lại không hề thấy xuất hiện người cha Tuệ Công, vốn là người có hùng tài đại lược và là quan huyện của khu vực này. Thay vào đó chỉ thấy Triệu Việt Vương phát quân dẹp tan giặc Lương. Chỉ có thể hiểu là Tuệ Công sau khi để vợ và con ở đất Chân Định, gây dựng căn cứ tại đây, đã dẫn quân đi nơi khác, đánh chiếm các vùng đất của nhà Tần mà xưng Vương (Triệu Việt Vương). Điều này hoàn toàn trùng khớp với hành trạng của Triệu Úy Đà được kể trong Sử ký Tư Mã Thiên ở trên, từ việc dời huyện Long Xuyên đến Nam Hải làm quan rồi đánh dẹp nhà Tần.

Trong thời gian loạn lạc, khi Tuệ Công đang dẫn quân đi nơi khác, “giặc Lương” đã tiến đánh vùng căn cứ khởi nghĩa ban đầu của Triệu Việt Vương, nơi có Bà A và Thạch Công đang trấn giữ, dẫn tới việc cả 2 mẹ con đều cầm vũ khí, lên ngựa ra trận mà tử chiến bên sông Lịch Bài. 

Câu đối đình Luật Ngoại ca ngợi hình ảnh thánh mẫu cưỡi ngựa trắng, múa bảo kiếm diệt giặc rất đẹp: 

紅裙赴敵忠義最家兒戰壘時揮双宝劍

白馬朝天灵聲自終古怒濤猶咽大江流

Hồng quần phó địch, trung nghĩa tối gia nhi, chiến luỹ thì huy song bảo kiếm

Bạch mã triều thiên, linh thanh tự chung cổ, nộ đào do yết đại giang lưu.

Dịch nghĩa:

Hồng quần chống giặc, trung nghĩa thật nữ gia, chiến lũy còn rung hai kiếm báu

Ngựa trắng chầu trời, linh thiêng tự xưa nay, sóng giận bởi nghẹn dòng sông rộng.

Tuệ Công khi đã trở thành Triệu Việt Vương, bèn quay về dẹp tan giặc, nhưng vợ và con của vua đã tử tiết bên sông trên đất Chân Định.

Một điều nữa xác nhận vị trí của Quận Phu nhân là bà được truy phong là Quốc mẫu Vua Bà Đệ nhất Thiên Tiên. Chỉ có thể là vợ của một vị đế vương mới được nhận danh phong như vậy. Đình Luật Ngoại nay được xây dựng với 2 lầu gác cao ở 2 bên, đề Long lâu và Phượng các (Lầu rồng, Gác phượng). Chỉ có nơi thờ các bậc vương giả mới có thể dùng những chữ như vậy.

Qua thần tích và di tích thờ Bà A Thánh mẫu và Thạch Thần Đại tướng quân ở Kiến Xương có thể rút ra một số thông tin đặc biệt quan trọng về thời kỳ khởi nghĩa của Triệu Vũ Đế:

– Triệu Vũ Đế là dòng dõi họ Hùng, quê gốc ở vùng Phong Châu – Phú Thọ.

– Triệu Vũ Đế ở vùng Thái Bình được gọi là Triệu Việt Vương. Phân biệt với vị Triệu Quang Phục sau này, hy sinh ở cửa biển Đại Ác bên Nam Định. Rất có thể ở các nơi khác, nhất là vùng Long Biên hay Hưng Yên, tên gọi Triệu Việt Vương cũng là chỉ Triệu Vũ Đế.

– Vùng Chân Định (Thái Bình – Nam Định) xưa là khu vực ban đầu khởi nghĩa của Triệu Việt Vương – Triệu Vũ Đế. Sự tích Việt chép là vùng đầm Dạ Trạch. Khu vực này cách nay hơn 2000 năm đúng là một vùng đầm phá ven biển. Cái tên “Đầm” còn lưu ở ngay trong tên gọi địa phương Đồng Xâm hay Đường Thâm, đều là những từ phiên thiết của chữ Đầm.

– Người vợ ban đầu của Triệu Vũ Đế là Quận phu nhân, đã cùng chồng gây dựng căn cứ kháng chiến và tử trận cùng với người con trai trước khi ông thành nghiệp đế vương. Do đó bà không được gọi là Hoàng hậu, nhưng được tôn phong là Vua Bà.

Câu đối ở đình Luật Ngoại sánh Quốc mẫu Vua Bà A với Hai Bà Trưng:

浩氣塞滄渙節烈一門皇趙日

芳名傳國母頡頏千古二徵間

Hạo khí tắc thương hoàn, tiết liệt nhất môn Hoàng Triệu nhật

Phương danh truyền quốc mẫu, hiệt hàng thiên cổ Nhị Trưng gian.

Dịch nghĩa:

Chí lớn trùm sóng khơi, tiết liệt một nhà thời Vua Triệu

Danh thơm truyền quốc mẫu, vút bay ngàn thủa sánh Hai Trưng.

Bộ chấp kích trong đình Luật Ngoại thờ Quốc mẫu Vua Bà.
Đình Luật Ngoại với Lầu rồng Gác phượng.