Ngọc phả triều Lý (Thần tích Phù Lập, thôn Trung, tổng Thụ Phúc, Tiên Du, Bắc Ninh)

Quản giám tri điện bộ Lễ triều Lê vâng sao ngọc phả cổ truyền

Hoàng đế Bệ hạ khâm phụng sắc văn thần hiệu:

Sắc phong Đại đô Thành hoàng Đại vương Lý Nam Đế Đê Vũ Linh ứng Đại vương tôn Thượng thượng đẳng Phúc thần.

Sắc phong Nhàn uyển Phong tư Trinh thục Quý Minh Công chúa.

Sắc văn:

Hùng chấn uy linh, tôn nghiêm chính thuận,

Anh dục sơn xuyên, tú chung hà hải,

Cao phối thiên, hậu phối địa,

Hách quyết linh, trạc quyết thanh.

Phổ thông linh tế, cao minh bác học,

Hiển đức lượng công, quảng duyên lưu khánh.

Phổ hoá thí nhân, khuông quốc khang dân.

Tặng Thượng thượng đẳng Phúc thần. Cho phép phường Hạ, trang Thụ Triền, huyện Tiên Du, quận Từ Sơn, đạo Bắc Ninh phụ lão phụng lĩnh hai đạo sắc văn mang về phụng thờ. Cơ thần tương trợ, bảo vệ lê dân. Vâng thay!

Xưa có người quê ở Thái Bình. Đất này bằng phẳng, sông nước đẹp đẽ. Rạng rỡ ngàn năm trong tín sử. Vạn đời rờ rỡ linh thiêng, quy mô to lớn rành rẽ, công nhiều nghiệp lớn. Vận nước lâu bền. Kế lớn tốt lành vậy!

Từ cháu ba đời của Lý Cầm sinh ra Lý Quế Hòe, vợ là Võ Thị Hương. Vợ chồng tích thiện hành nhân, ngày đêm hương khói thờ Thượng đế. Một nhà phong lưu, ba sinh hưởng lửa đủ đầy, dư giả vậy. Vào năm Quý Hợi tháng 2 ngày mùng 8 bà họ Võ nằm mộng thấy ánh sáng đầy nhà. Chốc lát có một con rắn hoa trắng cuốn khúc trườn tới, bỗng hóa thành một đóa hoa sen. Bà họ Võ cầm lấy thì tỉnh giấc, bèn kể lại cho ông Lý Quế Hòa. Từ đó uyên ương chung gối mà có mang. Mang thai được một năm, đến ngày mùng 9 tháng 2 năm Giáp Tý điềm lành ứng hiện, hương thơm khí bay đầy nhà, trong trướng rực rỡ. Bà họ Võ sinh được một bầu. Từ sáng sớm mây trời mù mịt, đến giờ Ngọ thì sinh ra, mưa trời ngừng tạnh quang đãng. Bèn đặt tên con là Vũ.

Khi sinh ra diện mạo phi thường, hình dung quý phái. Đến khi lên 5 thiên tư thông minh khác lạ, phẩm chất hơn người. Hàng ngày thường ở yên một nơi tự học xem sách, không đợi người giúp dạy. Lại giỏi đánh đàn, tinh thông âm luật. Đến khi 15 tuổi đi thi đậu Hiếu liêm, được cử làm quan cho nhà Lương là quan lệnh Long Xuyên (đổi tên là Lý Bôn Long), rồi được đề bạt chức Hiệu úy. Gặp lúc nhà Lương có loạn, bèn từ quan về rồi khởi binh đuổi các thủ lệnh, phá giặc Lâm Ấp bên ngoài. Liền xưng Đế, lập nước hiệu Vạn Xuân, đặt niên hiệu Thiên Đức, đóng đô ở Long Biên.

Ba năm sau, nhà Lương dẹp được loạn. Nhà Lương sai Tư mã Trần Bá Tiên đến xâm chiếm. Đế dẫn quân chống cự, thua ở Tô Lịch, sau lại thua ở Gia Ninh. Đế cùng với các tướng trong họ tộc dẫn quân vào Tân Xương, ở Liêu Trung, thu dưỡng quân binh, sửa sang khí giới giáo giáp. Tháng 8 lại dẫn quân ra đóng đồn ở hồ Điền Triệt, làm nhiều chiến thuyền lớn đóng chật mặt hồ. Quân Lương sợ hãi.

Một đêm nước sông chảy mạnh vào trong hồ. Quân Lương theo đó đánh trống reo hò mà vào. Đế cùng với các tướng cùng họ tộc rút lui về giữ trong động Khuất Liêu, giao lại quyền cho tướng Triệu Quang Phục chống cự với quân Lương của Bá Tiên. Đế ngày mùng 5 tháng 5, bỗng thấy một áng mây xanh, ba tiếng hiệu lệnh vang trên trời. Trong thành đất trời chuyển động, núi sông, cây cỏ vạn vật đều khiếp sợ. Mây lành năm sắc rực rỡ. Ba ngàn thế giới, vạn vật trăm thú kình nghê, cá rắn theo mưa gió đến hội chầu. Vương thấy nước nhà có điềm lạ, bèn chiếu lệnh cho quan văn võ áo mũ chỉnh tề, chay tịnh, đều tề tựu ở điện Kính Thiên vâng chờ lệnh, chầu bái Hoàng Đế, Thượng Đế, Tứ phủ vạn linh.

Hôm đó là ngày Giáp Thìn, một đám mây vàng bay từ phía Tây tới, dừng lại ở đầm rồng của điện Kính Thiên. Tự nhiên có 4 tướng hiện ra, cao hơn nửa trượng, đầu đội mũ hoa, thân mang áo hoàng bào gấm vóc, hông đeo đai ngọc, chân đi giày sắt, miệng cười hào quang tỏa lửa, mây bay ngập mắt, tay cầm một lệnh bài: Ngọc Hoàng Thượng đế sắc hạ xuống Nam Miên. Vương về triều sẽ tự nhiên mà bay lên.

Đến ngày 15 tháng 10 Lý Nam Đế bỗng nhiên thân thể mệt mỏi, dưah vào lan can, mơ màng mà hóa đi. Tên thờ là Đê Vũ Đại vương.

Lại nói, Công chúa Quý Minh là người làng Bồng Lai, có cha là Võ Bá Khánh, lấy vợ là Nguyễn Thị Dung. Đến ngày 15 tháng 3 sinh được một người con gái, nhan sắc tươi đẹp, hình tuy là nữ nhưng lại tương tự như nam. Ai cũng nói là có mặt đẹp như hoa đào, sắc xinh như ánh nước, thực là dung nhan chim sa cá lặn, lại có tướng mạo hoa nhường trăng thẹn, mày loan như trăng mới mọc, mắt trong như sóng thu, rang soi trắng trẻo mềm mại như hoa đang nở, ngọc sinh hương. Nên đặt tên là Minh. Hình dáng đều xem toàn mỹ vậy.

Đến năm lên 18 tuổi đi chơi ở Long Biên. Lý Nam Đế lúc đó đi chơi trong thành, gặp Quý Minh ở thành Long Biên, lấy làm thích thú, bèn đón về đô thành, làm sính lễ lớn mang đến ông Võ Bá Khánh. Mở tiệc trong quân cho tướng sĩ vui vẻ. Tự lập làm Đệ tam cung Công chúa. Sau khi về giữ ở động Khuất Liêu, đến tháng 5 Đệ tam cung Công chúa bị bệnh. Đến ngày 12 tháng 8 thì hóa.

Đế rất đau xót, bèn sai đem hài cốt chôn cất ở vùng đất trong động. Đến khi Hậu Lý Nam Đế truy tặng tổ tiên, đề cao công đức, tu lập đền miếu, phong thêm cho bách thần đã hóa của triều trước,  lệnh bộ Lễ viết sắc phong thần, ban cho tiền để dựng miếu, giao cho bộ Lễ mang sắc phong tới 372 đền truy tặng:

– Lý Nam Đế là Đê Vũ Linh ứng Đại vương Thượng thượng đẳng Phúc thần.

 Nhàn uyển Phong tư Trinh thục Quý Minh Công chúa.

Bộ Lễ vâng mang sắc phong qua phường Hạ, trang Thụ Triền thuộc đạo Bắc Ninh. Phụ lão tới hầu vâng lĩnh hai đạo sắc văn mang về phụng thờ. Phụ lão trang Thụ Triền tề tựu đón thỉnh thầy phong thủy có tiếng, tìm xem thiên văn địa lý, gặp thấy được ở ngay trong trang có một nơi có thế cục quý, dựa Càn Tốn, hướng kiêm Mão Dậu, lại còn trước có ấn đường làm án, nước chảy chầu phía trước, núi ngang hình chữ nhất, sau có rồng cuốn ôm gối, hai dòng nước hợp như cổ áo, là đất phát nhiều con trai mạnh khỏe, văn nhân tuấn tú. Bèn giao phường Hạ phụng thờ, muôn năm càng thêm tăng ngưỡng, trải các đời càng thêm kính thờ, ghi cúng ghi thờ để cho sống lâu, mạnh khỏe, phù trì cho phường Hạ được hưng vượng vậy.

Phả chép về một vị Đại vương thời Triệu Vũ Đế (Thần tích làng Ninh Sơn, tổng Chúc Sơn, huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Đông)

Phả chép về một vị Đại vương thời Triệu Vũ Đế

Chi Cấn, bộ Trung đẳng.

Đất Việt xưa trời Nam khởi vận, núi sông chia cương vực theo sao Dực Chẩn, xe sách cuốn nối, các vùng đất An Nam đẹp tựa đuôi chim, phân cách thẳng hướng sao Đẩu Ngưu. Nam tới Minh đô Giao Chỉ, xếp vào hàng thư lễ. Sách Ngũ đế đức thời vua Nghiêu chép rằng Việt Thường Thị dâng một con rùa thần ngàn tuổi, lưng có chữ khoa đẩu, ghi lại từ khi khai mở đến nay. Vua Nghiêu sai chép làm lịch rùa. Sách Thượng thư Đại truyện chép thời Chu Thành Vương Việt Thường Thị vào cống chim trĩ trắng, một con trĩ đen, một cặp ngà voi. Quốc thống đến nay bền lâu vậy. Tuy vậy đến nay kể cũng đã xa xôi, Ngoại kỷ, Bản kỷ, Tiền biên, Hậu tục cho tới gần thời bây giờ mà tính đã vài ngàn năm. Quốc thống có lúc chia lúc hợp, chính trị có lúc được lúc mất. Phong tục thuần hậu hay ngang ngạnh khó mà luận được.

Lúc quốc sơ họ là Hồng Bàng, ban đầu nhận mệnh vua là Kinh Dương, là hậu duệ họ Thần Nông. Ban sơ Đế Minh phong vua là Kinh Dương Vương trị phương Nam, gọi là nước Xích Quỷ. Vua lấy tiên nữ Động Đình, sinh ra Lạc Long Quân, kế nối quốc thống Kinh Dương, có điềm sinh trăm trai, thực là thủy tổ của Bách Việt. Như khi khởi đầu của trời đất nếu đã có người nuốt trứng dẫm vết mà sinh ra Thương Chu, tất có thuyết sinh trăm trứng. Trưởng tử của Lạc Long lấy tên là Hùng Vương, đóng đô ở Phong Châu, dựng nước Văn Lang, bèn chia thành 15 bộ để thống trị, định ra tên quan để nhận chức, thường xăm hình lên thân mình để tránh các loài thủy tộc, dịch tiếng nhiều lần để thông hiếu với Trung châu. Truyền rằng bách thần sông núi thường có thể xuất thế, khó biết rõ ở nơi nào. Như thế mà truyền 18 đời, trải 2600 năm, tất phong tục trở nên đôn hậu, cũng có thể nghĩ đến vậy.

Sau này vua ỷ mình có sức thần mà không tu sửa việc võ nên mất. Lại truyền tới Thục An Dương Vương thắng được Văn Lang, do không tu đức để yên dân chúng, khinh suất tin vào con rể nên cuối cùng đã bại. An Dương có trí dũng nên Triệu Vũ không địch lại nổi. Tuy nhiên, Thục vì một nữ nhân mà có uy chiếm Văn Lang, lại cũng vì một nữ nhân mà bị họ Triệu thôn tính. Truyền rằng Vua bắt đầu thế nào thì kết thúc cũng như vậy, là lẽ đó vậy. Thục đế vong.

Trải tới thời đầu Tây Hán, ở trang Thụy Hương, huyện Từ Liêm, phủ Quốc Oai, đạo Sơn Tây người trong trang có một nhà họ Lý tên Phụng, lấy vợ là Đào Thị Thanh. Gia cảnh túng quẫn, nhưng tấm lòng vẫn đều có đức dày. Khi ấy vợ chồng cùng đến phủ Ninh Sơn ở trang Ninh Sơn ở lại đó, lấy việc kiếm củi làm nghề sinh nhai hàng ngày, dần dân trở nên giàu có. Tuổi đã gần 50 mà còn chưa có con trai. Một hôm nghe nói ở Ninh Sơn có một ngôi đền rất thiêng, thường có báo ứng, vợ chồng ông bèn sắm sửa lễ nghi vào trong đền làm lễ cầu khấn. Đêm đó Thái bà nằm mộng bỗng thấy có một người cao lớn đường đường, thân khoác áo hồng, đứng trước án mà nói:

– Gia đình khanh có đức dày. Trời đã định cho ta đầu nhập làm con, xuất thế giúp nước. Ngày sau sẽ được nhờ, xin chớ lo lắng.

Nói xong liền biến mất. Bỗng thấy một ánh sao hào quang rơi thẳng xuống miệng, bèn nuốt lấy. Bà sợ hãi tỉnh dậy, kể lại cho ông nghe. Ông nói rằng đó tất là điềm lành. Đến sáng ngày vợ chồng ông làm lễ tạ. Từ đò trở về cố hương ở Từ Liêm ở. Lại thấy bà Đào Thị có mang thai. 

Đến năm Giáp Tý tháng Giêng ngày mùng 9 sinh hạ được một người con trai, thiên tư cao lớn, thể mạo khôi kỳ, cao tới 2 trượng. Ông biết đó là thiên tướng giáng sinh, thần linh xuất thế bèn đặt tên là Trọng. Khi ông lên 7 tuổi học lực tinh thông, đọc hiểu binh thư, tài về võ lược. Mỗi khi ra nơi can trường thì có cái dũng vạn người không đương. Đến khi tuổi 20 cha mẹ đều mất. Sau 3 năm chịu tang ông bèn vào Tần làm quan, làm đến chức Tư lệ Hiệu úy, dẫn quân đánh giặc Hung Nô ở Lâm Thao. Quân Hung Nô thua to bỏ chạy. 

Đến khi Triệu Vũ Đế họ Triệu tên Đà, người Hán đất Chân Định, khi Tần loạn chiếm cứ Lĩnh Biểu, mưu lấy Âu Lạc. Xe mui vàng, cờ cắm trái tự xưng đế một phương, cũng là bậc có khí lược anh hùng. Thế rồi Triệu Đà gọi ông Lý Trọng cho tướng cầm quân phương Nam, dẫn quân đánh Thục. Ông Trọng nhận mệnh. Tức thì ông Trọng đem quân thủy bộ năm nghìn quân tiến đến huyện Ninh Sơn, phủ Quốc Oai, đạo Sơn tây (Ninh Sơn sau đổi thành An Sơn), đóng quân tập trung ở trang Ninh Sơn. Ông đến bái yết đền thần, cho gọi phụ lão trang Ninh Sơn đến nói: 

– Cha mẹ ta vốn ngày trước nghèo nàn, đến ở trang này, lấy nghề hái củi sinh sống. Cho nên ta chính là thần của bản trang giáng sinh xuất thế. Vì vậy ta đến đóng ở đây để xem tình trạng thế nào, không phải là quân lạ xâm phạm, xin đừng sợ.

Khi đó phụ lão nghe vậy rất vui mừng, đều làm lễ bái hạ, xin làm gia thần. Ngay hôm đó ông bèn truyền binh sĩ cùng nhân dân lập nên một đồn để sau này chống quân Thục. Rồi ông tìm người trong trang khỏe mạnh, được 50 người làm gia thần thủ túc. Ngày hôm sau thấy có sứ giả mang thư lệnh đến, gọi ông dẫn quân đánh đạo Bắc của giặc Thục. Ông bèn hôm đó giết mổ làm cỗ trâu, tế cáo trời đất sông núi bách thần, rồi cất quân tiến đến đạo Kinh Bắc, thành Cổ Loa, hội bàn kế tấn công. Ngày hôm đó cùng quân Thục đánh một trận lớn. Quân Thục thua to, chém được chính tướng cùng với các tì tướng và quân sĩ vài ngàn đầu. Giặc thua chạy không biết đi đâu. Từ đó họ Triệu là Đế, thần dân được yên bình. Lập nước quy mô. Ông mới than rằng:

– Sinh mệnh của hàng vạn người đều dựa vào đây, mà ta sở dĩ phá giặc Thục là do trời đã giúp ta vậy.

Ông bèn nói với gia thần trang Ninh Sơn rằng:

– Sau này ta trăm tuổi để cho việc thờ tế có 10 nén vàng, ngày sau hãy mua thêm đất đai cho việc thờ cúng.

Khi ấy đang trời mùa xuân vào ngày đầu thượng tuần tháng Hai thấy có sứ giả của Triệu đem thư tới, trong đó nói rằng khi giặc Thục đã thua chạy, hôm đó đã dâng tấu lên Triệu Vương, vua ban chiếu gọi ông về phụng mệnh. Vua mở tiệc mừng lớn, gia phong tướng sĩ các cấp, bèn cho ông nhận thực ấp ở huyện Ninh Sơn. 

Ông bái tạ, phản hồi về nơi ở tại Ninh Sơn (sau thuộc phủ Ứng Thiên thành Thăng Long). Ngay hôm đó ông truyền cho phụ lão và nhân dân trong trang tu sửa đền miếu, làm cho nghiêm trang. Ông bày tiệc mời phụ lão nhân dân Ninh Sơn đến. Đang lúc yến tiệc bỗng thấy trời đất nổi lên một đám mây vàng lớn, hình như dải lụa đỏ từ trên trời rơi thẳng xuống trước miếu. Lại thấy ông theo mây mà đi, tức hóa vậy. Khi đó là ngày mùng 10 tháng 8 giờ Ngọ. Nhân dân kinh sợ bèn làm lễ dâng biểu tấu lên triều đình. Vua sai quay về làm lễ tế, lại cho trang Ninh Sơn làm nơi hộ nhi để phụng thờ.

Đến khi Cao Biền đánh Nam Chiếu có hiển linh phù trợ. Biền cho tu sửa miếu đền để thờ. Từ đó trở thành thường lệ.

Đến thời Tống niên hiệu Thái Bình sai Hầu Nhân Bảo dẫn 20 vạn quân, thủy bộ cùng tiến, chia đạo xâm chiếm nước Nam. Khi ấy Lê Đại Hành tự dẫn đại quân mười vạn chống cự, tiến đến huyện Thanh Oai, phủ Ứng Thiên thì gặp đạo quân thủy tiến đến. Đế bèn đóng quân ở bên bến sông. Đêm đó cần khấn ở đền thần để thần âm phù dẹp giặc Hầu, sẽ phong thêm là Trung đẳng phúc thần. Rồi vua xuất chiến, quân Nguyên quả nhiên thua, tướng Nhân Bảo cùng quân tùy tùng đều giết ngay. Lại bắt được đại tướng Biện Phụng Huân, dẫn về kinh, khải hoàn. Sau đó khi đãi tướng sĩ nhân đó nói rằng:

–  Giặc Nguyên dẹp sạch cũng có thần trợ giúp vậy.

Bèn phong thêm cho bách thần. Phong Lý Trọng Tế thế Hộ quốc Khang dân Phù vận Dương võ Bảo cảnh Hiển ứng Anh linh Hùng kiệt Đại vương. Màu áo hồng đỏ khi làm lễ đều cấm.

Lại nói, từ đó về sau có nhiều linh ứng, nên có nhiều đế vương phong thêm mỹ tự. Thời Trần Thái Tông giặc Nguyên đến xâm phạm, kinh thành bị vây hãm. Trần Quốc Tuấn vâng mệnh cầu đảo bách thần ở các đền. Qua một đêm Đại vương đã có hiển ứng, âm phù. Đến khi dẹp được giặc Mã Nhi, Thái Tông bèn bao phong mỹ tự là Linh ứng Anh triết Hiển hữu.

Đến khi Lê Thái Tổ khởi nghĩa dẹp giặc Minh Liễu Thăng, rồi có được thiên hạ, Thái Tổ bèn phong thêm là Phổ tế Anh linh. Sắc chỉ ban cho trang Ninh Sơn tu sửa đền miếu để thờ phing. Tốt thay! Lành thay!

Vâng khai sinh hóa các lễ và các húy tự nhất thiết cấm là Phụng, Thanh, Trọng. Đồng ý cho trang Ninh Sơn phụng thờ.

Ngày sinh thần là mùng 9 tháng Giêng. Lễ chính dùng trên là cỗ chay, dưới là cỗ trâu, xôi, rượu, bánh dày, ca hát, đấu vật các trò, ba ngày thì ngừng.

Ngày hóa là mùng 10 tháng 8. Lễ chính dùng trên là cỗ chay, dưới là trâu đen, xôi, rượu, bánh dày.

Niên hiệu Thành Thái năm thứ 10 tháng 3 nhuận ngày 19 xã Ninh Sơn vâng sao chính bản từ chính thể có niên hiệu Hồng Phúc năm thứ nhất của Hàn lâm bộ Lễ Đông các Đại học sĩ Nguyễn Bính đã vâng soạn, niên hiệu Vĩnh Hữu thứ 6 Quản giám Bách linh Tri điện Hùng lĩnh Thiếu khanh Nguyễn Hiền chính bản cũ.

Xã Ninh Sơn vâng sao chính bản sự tích.

Lý trưởng Nguyễn Huy.

Ngọc phả ghi chép Tiền Lý Nam Đế và Linh Nhân Hoàng Thái Hậu

Thần tích xã Hữu Lộc, tổng Cự Lâm, huyện Thư Trì, tỉnh Thái Bình, dịch từ bản chép tay năm Tự Đức thứ 13 hiện lưu lại miếu Hữu Lộc, có đối chiếu với bản thần tích số hiệu AE.a5/61 của Viện nghiên cứu Hán Nôm.

Chi Càn, bộ Thượng đẳng. Bản chính bộ Lễ quốc triều.

Xưa đất Việt ta, họ Hùng mở mang cơ nghiệp, các bậc thánh tổ dựng cơ đồ, truyền nối 18 đời, thịnh trị được hơn 2000 năm. Cha truyền con nối đều xưng là Hùng Vương. Ngọc lụa, xe sách, núi sông một mối. Đó là tổ của Bách Việt vậy. Truyền đến Tuyền Vương không có người nối dõi, bèn nhường nước cho Thục An Dương Vương. Dương Vương giữ nước được 50 năm thì đến Triệu Đà lấy nước, từ đó nội thuộc nhà Hán. 

Trải qua các triều đại Ngô, Tấn, Tống, Tề, Lương, đến khi nhà Lương sai Tiêu Tư sang làm Thái thú đất Việt ta. Tư vốn là người tham tàn bạo ngược, thi hành chính sách hà khắc. Đất Việt ta ai ai cũng chịu cảnh lầm than, không chốn cậy nhờ. Nhưng may thay lòng người u uất, ý trời tất sẽ dẹp yên! 

Bấy giờ có người ở Long Hưng, Thái Bình họ Lý tên Bí, tổ tiên vốn là người phương Bắc. Cuối thời Tây Hán phải khổ sở việc chinh chiến, phu dịch mới lánh sang đất Nam sinh sống,  trở thành người Nam, đến đời ông cũng được 7 đời (Xét tích xưa, cha của ông là Lý Công Chước, mẹ là Trương Thị Hằng. Mẹ ông mộng thấy cưỡi rồng bay lên trời ôm được Thái dương Tinh quân mà hạ xuống thì bỗng nhiên tỉnh giấc, biết là gặp giấc mộng Bồng Từ mà thôi. Thế rồi bà có mang, mà đến khi sinh ông vào ngày 12 tháng 7 giữa mùa thu năm Nhâm Thân. Đương lúc sinh ra, hào quang đầy phòng, khí lành bao phủ xung quanh. Khi ấy mọi người đều hô rằng: Hương thơm là từ hài nhi đó). Ông bẩm sinh minh mẫn chẳng học mà cũng biết. Trên tỏ thiên văn, dưới tường địa lý, tất cả đều tinh thông. Năm ông vừa 16 tuổi, cha mẹ đều lần lượt qua đời. 

Năm 19 tuổi, ông ra làm quan nhà Lương làm chức Thái bộc xạ. Đến khi nhà Lương gặp loạn, ông trở về Thái Bình chiêu hiền nạp sĩ, dấy đại quân khởi nghĩa. Ông xem xét thấy nơi nào đất Việt ta có đất đai trù phú, dân cư trọng yếu vững chắc, ông đều lập đồn doanh để làm nơi phòng ngự. Một hôm ông dẫn quân đi qua khu An Để, huyện Thư Trì, phủ Kiến Xương, đạo Sơn Nam. Ông thấy địa thế nước chạy uốn quanh co như rồng uốn khúc, bên cạnh có một dòng sông nhỏ chảy vòng quanh, sơn thủy hữu tình. Vả lại nơi đây nhân dân no đủ, phong tục thuần hậu. Đúng là nơi đất để lập đồn doanh. Ông cao hứng ngâm một bài thơ:

Thành thị lâu đài xinh tựa ngọc

Núi sông, hoa cỏ ngát màu xanh

Thừa khí đúc thành, tuy mạch nhỏ

Nơi đây thực chốn dựng cung thành.

Hôm ấy ông lập tức sai quân lính cùng nhân dân xây dựng một đồn doanh ở phía bờ ngạn sông nhỏ bên cạnh khu dân cư, tọa Quý hướng Đinh, phân kim kiêm hướng Bính Tý, Bính Ngọ. Mọi việc hoàn tất, từ đó ông Đông chinh Tây chiến, thường thường qua lại đóng quân ở nơi này.

Lại nói, bấy giờ ở khu Tây Để có người con gái nhà họ Đỗ tên là Khương Nương (Xét tích xưa, cha của Khương Nương là Đỗ Công Cẩn, mẹ là Bùi Thị Hoan, vốn là người khu Tây Để, gia thế lấy nghề y sinh sống. Ông Đỗ đã ngoài 50 tuổi mà chưa có con. Vợ chồng ông đi lễ cầu đảo đến chùa núi Phật Tích, mộng thấy có một người trao cho một chiếc gương vuông, đến khi trở về thấy cảm động trong người mà có thai. Đến kỳ sinh nở vào ngày mùng 10 tháng 11 mùa Đông năm Đinh Sửu, bà sinh hạ được một người con gái, má phấn môi hồng, mắt phượng mày ngài. Hai vợ chồng vui mừng khôn xiết đặt tên cho con là Khương Nương). 

Năm 16 tuổi tròn, Khương Nương nhan sắc tuyệt trần, cho dù tiên nữ chốn Bồng Doanh hay người đẹp nơi Lãng Uyển cũng chẳng thể vượt qua. Vả lại ngay từ nhỏ nàng đã theo học tinh thông kinh sử. Người đương thời gọi là bậc nữ trung mà còn hơn cả nam giới. Tuy nhiên chốn thiềm cung còn đóng, lá ngọc đương phong, mối lương duyên chưa hẹn cùng ai. 

Bấy giờ Lý công nghe biết nàng tài sắc vẹn toàn bèn nói với Đỗ Công xin được đính ước kết duyên trăm năm cùng với Khương Nương. Đỗ Công mừng lắm liền đồng ý. Thế rồi chọn ngày ngày lành tháng tốt định lễ sánh đôi duyên hòa hợp cùng nhau. Từ đấy ông lập làm Đệ nhất cung phi, cho nàng ở lại khu Tây Để để phụng sự cha mẹ nàng. 

Xong việc, mổ trâu bò khao thưởng quân sĩ. Ông chọn đinh phu trai tráng trong khu Tây Để được 36 người để làm người hầu cận thân tín. Hôm ấy liền đem quân thẳng tiến, trên thuyền thì chiêng trống sấm vang lừng ngàn dặm, trên đường tinh kỳ hai bên như ảnh bóng long xà lay động, tiến thẳng đến thành Tiêu Tư đánh lớn một trận, Tiêu Tư đại bại, bỏ thành tháo chạy. Lý công chiếm giữ được thành ấy nhưng chưa được bao lâu quân Lâm Ấp lại vào cướp bóc. Ông lại sai Đại tướng Phong Tu đại phá quân Lâm Ấp. 

Thiên hạ thái bình, giặc cướp được dẹp yên. Ông lên ngôi Hoàng đế, tự lập là Tiền Lý Nam Đế, đặt tên nước là Vạn Xuân, đặt quốc đô là thành Long Biên. Năm ấy, cũng sách phong cho Khương Nương làm Hoàng hậu, lấy khu Tây Để làm nơi nghỉ ngơi cho Hoàng hậu. Dân được ban cho miễn tô thuế, binh phu. Từ đấy trang thôn Tây Để đều được nhận phúc lành, tất thảy đều được vinh hiển giàu có vậy.

Lại nói, từ khi Khương Nương vào triều đã được 4 năm. Một hôm Đỗ công bỗng bị bệnh cảm ngoài rồi Đỗ công mất. Vua cho Hoàng hậu và một viên Đại tướng đưa Hoàng hậu về khu Tây Để làm lễ an táng. Từ khi Đỗ công mất, phu nhân của ông vì đau buồn trước cái chết của chồng mà lâm bệnh nặng, thuốc thang chữa trị mà chẳng thuyên giảm, cầu thần cũng chẳng công hiệu. Phu nhân cũng qua đời, Hoàng hậu bèn làm lễ mai táng, viết biểu tấu với vua xin cho phép ở lại quê nhà chịu tang cha mẹ. Vua chấp thuận và ban cho vô số vàng bạc, lụa là gấm vóc. Từ đấy, Hoàng hậu ở khu Tây Để chuộng làm việc nhân nghĩa, phát chẩn cứu bần. Phàm trong nhân dân từ người già yếu cho đến người cô quả Hoàng hậu đều đem của cải trong nhà ra cứu giúp. Tất thảy nhân dân đều ca ngợi ân đức, đội ơn như trời biển, thân yêu như cha mẹ vậy.

Lại nói, bấy giờ Lý Nam đế ở ngôi đã được 7 năm. Nhà Lương lại sai Trần Bá Tiên đem quân xâm chiếm nước Nam để rửa mối nhục. Khi đó vua đóng quân ở hồ Triệt. Quân Lương không dám tiến lại gần, đã hơn năm mà chưa phân thắng bại. Bấy giờ vào tháng 6 mùa hè, nước sông dâng lên đổ vào đầy hồ. Bá Tiên thừa cơ chỉnh đốn thuyền bè theo dòng nước mà thẳng tiến vào hồ Triệt. Quân của vua bị thua. Vua bèn trao quyền lại cho Đại tướng Triệu Quang Phục, còn mình lui vào giữ động Khuất Liễu rồi qua đời (bấy giờ là ngày 15 tháng 7). Khi đó trời đất bỗng nhiên tối tăm. Qua 3 ngày thì trời quang mây tạnh. Tại nơi này đã thấy mối đắp thành gò lớn. 

Lúc này Khương Nương Hoàng hậu đang ở khu Tây Để, khóc lóc ầm trời, không ai ngăn nổi, lập tức truyền cho nhân dân xây dựng một đền ở bên bờ sông nơi cung doanh theo phương hướng cũ, viết thần vị của vua là: Tiền Lý Nam Đế Hoàng đế, để phụng thờ.

Công việc xong xuôi Khương Nương bèn ban cho nhân dân 10 hốt vàng để nhân dân mua nhiều ao ruộng làm vốn công. Lúc đó Khương Nương bảo với nhân dân rằng: 

  • Ta với nhân dân đã thành tình nghĩa lâu rồi, chẳng phải một ngày mà nên há lại quên sao? Ví như ta về sau trăm tuổi thì nhân dân viết tên thần vị của ta để phụng thờ với Tiên đế, cùng được phối hưởng. Nhân dân nên tuân theo lệnh của ta không được thay đổi. 

Lúc đó nhân dân đều lạy tạ nhận lệnh. Việc xong Khương Nương và 6 người hầu gái cùng vào động Khuất Liễu thăm viếng lăng mộ của Tiên đế. Trên đường đi mới vào đến trong động, bỗng nhiên thấy trời đất mờ mịt, sấm chớp ầm vang. Trong một khoảnh khắc mây đen tan biến thì Khương Nương đã không còn thấy đâu nữa rồi. Chỉ thấy bên cạnh lăng mộ của Tiên đế lại nổi lên một gò đất (bấy giờ là ngày 16 tháng 2). 

Lúc đó mấy người thị nữ theo Nương đến đấy nhìn thấy sự tình như vậy tất cả đều kinh hãi. Khi trở về nói với nhân dân thì nhân dân đều nói ngày 16 tháng đó, nhân dân đều nhìn thấy có một vầng sáng lớn giống như dải lụa từ phương Nam bay ngang thẳng đến trước miếu rồi biến mất. Đến lúc này, khi nghe tin Hoàng hậu đã hóa thì nhân dân đều lấy làm kinh sợ. Hôm đó nhân dân làm lễ viết tên thần: Khương Nương Hoàng hậu, để phụng thờ cùng một nơi với Lý Nam Đế. 

Lại nói, từ khi Lý Nam Đế đã băng hà, Quang Phục đem quân về giữ đầm Dạ Trạch, lập đàn cầu đảo trời đất. Sau 3 ngày thấy một ông lão cưỡi rồng vàng từ trên trời bay thẳng xuống, tuốt móng rồng trao cho Quang Phục. Quang Phục đem làm lẫy nỏ, gọi là Nỏ thần móng rồng. Phàm có những khi nhanh hay chậm, mọi lúc đem hướng vào thì đều không có ai chống lại được. Vì thế mà bình định được giặc Lương. Quang Phục tự lập làm Triệu Việt Vương. 

Bấy giờ có con của anh trai Tiền Lý Nam Đế (tức là con của Đào Lang Vương) tên là Lý Phật Tử cùng con trai là Nhã Lang khởi binh ý đồ muốn khôi phục nhà Lý. Nhưng vì Triệu Việt Vương có nỏ thần móng rồng, nên khi giao chiến quân của Lý Phật Tử đều thua cả. Một ngày Phật Tử cùng với các tướng sĩ bàn âm mưu cầu hôn con gái của Triệu Việt Vương là Bạo Nương, xin cho Nhã Lang kết duyên vợ chồng. Việt Vương đồng ý, quần thần đều can ngăn nhưng vua không nghe. Thế là Lý Phật Tử sai con trai Nhã Lang nhập vào hàng quân để làm con tin. Từ đấy, Triệu Việt Vương rất tin yêu Nhã Lang. Trải qua thời gian 1 năm, một ngày Nhã Lang cùng Bạo Nương ngồi uống trà. Nhân đó Lang mới hỏi Cảo Nương rằng: 

  • Xưa kia 2 nước cùng là kẻ thù giao chiến không ngừng. Nay đã nên duyên Tần – Tấn thì việc chiến tranh cũng có thể đã dứt rồi. Nhưng xưa kia Hoàng phụ có thuật lạ gì mà khiến cho phụ thân ta nhiều lần thua bại? 

Bạo Nương chẳng để ý đem nỏ thần móng rồng cho Nhã Lang xem. Nhã Lang trộm nhìn biết được như vậy. Một ngày khác hoán đổi lẫy nỏ, lấy trộm móng rồng cất giấu một nơi. Xong việc Nhã Lang xin vua cho về thăm cha. Vua cho về. Nhã Lang vội vàng phi ngựa chạy về đem tâu với cha mình. Lý Phật Tử biết vậy đem quân tới đánh Triệu Việt Vương. Triệu Việt Vương đã mất nỏ thần, đành bỏ thành mà chạy thẳng đến của biển Đại Áp mà mất. Tàn quân còn lại đều được dẹp yên. 

Phật Tử lên ngôi tự lập làm Hậu Lý Nam Đế. Ông bèn luận công ban thưởng các cấp bậc. Thế rồi tặng phong sắc chỉ, mỹ tự cho bách thần. Bèn tôn phong cho Tiền Lý Nam đế sắc chỉ là Thượng đẳng Tôn thần, lại tôn phong cho Khương Nương làm Linh Nhân Hoàng Thái hậu. Truyền cho các địa phương sở tại, trang khu có đồn doanh được thiết lập của Lý Nam Đế trước đây, nhanh chóng trở về kinh thành nghênh đón sắc phong mang về nhân dân để phụng thờ. Bấy giờ khu Tây Để nghe được chiếu chỉ, các bậc phụ lão tới kinh thành làm lễ rước sắc về, nhân dân sửa sang miếu điện để phụng thờ. Từ đấy về sau, nhân dân, đất nước cầu đảo đều có nhiều linh ứng.

Khi nước Nam trải qua các triều đại có Đinh, Lê, Lý, Trần 4 nhà khai sáng nghiệp lớn, đều thường giúp nước cứu dân. Đến cuối nhà Trần, họ Hồ tranh ngôi, giặc Minh làm loạn. Bấy giờ có người ở động Lam Sơn, huyện Lương Giang, phủ Thiệu Thiên, Ái Châu, họ Lê tên Lợi khởi nghĩa Lam Sơn với ba ngàn quân mạnh đã tiễu trừ được họ Hồ và dẹp yên giặc Minh. Liền lên ngôi Hoàng đế ở Lam Sơn, đó là Lê Thái Tổ, lấy niên hiệu là Thuận Thiên.

Truyền ngôi đến Chiêu Tông thì quyền thần họ Mạc chiếm ngôi. Bấy giờ có Đại thần là Nguyễn Thái úy dẫn quân đánh dẹp. Một ngày quan Thái úy dẫn quân qua nơi miếu khu Tây Để làm lễ cầu đảo, cầu âm phù đánh giặc giúp nước dẹp giặc, nếu sau này đất nước được thanh bình sẽ cùng nhau được hưởng phúc lành. Làm lễ xong đem quân tiễu trừ giặc Mạc. Đến khi thiên hạ thái bình Thái úy cùng Chiêu Tông trở về chính cung, lên ngôi Hoàng đế. Thế rồi ban thưởng công lao ba quân, gia phong tướng sĩ các cấp theo thứ bậc, cho đến việc truy phong bách thần giúp nước. Quan Thái úy dâng biểu tâu ngày trước đã cầu đảo ở nơi miếu khu Tây Để. Vua nghe biết bèn gia phong sắc chỉ, lệnh cho quan Thái úy rước sắc về khu Tây Để làm lễ tế tự. Thái úy phụng mệnh nghênh sắc về khu Tây Để, cho mổ trâu, làm lễ tế tự. Việc xong, truyền cho nhân dân sửa sang cung đền để giữ hương khói ngàn năm, cùng hưởng phúc lành với đất nước kéo dài mãi mãi là lệ thức vậy. Tốt thay!

Tôn phong Tiền Lý Nam đế Hoàng đế Thượng đẳng Tôn thần.

Phong cho Linh Nhân Hoàng Thái hậu triều Lý.

Ban cho khu Tây Để, trang An Để, huyện Thư Trì, phủ Kiến Xương, đạo Sơn Nam phụng thờ.

Theo các tiết Khánh hạ, ngày hóa, ngày sinh và tên húy tên tự: hai chữ Bí, Khương cùng tên Thánh phụ, Thánh mẫu xem trong tích trên, tất thảy đều phải tránh âm. Đền chính ở động Khuất Liễu.

– Ngày 12 tháng 7, ngày sinh của Hoàng đế. Lễ dùng trâu bò, ca hát.

– Ngày 15 tháng 7, ngày hóa của Hoàng đế. Lễ dùng lợn đen, xôi, rượu.

– Ngày mùng 10 tháng 11, ngày sinh của Hoàng hậu. Lễ dùng tế trên mâm chay oản, quả, mâm dưới dùng lợn đen, xôi, rượu.

– Ngày 16 tháng 2, ngày hóa của Hoàng hậu. Lễ dùng y như lệ trước trong ngày sinh của thần.

– Ngày Khánh hạ mùng 2 tháng Giêng, ngày mùng 2 tháng 12. Làm lễ tùy theo.

Phàm trong thiên hạ các trang, khu phụng thờ Lý Nam Đế tổng cộng có 87 nơi, mà khu Tây Để là thứ 28 trong đó.

Ngày tốt tháng đầu thu năm Hồng Phúc nguyên niên (1572), Hàn lâm viện Đông các Đại học sĩ, thần, Nguyễn Bính phụng mệnh soạn.

Ngày tốt tháng giữa mùa hè năm Hoàng triều Vĩnh Hựu thứ 4 (1738), Quản giám bách thần Tri điện Hùng lĩnh Thiếu khanh, thần, Nguyễn Hiền lại tuân theo bản chính triều cũ phụng mệnh sao chép.

Hoàng triều Tự Đức năm thứ 13 (1860) ngày tốt tháng cuối mùa ?, dân gốc của xã lại tuân theo đúng như bản chính mà vâng chép.

Triệu Việt Vương

Tôi viết bài thơ Triệu Việt Vương

Chống Tần Chân Định kiến cơ xương

Núi Châu mây hiển che quân chủ

Sông Nhị rồng lên hiệu bốn phương

Dạ Trạch hùng uy tan giặc dữ

Phiên Ngung hoàng ốc tiết mao dương

Tiên đồng thoát trảo về nơi biển

Nam Việt vạn xuân mãi ngát hương.

Hai vị Lý Nam Đế trong sử Việt

Trên cơ sở phân tích các di tích và sự tích về Lý Nam Đế, có thể nhận thấy có 2 nhân vật lịch sử Lý Nam Đế có nguồn gốc và thời gian tách biệt, cụ thể là:

1. LÝ BÔN LONG, người Long Hưng Thái Bình, làm quan lệnh Long Xuyên, lấy vợ ở Vũ Thư, đánh Long Biên – Bắc Ninh, xưng đế nước Vạn Xuân, chặn giặc ở Hợp Phố, khi dời đi đã giao quyền cho Tả tướng quân Triệu Quang Phục. Tức đây là Triệu Vũ Đế khởi nghĩa kháng Tần chống Sở thời trước Công nguyên.

2. LÝ XÁ LỢI, người châu Dã Năng, đi tu trong chùa từ nhỏ, khởi nghĩa ở vùng Sơn Tây, đánh chiếm vùng Đông Anh – Hà Nội, mở 

nước Lâm Ấp, chặn giặc ở cửa sông Tô Lịch, sau giao quyền lại cho Hữu tướng Phạm Tu. Tức đây là Triệu Quốc Đạt – Khu Liên chống giặc Đông Hán.

Thần tích làng Cổ Trai, tổng Duyên Hà, huyện Duyên Hà, tỉnh Thái Bình

Triều Tiền Lý đánh giặc Lương Lý Nam Hoàng Đế cùng Hậu Lý Linh Lang Đại vương

Quan Thượng thư Bộ Lễ thiên triều vâng soạn 

Ghi chép ngọc phả cổ. Chi Càn.
Nước Nam Việt xưa Sơn Nguyên Thánh Tổ trời Nam nhận cơ đồ, cổ gọi là Việt Thường Thị, Kinh Dương Vương thừa mệnh vua cha đến trị trậm Nam Bang, đất thắng châu Lạc xây dựng kinh đô, hình mạnh Nghĩa Lĩnh trùng tu cung cư miếu điện. Đời đời cha truyền con nối hơn hai ngàn năm đều lấy Hùng Vương làm tôn hiệu.
Lại nói, thời trị 18 triều Hùng truyền đến Duệ Vương. Vương thọ 160 năm, không có người kế hậu, bèn nhường ngôi cho Thục An Dương Vương. Vương có nước được 50 năm, thì có người Chân Nam Định họ Triệu tên Đà cất quân đến đánh, nên nhà Thục mất. Triệu Đà đươc nước, cha truyền con theo đều xưng gọi là bậc chủ anh hùng.
Từ đó đất Việt ta thuộc về nhà Ngô, Tấn, Tống, Tề, Lương, tổng cộng 349 năm. Thời vua Lương lấy Tiêu Tư làm thái thú đất Việt. Tiêu Tư là người nặng hình pháp, chính trị ngược ngạo, hại dân. Nhân dân đất Việt thật là chưa có lúc nào khổ như lúc này.
Lại nói, thời ấy tương truyền rằng có người động Thái Bình quận Long Biên họ Lý tên Tấn. Ông là người xử thế văn thơ, khoan hòa hiếu đễ, kế đời theo nghiệp văn thơ, công đức rộng, tài kiêm văn võ, anh hùng vô địch. Ông lấy bà Đào Thị Lan làm vợ, mộng thấy có rồng vàng đến quấn quanh thân mà có mang. Mang thai được 12 tháng 15 ngày đến năm Kỷ Sửu ngày 12 tháng Giêng giờ Thân bỗng thấy mây lành rạng rỡ, khí lành bay khắp nơi, hương thơm ngào ngạt. Thái bà họ Đào sinh được một người con trai, vẻ rồng mắt phượng, 5 gò chầu về, tay dài quá gối, sau lưng có 28 vì tinh tú. Trên bụng có lời viết rằng: Lý Bí Lý Nam Hoàng Đế.
Đến khi lên 5 tuổi đã hiểu âm luật, nên bèn đặt tên là ông Lý Bí. Đến 7 tuổi người cha bèn cho vào học với Trần Giản tiên sinh. Học được 18 năm thì quán triệt văn chương, trên từ thiên văn, dưới đến địa lý, không việc gì không biết, không vật gì không hiểu. Có thể sánh cùng cung tường Khổng Mạnh, thao lược bốn khóa ba truyện không nhường Tôn Ngô.
Khi ông 16 tuổi thì thân dài 8 thước, sức chống vạn người, cao lớn đường đường, thần oai võ lược. Bỗng nhiên nổi chí tang bồng, tỏ tâm với việc cung tên. Ông Bí bèn triệu tập nghĩa binh. Anh hùng bốn biển đều lên tiếng. Ông Bí có kinh luân hơn người, anh tài đức độ, tự có khí tượng của bậc đế vương.
Khi ấy, những người tài cao, chí lớn ở bốn biển nghe tiếng đều tự đến xin làm con cháu nước nhà. Ông có được hơn ba vạn người. Ông Bí bèn truyền cho 300 danh tướng làm cỗ thái lao, lập đàn cầu đảo trời đất bách thần. Ông bèn khấn rằng:
–    Thần là người Nam sao có thể điềm nhiên khi nay có người nước lạ xưng là tướng Lương, tên là Tiêu Tư, tàn ác nhân đân, giết hại vật. Sinh dân than oán cảnh chính trị bạo ngược, bất nhân. Nay thần cùng với quân binh dẹp giặc. Nguyện xin được đại đức của trời đất âm phù cho vậy.
Khấn xong ông bèn xưng là Tiền Lý Nam Đế, cất quân mạnh hơn ba vạn người. Vua bèn truyền các danh tướng nổi danh cương mạnh đi xem địa thế hình cương Nam Bang, tìm đất tốt để thiết lập hành cung, đồn sở. Một hôm vua dẫn quân đến khu Cổ Trai, trang Vĩnh Duyên, tổng Duyên Hà, huyện Duyên Hà, phủ Tân Hưng, thấy vùng đất có đầu mạch từ trong làng chạy ra, hình đất có thế cục quý, rồng chạy uốn lượn, nước chảy quanh co. Trái phải có rồng hổ chầu về, phong tinh dẫn mạch, nhất nhất quay đầu. Vua bèn truyền binh sĩ và nhân dân thiết lập một nơi hành cung để ở, dựa Quý hướng Đinh. Việc xong vua bèn đem quân mạnh 5 vạn chia thành thủy bộ, cùng tiến đến đất Vạn Xuân, đánh trận lớn. Tổng cộng 12 trận. Quân Lương thua to, bỏ chạy. Vua đuổi theo chém được không kể xiết, đều rơi xuống sông Nhĩ. Nhánh sông nước không chảy được. Còn lại dư đảng đều bắt sống hết, không còn một tên. Vua bèn tự lập là Tiền Lý Nam Đế Hoàng đế.
Từ đó quốc gia vô sự, thiên hạ thanh bình, trong triều không có việc lớn, vạn dân được no đủ, mừng vui. Bốn biển thấy cảnh tượng thái hòa. Khi ấy, vua loan giá đi chơi phong cảnh trời Nam, không nơi nào không đến. Lúc thì đàn reo sáo múa, thi thư đối xướng với đất trời. Nhạc phượng ca loan, âm sắc như chốn Bồng Lai. Cỏ ba lá dẫn lối, bầu ngọc gió trăng, thuyền câu là dấu tiên, soi hình cảnh hội khói sương, xa mây vạn hình là bước chân. Nam là thánh, Bắc là thần, ra vào phong cảnh trời Nam, trở về nửa túi càn khôn.
Một hôm (tức ngày 12 tháng 2 mùa Xuân năm Bính Thìn) vua trở về hành cung nơi cũ (tức là trang Vĩnh Duyên, đất qua phía Bắc sông). Vua ngồi ở hành cung. Bỗng thấy trời đất u ám, giữa ngày mà như đêm. Từ trong thân vua thấy rồng vàng xuất hiện, bay thẳng lên trời. Vua không bệnh mà mất. Nhân dân viết tên húy mỹ tự phụng thờ, muôn năm hương lửa vạn đời không ngừng.

Sự thực về “Triệu Đà” ở Thanh Oai…

Làng Quảng Minh, Mỹ Hưng, Thanh Oai thờ một vị Đại vương họ Triệu và thường được các “tín đồ” của Cổ Lôi ngọc phả dẫn rằng đây là nơi thờ Triệu Đà, made in Vietnam chính cống, bởi trong Cổ Lôi ngọc phả kể về một vị Nguyễn Cẩn (hay Thận), là con của Hùng Dực Công (em của Hùng Duệ Vương), sau làm con nuôi của Triệu Cao và đổi sang họ Triệu, rồi làm vua nước Nam Việt…

Các cụ làng Quảng Minh có vẻ cũng thích thú việc thành hoàng quê mình là vị Hoàng đế khai quốc Triệu Đà nên khá tin vào câu chuyện trên. Nhưng thực ra Cổ Lôi ngọc phả không hề có chữ nào nói về Triệu Đà cả, vì như họ đã ghi đây là ông Nguyễn Cẩn hoặc Nguyễn Thận, chưa từng chép tên Đà. Tức là bản thân vị họ Triệu được nhắc đến trong Cổ Lôi ngọc phả không phải là Triệu Đà.

Nay thử xét kỹ xem thực sự Triệu Công chính vị ở Quảng Minh là ai?

Sắc phong thời Lê niên hiệu Vĩnh Thịnh năm thứ 6 (năm 1711) của làng Quảng Minh ghi phong cho các vị:

  • Linh quảng Thánh thần Triệu chính vị Đại vương,
  • Tả Hoàng hậu,
  • Hữu Phi nhân,
  • cùng Tán trị Thánh thần Đại vương.

Câu đối ở đình Quảng Minh:

文謨武烈動王功著雄朝光史筆

左母右姨啟聖德留梓里豎碑銘

Văn mô võ liệt động vương, công trứ Hùng triều quang sử bút

Tả mẫu hữu di khải thánh, đức lưu tử lý thụ bi minh.

Tạm dịch là:

Mưu văn tài võ động tới vua, công nổi triều Hùng rạng bút sử

Trái mẹ phải dì khởi sinh thánh, đức lưu quê ấp dựng bài bia.

Như vậy, làng Quảng Minh thờ một vị họ Triệu ở ngôi giữa và bên trái thờ mẹ, bên phải thờ dì (em của mẹ) và có thể cùng một vị Tán trị Thánh thần không rõ thông tin.

Bản khai thần tích thần sắc của Quảng Minh cho biết vị Triệu Công này đã cùng Tản Viên Sơn Thánh giúp Hùng Duệ Vương chống quân Thục. Sự việc này xem ra vị Triệu Công ở Quảng Minh tương đồng với vị Nguyễn Cẩn trong Cổ Lôi ngọc phả, là dòng dõi vua Hùng. Tuy nhiên, để xác nhân chân tướng của vị Triệu Công ở vùng Thanh Oai này thì cần tham khảo… bản ngọc phả họ Lê ở Hạ Mạo (nay thuộc TX Phú Thọ, Việt Trì).

Ngọc phả Hạ Mạo phối hợp với thần tích của làng Mạo Phổ bên cạnh cho biết vị vua Triệu, cháu của Hùng Duệ Vương cùng Sơn Thánh chống Tần là Út Ngọ Lôi Mao hay Triệu Quang Phục. Đây không phải là Triệu Đà, người xưng Vũ Đế, bởi Triệu Vũ Đế không phải dòng dõi quý tộc Hùng Vương và khởi nghĩa ban đầu là ở đất Chân Định, không phải ở vùng Phong Châu. Triệu Vũ Đế thực ra là cũng là vị Cao Tổ họ Triệu, nên Cổ Lôi ngọc phả chép thành Triệu Cao. Triệu Quang Phục Nguyễn Cẩn là “con nuôi” của Triệu Cao Tổ là chính xác.

Triệu Quang Phục có cha là Triệu Túc, hay Hậu Hùng Vương (em Hùng Duệ Vương) trong ngọc phả Hạ Mạo. Mẹ của ông là Duyên Hòa Thánh mẫu thờ ở Mạo Phổ, là con gái Đông Chu Quân, tức triều vua Hùng đời cuối. Triệu Quang Phục đã cùng với Triệu Đà (được kể thành Sơn Thánh) khởi nghĩa chống Tần thắng lợi. Triệu Đà xưng là Vũ Đế, còn Triệu Quang Phục sau đó xưng vương, tức là Triệu Việt Vương. Triệu Vũ Đế gả con gái cho Triệu Quang Phục nên từ đó nước Nam Việt theo họ Triệu (chi tiết giống Nguyễn Cẩn theo Triệu Cao làm con nuôi và đổi họ).

Như vậy, vị Triệu công chính vị ở Quảng Minh hay Nguyễn Cẩn trong Cổ Lôi là Triệu Quang Phục, người sau này trở thành Nam Việt Vương. Đây là một vị khác, không phải Vũ Đế Triệu Đà ở Đồng Sâm (Thái Bình), người là Cao Tổ đã xưng Đế cả thiên hạ Trung Hoa sau khi diệt Tần thắng Sở. Vị “tả Hoàng hậu” họ Trần ở Quảng Minh tương ứng với con gái Đông Chu Quân, vợ của Hậu Hùng Vương Triệu Túc.

Câu chuyện về các vị vua Triệu, đế và vương khá lẫn lộn, nên cần suy xét, đối chiếu kỹ càng, tránh để tình trạng như hiện nay, Quảng Minh thay vì thờ Triệu Việt Vương lại cho là Triệu Đà. Còn Đồng Sâm thay vì thờ Triệu Vũ Đế lại treo biển ghi thành ông Nguyễn Cẩn của Cổ Lôi.

Sắc phong làng Quảng Minh năm Vĩnh Thịnh thứ 6 (1711).
Nghi môn đình Quảng Minh.
Ban tiền tế đình Quảng Minh.

Thánh từ ngọc phả đền Bắc (Văn Lãng, Trực Tuấn, Trực Ninh, Nam Định)

Ngọc phả Hoàng đế Triệu Việt Vương (phụ Hùng triều Quý Minh Đại vương)

Thuộc chi Càn, bộ thứ nhất, Thượng đẳng thần

Bản chính của bộ Lễ quốc triều

Xưa nước Việt bang Nam ta kể từ Thánh Tổ Đại bảo Tiền Hoàng đế triều Hùng khởi tạo cơ đồ to lớn, trải xem chỗ tiện lợi của thế sông núi mà xây dựng thành đô ở thắng địa Phong Châu, trùng tu đền miếu nơi đất cường Nghĩa Lĩnh. Đời đời cha truyền con nối đều xưng là Hùng. Ngọc lụa xe sách, núi sông một dải thống nhất. Đó là tổ của Nam Việt vậy.

Trải qua 18 đời truyền tới vua Duệ Vương. Vua là người có hùng tài đại lược, tư chất thánh triết. Nối tổ tông gây dựng 17 đời cơ đồ  thịnh trị. Trong sửa sang văn đức, ngoài phòng bị biên cương, dốc chí hưng bình để yên ổn đất nước. Chăm lo lấy đức dậy dân. Trên đời ai cũng khen là bậc hiền quân vậy.

Thời ấy nước ta có một gia đình ở đạo Sơn Tây, phủ Gia Ninh, huyện Gia Hưng, động Lăng Sương, họ Nguyễn tên Khiết, vợ là Cao Thị Đức. Gia thế vốn hùng mạnh có tiếng, nhưng tuổi đã ngoài 50 mà vẫn chưa từng có con. Vợ chồng lấy làm phiền muộn không vui.

Nhân gặp tiết trời xuân hòa khí, nơi nơi hoa nở đầy vườn. Người người đua nhau thưởng ngoạn. Ông bèn cùng anh ruột là Cao Hành (ông Hành tuổi cũng cao mà chưa có con). Hai ông dẫn gia nhân 10 người mang theo một bình rượu, một cây đàn cùng đi chơi lên núi Tản. Lên đến sườn núi gặp một ông lão mày râu bạc trắng, đầu đội mũ bách tinh, tay cầm gậy trúc, theo sau vài người hầu mang theo một bình rượu cùng một chiếc la bàn, vừa đi vừa ngâm thơ. Hai ông thấy cho là Tiên ông trên Bồng Lai hoặc là thần linh ở núi Tản hiện lên. Hai ông vội vàng đến trước mặt quỳ lạy và thưa rằng:

  • Nhà chúng thần đức bạc, anh em đều đã cao tuổi mà nối dõi tông đường còn muộn. May mà gặp được Tiên ông ở đây, giám xin mở rộng lòng thương, làm phước cho lũ thần thỏa lòng mong mỏi. Thực là ơn Tiên ông vạn lần vậy.

Ông lão nghe xong cười nói rằng:

  • Ta vốn chẳng phải Tiên, cũng chẳng phải Thánh. Vốn là nhân lúc rảnh rỗi dạo gót chốn đời. Nay các ngươi gặp ta cũng là có phúc, không phải thường tình. Ta đã xem thấy ở sườn núi kia có ngôi đất lành bên trái, bên phải có rồng chầu nước tụ, huyệt ở hướng Nhâm Bính, có thể phát rất nhanh. Nếu táng mộ vào đấy chẳng quá vài năm sẽ sinh ba người con quý. Ta sẽ cho các ngươi hưởng phúc này. Vậy kíp về thu thập hài cốt tiên nhân, ngày mai vào giờ Dần mang đến đây, ta sẽ táng cho.

Hai ông mừng lắm, lạy tạ rồi trở về nhà, vội rước hài cốt thân mẫu cùng lễ vật, rạng ngày hôm sau mang lên sườn núi, đã thấy ông lão ngồi ở chỗ đó từ lâu. Hai ông làm lễ bái yết. Ông lão chiếu la bàn, điểm huyệt ngay chỗ đã gặp ông hôm qua. Táng xong, hai ông định gặp để lễ tạ thì không thấy ông lão đâu nữa.

Từ đó hai ông trở lại quê nhà. Chẳng bao lâu ông Hành sinh được một người con trai là Sơn Thánh. Ông Khiết cũng sinh được hai người con trai (vào ngày 10 tháng Giêng năm Giáp Dần), thể diện khác thường, hình dung dĩnh ngộ. Ông Khiết mừng lắm, bèn đặt tên người con trưởng là Sùng Công, người con thứ là Hiển Công.

Đến khi trưởng thành năm 12 tuổi thì hai cha mẹ đều mất cả. Lúc ấy hai ông cùng với ông Tùng đều nhờ vào vị thần nữ Cao Sơn họ Ma làm con nuôi. Đến khi bà họ Ma mất, giao phó địa phần núi non ruộng đất cho ba ông. Ông Tùng phân định từ núi Nộn sang bên trái giao cho ông Sùng, phong làm Tả kiên thần. Từ núi Nhạc về bên phải giao cho ông Hiển, phong làm Hữu kiên thần (Xét ông Tùng với ông Sùng và ông Hiển là anh em chú bác, có dáng như trong 50 người con cùng một bọc theo mẹ lên núi mà lại thác sinh vào thời này. Ông Tùng nhờ vào bà họ Ma làm con nuôi, sau được Thái Bạch Tinh Quân cho gậy thần, Long Đình Đế cho sách ước. Từ đó đã đưa lại phúc đức cho thế gian, đền đáp được ơn sâu của mẹ nuôi. Bà họ Ma cho con là chí hiếu, nên đã lập chúc thư, giao cả núi sông đồng ruộng cho ông Tùng. Đến khi bà họ Ma mất, ông Tùng giao cho hai em. Từ đó uy danh vang dội. Người đương thời tôn ông là Tản Viên Sơn Thánh vậy). Từ đó uy danh cả ba ông lừng lẫy sang cả Bắc quốc.

Lại nói, lúc đó  vua Duệ Vương sinh được hai mươi ngươi con trai, các hoàng tử đều xa chơi nơi Bồng Đảo. Chỉ còn hai công chúa, người lớn là Công chúa Tiên Dung đã kết duyên với Chử Đồng Tử. Công chúa thứ hai là Mỵ Nương, vườn xuân khóa kín, nhụy ngọc chưa mở, túc khế lương duyên còn chưa định đoạt.

Vua bèn dựng lầu bên bờ sông Bạch Hạc, đất Việt Trì đề ba chữ “Lầu kén rể”, ban chiếu truyền cho thần dân thiên hạ, ai là người thông minh tài trí, đức độ anh hùng, Trẫm có thể nhường ngôi báu thì sẽ hứa gả công chúa Mỵ Nương cho.

Ngày ấy dưới sông thuyền bè đua bơi, trước lầu ngựa xe rầm rập. Ngọn bút mưa thành rồng bay rắn lượn. Sao trên trời chừng như rơi xuống mặt sông. Trận võ khép vòng vây mà hổ báo kinh hồn. Chớp giật sấm ran lừng góc biển. Một phen tụ tập cả nước anh hùng bốn bể. Song đều là những tay bậc thường thường, không phải toàn tài, không đáng xứng tên. Thơ đào yêu còn chưa có được tiếng đàn ngân lên thích hợp. Người thời ấy có bài thơ vịnh rằng:

Một trường cả nước đều rung động

Bốn bể anh hùng mở mắt trông

Chưa biết vườn xuân ai mở khóa

Chờ xem ai đó đấng anh hùng.

Ba ngày sau, Sơn Thánh nghe tin ấy, bèn cùng với hai em vào cung ứng tuyển. Vua Duệ Vương thấy Sơn Thánh có nhiều tài lạ chước giỏi, bèn gả công cháu Mỵ Nương cho Sơn Thánh.

Sơn Thánh rước Công chúa về sơn động yên vui. Để hai em (tức là ông Sùng và ông Hiển) ở lại giúp vua. Vua thấy hai em Sơn Thánh tướng mạo đường đường, lại có tài năng, bèn phong cho ông Sùng chức Tả đô đài Đại phu, ông Hiển chức Hữu đô đài Đại phu. Ban cho phụ chính trong triều. Hai ông bái tạ nhận mệnh, nhận chức ở triều. Qua được vài năm, thiên hạ thanh bình, quốc gia vô sự, dân chúng no đủ, bốn bề yên lặng. Hai ông dâng biểu xin đi chu du thiên hạ, trải xem sông núi. Vua đồng ý.

Hai ông bái tạ, xa giá đi dạo dãy núi Hoành Sơn, sông ngòi ngoạn thưởng điều thú vị của ngư ông. Có lúc tản bộ vào sườn núi, hứng gió mát ở nơi khoáng dã. Có lúc đi thăm bến nước, đón trăng trong ở giữa dòng sông. Một hôm hai ông đi đến đạo Sơn Nam, phủ Thiên Trường, huyện Tây Chân, xã Xối Đông. Hai ông thấy thế đất hữu tình, bèn lập hành cung ở đó. Xong việc, lại cử giá đi chu du.

Khi ấy ông Hiển đi qua xã Quần Lãng, kết hôn với con gái họ Trần. Rồi cùng họ nhà vợ và gia thần lập riêng một trại gọi là trại Nam Lãng. Việc xong rồi, ông trở về xã Quần Lãng. Hôm đó phụ lão thấy ông đi qua bèn làm lễ bái tạ.

Lúc đó ông thấy đất Quần Lãng có sông núi diễu quanh, rồng hổ bao bọc, cả một dải đất như hình rồng uốn lượn, phong cảnh khôi kỳ. Ông mới truyền cho gia thần và nhân dân thiết lập một tòa du cung để làm nơi thưởng ngoạn ở đó. Nhân dân vâng mệnh, thiết lập xong (Thời ấy ông đi đến nơi nào thấy có thắng cảnh đều thiết lập hành cung. Về sau khi ông hóa nhân dân phụng thờ, cộng được 372 nơi, có sự tích riêng), ông ở lại đất Sơn Nam qua được thời gian 1 năm.

Lúc đó Thục chúa xa nghe Duệ Vương đã thượng thọ mà không có con nối dõi, bèn dẫn trăm vạn hùng binh, tám ngàn ngựa khỏe, năm trăm thuyền chiến, chia thành 5 đường đồng loạt đến xâm chiếm để cướp lấy nước. Một đạo theo đường Thập Châu, Hoàng Tùng tiến vào. Một đạo theo đường châu Tụ Long, châu Bảo Lạc tiến vào. Một đạo theo đường châu Quỳnh Nhai, Tuyên Quang tiến vào. Một đạo theo đường Ái Châu, Sơn Nam tiến lên. Một đạo quân thủy từ cửa biển Hội Thống ở Hoan Châu mà tiến. Dựng cờ lớn ở Mộc Châu.

Thư ở biên giới cấp báo về triều, một ngày tới 5 lần. Vua Duệ Vương nghe tình hình nguy cấp, bèn triệu con rể là Sơn Thánh cùng các tướng lại bàn kế chống giặc (Ngày ấy ông Hiển đang ở đất Sơn Nam, vâng chiếu triệu về kinh nghị luận mưu kế). Sơn Thánh tâu rằng:

  • Thần xin thay nhọc Thánh thượng, tự chọn tướng tài. Quân Thục chẳng qua một ngày bình được.

Vua nghe xong phong cho Sơn Thánh chức Ngũ đạo Đại tướng quân, lĩnh ấn Nguyên soái, kiêm Trưởng thủy bộ tam quân, cho được tùy tài tổ chức. Khi đó ông Hiển cố sức xin được lĩnh trách nhiệm ở mặt Ái Châu và Sơn Nam. Sơn Thánh đồng ý, phong làm Hữu tướng quân.

Cũng ngày ấy Sơn Thánh cùng các tướng bái tạ nhận lệnh, đều cất quân chia đường mà tiến. Khi ấy ông Hiển tiến binh qua đất Quần Lãng, chọn lấy người khỏe mạnh được 16 người để làm gia thần thủ hạ. Xong rồi ông mang đại quân đánh  một trận được toàn thắng. Trong khi đó còn các nơi khác Sơn Thánh cùng các tướng hiệp lực đại chiến một trận. Quân Thục thua to, tan vỡ. Vua Thục chạy về nước. Dư đảng đều dẹp được.

Ông Hiển lập tức khải hoàn bái tạ bệ kiến. Ngày đó vua luận công lao để phong thưởng, phong cho ông Hiển làm Đại bảo Minh quốc công, thực ấp vạn hộ. Ông cố từ, không nhận, làm biểu tấu lên triều đình, xin đi khắp nơi để xem sông núi là đủ vinh dự nhất vậy.

Vua biết ông Hiển đối với nước có công lớn, nên phong làm Quý Minh Đại vương, sắc phong sinh thần, được đi chu du thiên hạ, chọn lập sinh từ ở các xứ, để làm nơi vạn năm hưởng hương hỏa phụng thờ. Ông làm lễ bái tạ, rồi loan giá đi chơi khắp thiên hạ. Phàm là những cung doanh khi trước dựng ở nơi nào thì ông đều lập sinh từ ở đó.

Một hôm ông đi về xã Quần Lãng. Ông mở cuộc vui chung, triệu tập phụ lão nhân dân đến mời uống rượu. Ông bèn bảo rằng:

  • Ta vẫn có một hành cung ở địa giới đất này. Thảng hoặc sau này ta trăm tuổi, dân chúng hãy sửa sang cung sở, viết thần hiệu của ta là Quý Minh Đại vương để phụng thờ.

Nhân dân đều bái tạ lĩnh mệnh. Ông Hiển ở đất Sơn Nam thường qua chơi nơi cung sở xã Quần Lãng, giáo hóa nhân dân, tăng lợi trừ hại. Lấy nhân nghĩa lễ trí dậy bảo cho dân tục. Từ đó nhân dân no đủ, phong tục thuần hậu, đều là nhờ đức của ông Hiển vậy.

Lại nói, vua Duệ Vương không có con nối dõi bèn mời con rể là Sơn Thánh lại để nhường ngôi báu. Sơn Thánh cố từ không nhận, tâu rằng:

  • Cơ đồ 18 đời Hùng, lòng trời đã định. Nay có Thục chúa, tuy là bộ chủ Ai Lao, nhưng cũng là dòng bên ngoại họ Hùng, nên nhường nước cho Thục chúa là hơn. Thần có phép tiên biến hóa, xin cùng Bệ hạ thoát khỏi chốn trần ai, bay lên làn mây, chẳng cũng vui lòng lắm sao?

Vì vậy Duệ Vương mới mời Thục chúa lại nhường ngôi cho. Đoạn vua cùng với Sơn Thánh đang giữa ban ngày bay lên trời. Lúc đó ông Hiển đang ở đất Sơn Nam, nghe tin Duệ Vương đã hóa, bèn ngửa mặt lên trời mà than rằng:

  • Cơ đồ họ Hùng đã thuộc về tay người khác rồi.

Than xong, ông mang theo gia thần vài người trở về gia quán (tức động Lăng Sương). Đến nơi, ông Hiển lên núi Tản Lĩnh. Vừa tới đỉnh núi bỗng nhiên thấy trời đất mù mịt, mưa gió lớn nổi lên. Ông đã hóa vậy (hôm đó là ngày 12 tháng 9). Khoảnh khắc mây tan mưa tạnh, trời đất quang đãng. Thấy mối đùn lên thành một gò đất cao.

Sự dứt, các gia thần trở về kể sự việc ấy cho mọi người nghe. Ngày ấy xã Quần Lãng được tin, nhân dân tuân theo lời dặn của ông, tức thì sửa sang hành cung thành đền miếu, viết thần hiệu phụng thờ. Từ đó về sau có nhiều anh linh hiển ứng, phần nhiều có công âm phù hộ quốc. Cho nên nối đời đế vương đều bao phong mỹ tự và sắc chỉ, vạn cổ hưởng thờ, cùng với trời đất tồn tại mãi mãi. Đẹp đẽ thay!

Phong là Tản Viên Sơn Đệ tam vị Hữu đô đài Quý Minh Đại vương (Đại vương húy là Hiển, tự là Tuấn).

Cho phép đạo Sơn Nam, phủ Thiên Trường, huyện Tây Chân, xã Quần Lãng phụng thờ (đền chính ở động Lăng Sương).

Ngày sinh thần mùng 10 tháng Giêng (lễ nghi dùng cỗ chay, trà quả, xôi lợn, cỗ trâu, bánh dày, ca hát, đấu vật một ngày).

Ngày thần hóa vào 12 tháng 9 (lễ dùng như ngày sinh thần).

Kiêng kỵ tên húy ba chữ Hiển, Quý Minh nhất thiết cấm, cùng chữ Tuấn đều phải tránh âm.

Lại nói, vua Thục lấy được nước, tức là Thục An Dương Vương, ở ngôi 50 năm. Rồi Triệu Vũ Đế lấy được nước, nước ta thuộc nhà Tây Hán. Trải qua Đông Hán, Ngô, Tống, Tấn, Tề, Lương. Đến nhà Lương sai Dương Tư sang làm Thứ sử. Tư là người dùng hình nặng, phép dữ, chính ngược hại dân.

Thời đó nước Việt ta khắp nơi lầm than, chưa có thời nào cực khổ như vậy. Khi đó ở đạo Sơn Tây, phủ Tam Đới, huyện Chu Diên, có một nhà họ Triệu, tên là Túc, vợ là Lý Thị Đàm. Trước kia tiên tổ vốn làm quan ở triều nhà Triệu. Đến khi nội thuộc qua sáu triều đại bèn về ẩn dật chốn làng quê, lấy nghề lương y, nho học để mưu sinh. Đến đời ông Túc vợ chồng đều hiền lành chất phát, làm phúc cứu người, càng tăng thêm lòng phúc hậu, gắng sức tu nhân. Phàm là những việc cứu nghèo tạo phúc, đều cố hết sức mình mà làm vậy. Người địa phương đều khen ngợi là một nhà kẻ sĩ có lòng tốt. Lúc đó ông tuổi đã 40 mà điềm lộng chương còn chậm, giấc mộng kỳ lân chưa thấy báo ứng.

Một hôm bà họ Lý ngồi tựa lan can thiếp đi như ngủ, mơ màng trong mộng, thấy một ông quan áo mũ chỉnh tề, hai tay ôm một đứa bé trao cho bà nói rằng:

  • Nhà họ Triệu phúc hậu, trời đã chiếu cố, cho nên Hoàng Thiên sai ta mang đứa bé này cho vào nhà ngươi làm con. Mai sau sẽ dựng nước diệt giặc, tiếng tăm khắp thiên hạ. Chỉ hiềm phúc quả chưa tròn nên chưa lâu dài lắm.

Đang trong mộng bà ôm lấy đứa bé mừng rỡ, bỗng nhiên bừng tỉnh, mới biết là chiêm bao. Bèn kể lại chuyện với ông Túc. Ông nói:

  • Nếu quả là như trong giấc mộng của bà thì tất nhiên là điềm lành.

Từ đó vợ chồng uyên ương chung gối, loan phượng sánh vai, vui tiếng chuông ngân trống dục, hứng vị vần thơ cung đàn. Ít lâu sau quả thấy phu nhân có mang, đầy mười một tháng, vào năm Giáp Dần, ngày mùng 6 tháng 3 sinh hạ được một người con trai. Lúc giờ sinh khí lành bay man mác, gió đưa hương ngào ngạt. Thấy được một con trai thuần phong tuấn tú, ứng vào lời nói của thần tướng. Mặt mũi khôi ngô y như đứa bé đã nhận được trong mộng. Ông Túc cả mừng, nghĩ thầm, đứa con sau này ắt hưng phục nghiệp nhà nên mới đặt tên là Quang Phục.

Ngày qua tháng lại được 12 tuổi đã tỏ ra thiên tư minh mẫn, tính bẩm anh thông. Cho đến năm 15 tuổi thì oai phong cường tráng, trí dũng kiêm tài, thao lược tinh thông, văn chương quán triệt. Thật là bậc tuấn kiệt trong đời vậy.

Triệu Quang Phục trước mắt nhìn thấy quan thứ sử nhà Lương là Dương Tư tàn bạo với dân, hình phạt hà khắc. Ông đau lòng vì dân chúng lầm than, bèn lui tới với những người có mưu trí, triệu tập dân ly tán, tìm dõi người hào kiệt trong thiên hạ. Chẳng bao lâu số quân ứng nghĩa đã được vài ngàn người. Song lúc đó những bậc nam nhi thao lược, tướng tá anh tài chưa quy về một mối, chưa biết ai là người quân trưởng, còn phải đợi thời cơ mới phát động được.

Một hôm ông nghe ở đất Thái Bình thuộc xứ Long Biên có người tên là Lý Bôn dấy binh ở châu Cửu Đức, cũng có chí chống quân Lương. Ngay hôm đó ông mang binh mã, mưu lược đi tìm gặp ông Bôn. Ông Bôn thấy ông tướng mạo đường đường, phong tư lẫm liệt, kỹ năng thao lược, văn võ kiêm toàn. Ông Bôn mừng lắm, nghĩ thầm:

  • Chắc là trời khiến người này đến giúp vận nước đây.

Tức thì cho làm chức Điều xuyết binh nhung, dẫn quân tiên phong cùng với ông đại chiến với quân Dương Tư một trận. Quân Tư thua to, bỏ thành chạy về nước Bắc. Sau đó không lâu quân Lâm Ấp lại vào cướp bóc. Ông Bôn bèn lập đàn phong ông Phục làm Tả tướng quân, Phạm Tu làm Hữu tướng quân. Khiến mang quân đánh phá, Lâm Ấp.

Ông Bôn lên ngôi Hoàng đế, ấy là vua Tiền Lý Nam Đế, đóng đô ở thành Long Biên, đặt tên nước là Vạn Xuân, đặt trăm quan, định đô ấp, phong thưởng cho công thần cao thấp khác nhau. Ông Phục được phong làm Quốc tể Long Lĩnh hầu, lĩnh ấn Đại tướng quân, tại triều phụ chính. Vua tôi hợp đức, đất nước thanh bình. Trải qua 6 năm ông Phục có nhiều công với nước. Vua rất yêu kính, thăng thưởng nhiều lần, các quần thần không ai bì kịp.

Lại nói, thời vua Lý Nam Đế ở ngôi trải qua 7 năm. Vua nhà Lương lại sai Trần Bá Tiên đem quân xâm lược phía Nam để phục thù trận thua ngày trước. Khi quân Lương đến, vua đóng quân ở hồ Triệt. Quân Lương không dám tiến. Bỗng một sớm lũ lớn tràn về. Quân của Bá Tiên ùa theo dòng nước mà tiến. Quân của vua tan vỡ. Vua mới ủy quyền cho Đại tướng Triệu Quang Phục giữ nước. Vua ẩn vào động Khất Liêu, rồi mất.

Từ đó ông Phục tìm khắp thiên hạ nơi nào có chỗ hiểm trở thì thiết lập đồn doanh để chống quân Lương. Một hôm ông về đến đạo Sơn Nam Thượng, phủ Khoái Châu, huyện Đông An, bãi Tự Nhiên. Ông bèn lập doanh trại ở đầm Nhất Dạ (Đầm ấy trước kia là nhà của Chử Đồng Tử, tự nhiên thành bãi. Đến khi Chử Công hóa, một đêm thành đầm, nên có tên ấy), cùng với quân Lương chống cự. Sau quân Lương sai tướng Dương Sàn dẫn quân đến tiếp viện rất đông. Qua nhiều trận giao chiến quân ông bị thiệt hại.

Ngày ấy ông lại đi tìm mọi nơi trong thiên hạ, nơi nào dân giàu có, lại có địa hình hiểm trở để xây dựng những doanh trại làm nơi phòng bị. Một hôm ông xa giá đi qua đạo Sơn Nam Hạ, phủ Thiên Trường, huyện Tây Chân, xã Quần Lãng, thấy có sông ngòi quanh co, có thể lập được đồn. Ông bèn dừng quân ở đó, nhân làm lễ cầu khấn ở đền thờ Quý Minh Đại vương, xin được âm phù hộ quốc. Khấn xong đêm ấy ông nằm mộng thấy một người đầu đội mũ bách tinh, mình mặc áo hồng bào, tay cầm thẻ bài vàng, bảo rằng:

  • Hoàng Thiên đã định cho họ Triệu làm vua, hưởng nước ngoài 20 năm. Nay khanh nên trở về đầm Dạ Trạch, lập đàn kỳ đảo. Thiên đình sẽ sai Chử Công mang móng rồng xuống giao cho khanh. Tất sẽ bình được giặc Lương vậy.

Nói xong thì biến mất. Khi tỉnh dậy, sáng ngày ông làm lễ bái tạ. Đoạn rồi truyền quân cùng nhân dân xây dựng một đồn ở bên sông để phòng ngự. Việc xong, ông lại trở về cung sở (tức đầm Nhất Dạ). Nhớ lại sự việc trong mộng bèn trai giới thanh khiết, lập đàn kỳ đảo. Sau thấy một người cưỡi rồng vàng ở trên trời xuống bảo rằng:

  • Nơi đất linh thiêng này chốn ta đã thoát trần trước đây.

Nói rồi trút một cái móng rồng đưa cho, dặn đem để lên chỏm mũ đầu mâu, khi ra trận hướng về phía địch thì sẽ được toàn thắng. Nói xong cưỡi rồng bay lên. Từ đó ông được móng rồng, đánh bại quân Lương, chém được tướng Dương Sàn. Quân Lương chạy về Bắc. Ông bèn thống nhất thiên hạ, tự lập làm vua, hiệu là Triệu Việt Vương, đóng đô ở thành Long Biên.

Lại nói, ông Phục từ khi gặp Quý Minh Đại vương ở trong mộng, khi ở Dạ Trạch lại thường mộng thấy một người áo mũ chỉnh tề, y như người đã gặp trong mộng Quần Lãng, thường cùng vua (tức ông Phục) đối thoại, bảo ông rằng:

  • Ta cùng Ngài tuy âm dương hai ngả, song ngày sau hưởng lộc cùng một địa phương.

Nhân tặng vua một bài thơ rằng:

Âm dương hai cõi đã chẳng nề

May được tương phùng giữa thú quê

Ngày sau cùng hẹn về Quần Lãng

Là nơi thờ hưởng muôn nghìn thu .

Đến khi vua lên ngôi nhớ lại lời thơ này, nghĩ thầm:

  • Có lẽ sau này ta là phúc thần ở Quần Lãng chăng?

Bèn sai sứ giả sắm sửa lễ vật, về tận đất Quần Lãng để bày tế tại đền thờ Quý Minh Đại vương. Tế xong lại ban cho nhân dân vàng ròng 5 hốt, giao cho nhân dân mở rộng ruộng vườn làm của công. Lệnh cho các khoản binh dịch đóng góp, tô thuế đều được miễn cả. Từ đó đất Quần Lãng trở nên trù phú, địa ấp phong nhiêu, đều nhờ công đức của vua vậy.

Lại nói, vua ở ngôi 21 năm. Trong khi đó có người con anh vua Tiền Lý Nam Đế tên là Phật Tử mang quân từ động Dã Năng đến (Phật Tử là con của Thiên Bảo. Vua Nam Đế đánh quân Lương rồi mất. Thiên Bảo mang chúng quân chạy vào động Dã Năng, tự xưng là Lang Vương. Sau đến Phật Tử lên, đến đánh). Lúc đó vua nghĩ Phật Tử là cháu con chú con bác của Nam Đế nên không nỡ tuyệt. Bèn chia nước làm hai để cùng trị. Cắt bãi Quân Thần (Thuộc huyện Từ Liêm, xã Thượng Cát, Hạ Cát. Từ Thượng Cát về phía Tây nhường cho Phật Tử. Từ xã Hạ Cát về phía Đông thuộc vua).

Vua bèn rời đô sang Ngọc Ninh. Phật Tử đóng đô ở Ô Diên, cùng chia phân để trị. Được hơn 1 năm, một hôm Phật Tử cùng con trai là Nhã Lang bàn mưu kế rằng:

  • Ta xem Việt Vương quân thắng nước mạnh, phần nhiều là có thuật lạ. Hắn có con gái là Cảo Nương cùng lứa tuổi với con. Chi bằng ta đưa thư cầu hôn con gái vua, sai con ở rể, xem ý ra sao. Sau ta thừa cơ bất ngờ dẫn quân đến đánh, chắc không phải khó nhọc mà thống nhất thiên hạ vậy.

Bàn rồi sai sứ giả đem thư cầu hôn sự với Vua. Vua bèn thu nạp. Phật Tử chọn ngày lành đem đồ sính lễ và Nhã Lang đến. Vua bèn lưu Nhã Lang tại nước nhà. Vương rất hài lòng, khen Nhã Lang là con rể tốt. Tình vợ chồng của hai con ngày càng mật thiết. Nhã Lang dụ được Cảo Nương lấy trộm được móng rồng, trở về trình với Phật Tử. Phật Tử tức thì đem quân đến đánh. Vua dở móng rồng thấy bị mất, bèn lên ngựa chạy thẳng đến cửa biển Đại Nha, Vua quay lại thấy quân Lý đuổi gấp. Vua thấy tình thế khó thoát bèn nhảy xuống biển mà hóa. Sau ngày hóa rất có anh linh. Nhân dân địa phương (tức cửa Đại Nha, nay thuộc xã Lục Bộ) lập đền thờ phụng, lấy đó làm đền chính.

Từ ngày Vương hóa, nhân dân xã Quần Lãng sinh ra tật dịch, súc sản bất an. Nhân dân lo lắng, xem xét lập đàn kỳ đảo. Đêm hôm ấy mộng thấy Triệu Việt Vương cùng với Quý Minh Đại vương hội du ở nơi đền. Triệu Vương gọi nhân dân, bảo rằng:

  • Nay ta đã hóa. Ta phụng mệnh Thiên đình là Chúa tể nơi đây. Dân chúng hãy viết thần hiệu là Triệu Việt Vương Hoàng Đế để phụng thờ.

Nói đoạn, nhân dân bỗng nghe một tiếng trống đồng lảnh tai, phút chốc tỉnh giấc. Sáng ngày nhân dân tụ họp ở nhà hội quán, nghe nói lại mộng triệu, thấy có lý, lấy làm sợ hãi. Tức thì trùng tu cung điện, viết thần hiệu phụng thờ. Từ đó về sau nhân dân khang thái, súc sản bình an. Hai vị Đại vương có nhiều linh ứng.

Lại nói, Phật Tử được nước, xưng là vua Hậu Lý. Chưa bao lâu sau nội thuộc nhà Tùy. Đến đời Đường sai Cao Biền làm quan đô hộ nước ta. Lúc đó có giặc Nam Chiếu khởi binh ở cửa bể Nam Hải. Biền phải thân chinh đi đánh. Một hôm Biền tiến quân qua xã Quần Lãng, bèn vào làm lễ kỳ đảo ở đền thờ hai vị Đại vương, khấn rằng:

  • Nhờ được âm phù hộ quốc, chờ ngày thanh bình sẽ có gia phong sắc chỉ để biểu lộ sự anh linh.

Khấn xong cất quân tiến thẳng, đánh một trận lớn, bình được giặc Nam Chiếu. Biền hồi binh khải hoàn, nhớ lại khi ở đạo Sơn Nam xã Quần Lãng hai vị Đại vương quả nhiên có công hộ quốc. Bèn tặng phong sắc chỉ, sai quan mang sắc về bày tế. Lại ban cho nhân dân ngân tiền 60 quan, truyền cho nhân dân mở rộng cung điện để phụng thờ.

Từ đấy về sau rất có anh linh, khấn tạnh, cầu mưa đều có linh nghiệm. Cho nên nối đời đế vương gia phong sắc chỉ và mỹ tự, vạn đời tế lễ, muôn năm hương khói. Sự tồn tại cùng với trời đất lâu dài, công đức ngày càng to lớn vậy. Đẹp đẽ thay!

Nhất tôn phong Hoàng đế Triệu Việt Vương,

Nhất phong Tản Viên Sơn Đệ tam vị Hữu kiên thần Đô đài Đại phu Quý Minh Đại vương.

Chuẩn y cho đạo Sơn Nam phủ Thiên Trường huyện Tây Chân xã Quần Lãng phụng thờ.

Những điều lệ thần sinh, hóa, lễ khánh hạ, cũng  những chữ kiêng kỵ vâng kê như sau:

Ngày sinh thần vào mùng 6 tháng 3 (lễ vật dâng: trên cỗ chay, dưới xôi, lợn. Ngày chính tế dùng trâu, đánh cờ, hát xướng một ngày).

Ngày hóa thần là 14 tháng 8 (lễ vật dùng như ngày sinh thần).

Lễ Khánh hạ ngày 10 tháng 4 (Lễ vật dùng: trên tiến cỗ chay, dưới dùng xôi, lợn, rượu. Ngày chính dùng trâu, ca hát năm ngày thì dừng).

Kiêng kỵ chữ húy hai chữ: Túc, Phục đều cấm.

Triều vua Vĩnh Hựu năm thứ 2 tháng Giêng ngày lành chức Quản giám Bách thần Tri điện Hùng lĩnh Thiếu khanh, thần, Nguyễn Hiền, tuân y bản cũ của triều trước sao chép.

Hai vị nữ chủ của người Việt cổ

Nếu không kể đến những vị mẫu chủ thời kỳ huyền thoại như mẫu Tây Thiên, mẫu Thần Long Động Đình, mẫu Âu Cơ, mẫu Ma Thị Cao Sơn thì sử Việt còn kể đến những vị nữ thủ lĩnh thiên hạ khác, với công tích, sự nghiệp cũng rất hiển hách, không kém gì các vị đế vương.

Ân Hậu Ma Cô Tiên

Vị nữ thủ lĩnh rất cổ được biết là từ thời nhà Ân. Truyện Giếng Việt trong Lĩnh Nam chích quái kể thời Tần, Thôi Vĩ ở chân núi Trâu Sơn đã đến Ân Vương thành, được Ân Hậu tiếp đãi, rồi được Ma Cô Tiên ban cho phúc lộc ra về. Ma Cô Tiên đã trở thành vị phúc thần, thọ thần phổ biến trong văn hóa truyền thống, thường được thể hiện trong bức vẽ Ma Cô hiến thọ.

Ở chùa Ma Cô Tiên tại thôn Châu Cầu, xã Châu Phong, Quế Võ, Bắc Ninh còn có tấm bia Thánh Tổ Cô Tiên tự bi ký, cho biết Ma Cô Tiên được tôn xưng là Thánh tổ tại đây. Sắc phong của làng Châu Cầu gọi bà là  Thiên tiên Thánh mẫu Đệ nhất Cửu trùng Công chúa.

Ân Hậu Ma Cô Tiên cũng chính là Bạch Kê tinh trong truyền thuyết ở chân núi Ma Lôi (núi Sái, Đông Anh) khi An Dương Vương xây thành Cổ Loa. Mẫu Bạch Kê còn được thờ trên núi Thất Diệu (Yên Phong, Bắc Ninh) gần đó với sự tích là một công chúa con vua Hùng. Cũng ở vùng này còn có sự tích các Cô tiên đã giúp An Dương Vương xây thành Cổ Loa nhưng không thành.

Câu đối ở đền mẫu Bạch Kê:

Hồng Lạc di phong trang thể thế
Tiên Long dư duệ khải hồng cơ.

Nghĩa là:

Hình thể trang nghiêm, di dấu từ Hồng Lạc
Cơ đồ to lớn, dòng dõi vốn Tiên Rồng.

Ma Cô Tiên còn hiển linh dưới thời Hai Bà Trưng, giúp các vị nữ tướng của Trưng Vương. Như ở Bồng Mạc, Liên Mạc, Mê Linh bà đã tặng cho các tướng Ả Nang, Ả Nương chiếc áo tảng hình để chống giặc. Trong các sự tích này bà được gọi là Ma Bà.

Ma Bà ở Phùng Dị, Quế Võ, Bắc Ninh.
Thánh Tổ Cô Tiên tự bi ký ở chùa Châu Cầu, Châu Phong, Quế Võ, Bắc Ninh.

Nhự Nương Trình Thị Hoàng Hậu

Vị nữ chủ công nghiệp hiển hách khác là bà Trình Thị Hoàng Hậu, vợ của vua Triệu Đà. Văn tế ở đền Đồng Sâm (Kiến Xương, Thái Bình) ca ngợi:

Huy nguyệt phủ nhi hùng, kiêm thất quận đế thuỷ Viêm bang
Hoành ngọc thoa nhi nghi, biểu lục cung mẫu nghi thiên hạ.

Dịch nghĩa:

Vung búa nguyệt hào hùng, gồm thâu bảy quận, là Đế mở Viêm bang
Nâng thoa ngọc uy nghi, biểu chính sáu cung, là Mẫu nghi thiên hạ.

Ở Đồng Sâm có lễ tục hát ca trù là lễ Chầu Cử vào ngày giỗ của Triệu Vũ Hoàng Đế. Tư liệu của đền Đồng Sâm còn lưu lại được 8 bài ca trù chầu thánh và có một bài văn tế tổ nghề ca công. Những tư liệu này đã được đưa vào hồ sơ công nhận của UNESCO cho Ca trù là di sản văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp năm 2009.

Lời một bài ca trù ở Đồng Sâm ca ngợi Triệu Vũ Hoàng Đế và Trình Thị Hoàng Hậu:

Cơ khai thất quận, quy mô không thị Hạng Tần
Biểu chính lục cung, nghi phạm viễn đồng Cơ Tự.

Nghĩa là:

Bảy quận mở nền, quy mô không thua Tần Hạng
Sáu cung chính tỏ, khuôn phép sâu như Tự Cơ.

Trình Thị Hoàng Hậu còn được thờ ở làng Nhự Nương (Trực Ninh, Nam Định). Theo thần tích Nhự Nương tại đây bà đã xây dựng căn cứ kháng chiến,  tích trữ quân lương, chiêu dụ anh hùng để chống giặc. Bà cũng đã từng thoát vòng vây của kẻ thù ở khu vực này mà về với Triệu Vương.

Câu đối ở đền Nhự Nương:

Thục thận khuê nghi, thất quận sơn hà tư nội trị
Thanh cao miếu mạo, thiên thu hương hỏa hiển anh linh.

Dịch nghĩa:

Vẻ ngọc thục hiền, non sông bảy quận riêng nội trị
Miếu mạo cao sáng, hương lửa nghìn thu tỏ anh linh.

Tên Nhự Nương còn trùng với tên vị Vua bà Nhữ Nương là Thủy tổ Quan họ ở làng Diềm (xã Hòa Long, huyện Yên Phong, Bắc Ninh). Vua bà có tên phong là: Đương cảnh thành hoàng Thiên tử Nhữ Nương nam nữ Nam Hải Đại Vương. Tên Nam Hải Đại vương, cũng trùng với tên hiệu thờ của Triệu Vũ Đế ở Đồng Sâm, là Nam Hải Tôn ninh Triệu Đại vương. Cụm tên “Thiên tử … nam nữ” tương ứng chỉ rằng đây là cặp vợ chồng làm vua Triệu Vũ Đế và Trình Thị Hoàng Hậu.

Cùng làng Diềm có ngôi đình nổi tiếng có bức cửa võng chạm khắc tinh xảo. Làng Diềm thờ 5 vị thành hoàng là Đô Thống, Giáp Ngọ, Nhữ Nương Nam Hải, thánh Tam Giang (Trương Hống) và Ngũ Vị. Theo ghi chép tại đây thì thánh Tam Giang Trương Hống là vị tướng có công theo Triệu Việt Vương đánh giặc. Thần Nam Hải là một nữ thần đã báo mộng âm phù cho thánh Tam Giang dẹp giặc. Như vậy mối liên hệ về thời gian giữa Vua bà Nhữ Nương Nam Hải với nhà Triệu rất rõ. Có thể nhận định rằng Vua bà Thủy tổ Quan họ Nhữ Nương Nam Hải cũng chính là Trình Thị Hoàng Hậu, người được coi là tổ nghề ca công ở Đồng Sâm.

Cùng với nhận định Triệu Vũ Đế là Hiếu Cao Tổ Lưu Bang thì Trình Thị Hoàng Hậu chính là Lữ Hậu. Trình Thị thiết Trĩ, là tên cúng cơm của bà Lữ Hậu. Lữ Hậu mới là người đã “biểu chính lục cung”, mở đầu các nghi lễ tam cung lục viện từ thời nhà Hiếu (Tây Hán).

Cái tên Nhữ Nương hay Nhự Nương khi đọc phản thiết cho chữ Nữ hay Lữ, là chỉ họ của Lữ Hậu. Nhự Nương Trình Thị do đó tương đương với Lữ Trĩ, không ai khác chính là Hoàng Hậu họ Lữ của nhà Hiếu.

Lữ Hậu còn là bậc “tiền bối” của Ả Lã, tức Trưng Vương vào thời sau này. Truyền thống “nữ trung hào kiệt” của người Việt đã có từ thời trước Công nguyên.

Việc tôn thờ các vị nữ chủ là một truyền thống lâu đời của người Việt và trong sử Việt đã không ít lần xuất hiện những vị nữ chủ hiển hách. Đây hoàn toàn chẳng phải chế độ “mẫu hệ” gì. Đơn giản là thời thế tạo anh hùng, các nữ anh hùng cũng không ngoại lệ. Thiên hạ chuyển mình, xã hội phát triển qua những cuộc “cách mạng”. Vai trò của các nữ chủ nổi lên vào thời thế đó, ngược lại, cho thấy sự tiến triển vượt bậc của xã hội Việt thời cổ.

Tượng Trình Thị Hoàng Hậu ở đền Đồng Sâm, Kiến Xương, Thái Bình.
Một trang chép bài ca trù ở đền Đồng Sâm

Thần tích Ma Cô Tiên ở Châu Sơn

Dịch theo bản khai thần tích thần sắc của làng Phùng Gị, tổng Phù Lương, huyện Quế Dương, tỉnh Bắc Ninh.

Lại nói, tương truyền rằng ở Kinh Bắc có bộ Vũ Ninh, phủ Từ Sơn, huyện Vũ Ninh, xã Bằng Dực. Thời Hùng Vương, Ân Vương đem quân đến xâm chiếm nước Văn Lang, đến đất của trang này thấy cảnh đất núi non la liệt, hình như một con ngựa ngọc, nên đặt tên là Châu Sơn. Ân Vương trú binh tại đó.

Khi ấy Hùng Vương nghe tin, liền cầu đảo Long Quân. Long Quân hóa thành Phù Đổng Đại vương cưỡi ngựa sắt mà phá được quân Ân. Ân Vương chết ở dưới chân núi, làm vua Địa phủ. Trang dân ở châu đó lập miếu phụng thờ, thời thường tế lễ. Lâu ngày miếu suy trở thành hoang phế. Đến thời Tần có người bản trang nước ta là Túc Đặng làm quan nhà Tần đến chức Ngự sử Đại phu, thường qua miếu này, thấy cảnh hoang tàn, chạnh lòng thương cảm, cho tu sửa lại đền miếu để giữ việc tế tự. Lệnh cho dân bản trang tuân theo như trước mà thờ. Nhân đó ông Đặng dâng tế một bài thơ như sau:

Người xưa kể lại chuyện Ân vương

Tuần thú năm nao đến địa phương

Nước biếc núi xanh quanh miếu vắng

Hồn đi dấu để vẫn nghe hương

Một phen thắng bại Ân đức hết

Vạn thế uy linh trấn Việt Thường

Trăm họ rồi đây đều phụng sự

Phù trì vận nước vững vô cương.

Sau này có người Triệu Đà dẫn quân trị nước An Nam, đóng quân ở tại núi, đến nơi miếu mà nghiêm trang thờ tự. Khi đó Ân Vương cảm ơn phục trợ uy linh của ông Túc Đặng bèn sai một đệ nhất mỹ nữ tên là Ma Cô Tiên, giáng sinh vào ngày mùng 6 tháng Giêng năm Mậu Thìn, đến ngày mùng 10 tháng 10 thì thăng hóa, để giúp tương trợ dân nghèo, khai khẩn ruộng vườn, dựng nên một cái chợ. Cái chợ này có tên là Việt, nay là chợ Nghè. Giúp dân an nghiệp, dư giả. Một hôm người bản trang bỗng thấy trên mặt đất mưa to gió lớn nổi lên, sấm nổ chấn động, biết là ngài đã có linh ứng. Người dân cảm công đức đó bèn lập đền phụng thờ, hương khói không ngừng.

Đến triều Lê Đại Hành niên hiệu Thiên Phúc bỗng có quân Tống Quách Kiếm dẫn quân đến xâm lăng. Vua Lê nghe tin, trước khi xuất quân đến đền thiêng ở bản trang cầu đảo, cầu mong được sự ứng hiện. Vua Lê dẫn quân thẳng tới đồn giặc mà đánh. Trước trận bỗng thấy mưa to gió lớn nổi lên. Quân giặc đều kinh sợ, tự phải rút lui. Vua bèn ban cho khải hoàn, ban cho trang thuộc vào các trang giúp Vua, lại  ban thêm cho người bản trang một trăm quan tiền để lo cúng tế Quân phu, bao phong mỹ tự là Thượng đẳng phúc thần. Vạn cổ hưởng thần cùng với quốc gia an nhàn, mãi là lệ thức. Thịnh sao!