Hội Thống Thượng thượng thượng đẳng thần

Tại xã Nghi Trung, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An từng có một ngôi đền lớn nằm trên con đường thiên lý Bắc Nam, gọi là đền Hội. Theo ghi chép trong cuốn Địa chí Nghi Lộc (2014) thì:

Đền Hội: ở xóm Hoàng Xá, xã Cẩm Trường cũ, bên cạnh quốc lộ 1A có 3 toàn, tòa trong (gọi là thượng điện) 3 gian đặt ngai thần, cao 2 m, rộng 1m. Tòa giữa (trung điện) 3 gian đặt 8 tượng (ông phỗng bằng gỗ, quì hai bên). Tòa ngoài (hạ điện) 5 gian 2 hồi, là nơi hội họp, tế tự. Trước có cổng tam quan 3 gian (1 chính, 2 phụ). Tượng 2 voi đá nằm trong hai gian phụ, hai tường bên có tượng hai ông tướng đứng hầu. Phía trước có hai cây gạo cổ thụ. Toàn bộ cột kèo oai bẩy của đền bằng gỗ lim. Mái lợp ngói mũi hài, trên nóc có hình lưỡng long chầu nguyệt. Phía ngoài có hai bia đá.
Đền Hội thờ vị tướng người Tàu có sắc phong là: Thống chế Nam Thiên Mạch Sơn Trấn quốc lịch đại gia phong Thượng thượng thượng đẳng tôn thần.
Hiện nay đền đã bị phá, chỉ còn hai bia đá
.
Đền Thánh: Thờ Khổng Tử cách đền Hội 300 m về phía Nam có 2 tòa. Phía trước có một bia đá, đền này đã bị phá, bia đá vẫn còn...
Đại tế ở đền Hội (gọi là tế Kỳ Yên) hàng năm vào các ngày 17-18-19 tháng Giêng, các thôn rước thần ở thôn mình về hội tế ở đền Hội. Ngày 17 rước ông chủ tế về đền, ngày 18 rước thần các thôn về đền, ngày 19 đại lễ. Ngày tế lễ, có đội bát âm (đội nhạc gồm 8 người). Đêm diễn tuồng chèo…

Di tích đền Hội (ở xóm Hoàng Xá) thờ “Thống chế Nam Thiên Mạch Sơn trấn quốc, lịch đại gia phong Thượng Thượng Thượng đẳng tối linh tôn thần” cũng được Ninh Viết Giao nhắc đến trong cuốn Tục thờ thần và thần tích Nghệ An. Tác giả cho biết đền này nhiều làng trong tổng Kim Nguyên cũng phụng tự và làng Kim Chi ở xã Nghi Liên có đến Kim Cẩm cũng thờ Mạch Sơn Trấn quốc Thượng đẳng thần (thờ vọng thần ở đền Hội thuộc xã Nghi Trung).

Vị Thống chế Nam Thiên Mạch Sơn trấn quốc là ai mà được lịch đại gia phong Thượng Thượng Thượng đẳng tối linh tôn thần? Chắc chắn đây không phải “người Tàu” như Địa chí Nghi Lộc chép. Với mức độ gia phong 3 lần Thượng Thượng Thượng đẳng tối linh thì đây phải là một vị thần rất cổ. Cách bài trí trong đền với ngai thần rất lớn (cao 2 m, rộng 1 m), 8 vị phỗng chầu cũng nói lên điều này. Tam quan đền 3 gian, có 2 voi đá và 2 tướng đứng hầu. Đặc biệt có 2 cây gạo cổ thụ, nằm ngay trên con đường thiên lý Nam Bắc đi qua Quán Hành, xưa kia chắc chắn là một điểm dừng quan trọng của tuyến đường này. Hai cây gạo gợi ý về tục thờ các vị thủy thần thời Hùng Vương, như ở nhiều nơi trên miền Bắc.

Đền Hội nằm cách cửa Hội, cửa sông Lam đổ ra biển giữa hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh, chỉ có khoảng hơn 10km. Cửa Hội là một mạch nguồn quan trọng được nhắc tới trong Hùng Vương Thánh Tổ Ngọc phả:
Xưa Kinh Dương Vương vào ngày mùng 5 tháng Hai năm Nhâm Tuất vâng lệnh đem các tướng dời đến Nam Miên, trấn giữ và cai trị đất nước. Trên đường Vua ngắm xem phong thủy, chọn nơi hình thế thắng địa có đại cuộc chân long quý mạch để lập đô ấp, trấn trị thiên hạ. Qua Hoan Châu vua ngắm xem hình thế, thấy được một vùng có quý cuộc phong cảnh tươi đẹp như lâu đài muôn nhẫn, tên là núi Hùng Thứu Lĩnh, tất cả có 199 núi, xưa gọi là Cựu Đô, nay là Ngàn Hống. Vùng đất này non biển đúc linh, núi sông khe hồ hội chầu, tụ họp ở ven biển tại xã Hội Thống. Ở cửa Hội Thống núi chạy quan co, sông chảy cuốn khúc, địa thế rồng cuộn hổ ngồi, bốn hướng cùng trông. Vua bèn xây dựng đô thành cung điện lâu đài cửa ngọc, làm nơi cho bốn phương triều cống.

Cũng tại cửa Hội Thống Kinh Dương Vương đã lạc thuyền rồng đến xứ hồ Động Đình và gặp được Tiên nữ Thần Long, kết duyên mà sinh ra Lạc Long Quân.

Kinh Dương Vương có tên là Lộc Tục, hay Lạc tộc, được vua cha Đế Minh mệnh cho cai quản (thống chế) phương Nam nên được gọi là Nam Thiên Thánh Tổ. Kinh Dương Vương cũng là Lạc Thị và cũng chính là Tản Viên Sơn Thánh. Đền Hội nằm gần cửa Hội Thống thờ Thống chế Nam Thiên Mạch Sơn Trấn quốc thì rõ ràng đây chính là vị thần của cửa Hội Thống, tức là Kinh Dương Vương. Chữ Mạch có thể là đọc khác của chữ Lạc. Nam Thiên Lạc Sơn trấn quốc không còn ai khác là Nam Thiên Thánh Tổ Lạc thị Tản Viên Sơn.

Đây là phát hiện quan trọng, cho thấy Kinh Dương Vương khi đóng đô ở vùng Cựu Đô ở Nghệ Tĩnh xưa được gọi là Thống chế Nam Thiên Mạch Sơn Trấn quốc và được thờ tới nay ở khu vực cửa Hội (Nghi Trung, Nghi Liên, xưa là tổng Kim Nguyên). Dấu vết thời đại Hùng Vương ở Nghệ Tĩnh như vậy còn rất đậm nét, từ tục thờ Tam Lang Long Vương (Lạc Long Quân), Thống Chế Nam Thiên Mạch Sơn, hay thậm chí cả Âu Cơ như ở xã Nghi Khánh, Nghi Lộc. Chưa kể đến các vị thần Cao Sơn Cao Các cũng có thể là các vua Hùng thờ rất phổ biến ở vùng này.

Hiện tại Viện NC Hán Nôm còn lưu được bản khai thần sắc của tổng Kim Nguyên, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An số hiệu AD.b1/15, trong đó có sắc phong thời Lê cho Mạch Sơn… Đại vương. Còn trong nguồn của Viện thông tin Khoa học xã hội có bản khai thần tích thần sắc làng Kim Cẩm, tổng Kim Nguyên, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An ký hiệu TTTS007418/19 gồm 3 trang tiếng Pháp cho vị thần Mạch Sơn Trấn quốc. Đền Kim Cẩm nay thuộc xã Nghi Liên như trên.

Hiện tại ở xã Nghi Trung, đền Hội Thống đã bị phá. Ở vị trí đền xưa nay là trạm xăng dầu, chỉ còn lưu lại 2 tấm bia đá và một số đá kê chân cột xưa. Tấm bia lớn còn nguyên vẹn có tiêu đề “Trùng tu Chân Lộc huyện từ vũ bi ký” (Bia ghi chép về việc trùng tu từ vũ huyện Chân Lộc”). Bia này có được giới thiệu và dịch (theo bản viết tay lưu giữ tại Thư viện Nghệ An) trong cuốn Văn bia Nghệ An (2004), nội dung nói việc dời Từ vũ từ ấp Hùng Quần đến thôn Kỳ Cẩm, ca ngợi đất ấy. Bia ghi Thiệu Trị năm thứ hai Nhâm Dần (1842).

Tấm bia nhỏ hơn ở đây đã bị vở, chỉ còn lại một nửa. Đối chiếu theo sách Văn bia Nghệ An thì đây là bia ghi việc dời và làm văn từ huyện Nghị Lộc: Văn từ Nghi Lộc trước ở thôn Kỳ Cẩm thuộc xã Nghi Liên, nay dời đến khu Ba xã, tức ở Quán Hội, thuộc xã Nghi Trung bây giờ. Bia làm năm Đồng Khánh thứ ba (1888).

Như vậy cả 2 tấm bia còn lại đều là bia của văn từ. Một bia ghi văn từ chuyển từ ấp Hùng Quần đến Kỳ Cẩm (Nghi Liên), bia sau đó ghi lại chuyển từ Kỳ Cẩm đến đến Quán Hội xã Nghi Trung. Còn bia của đền Hội được nhắc đến trong Địa chí Nghi Lộc thì chưa rõ ở đâu.

Xã Nghi Trung là nơi có nhà thờ họ Nguyễn Đức, một dòng họ văn học nổi tiếng với các danh nhân như nhà phê bình văn học Hoài Thanh. Nhà thờ họ Nguyễn Đức nằm ngay gần đền Hội xưa, cùng xóm Hoàng Xá, nay đã được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh.

Đền Hội ở Nghi Lộc thực chất là đền thờ thần cửa Hội Thống, là Nam Thiên Thánh Tổ Kinh Dương Vương, gặp Động Đình Long Nữ tại vùng cửa biển này. Đền vốn là nơi làm đại lễ Kỳ Yên của cả tổng Kim Nguyên xưa, nay gồm khu vực xã Nghi Trung và Nghi Liên, hàng năm vào tháng Giêng. Đền cũng từng là nơi có văn từ của huyện Nghi Lộc, nơi cúng bái các bậc tiên hiền, nho sĩ đỗ đạt của cả huyện. Rất cần thiết khôi phục lại ngôi đền cổ của vùng này và tục thờ Thống Chế Nam Thiên – Kinh Dương Vương tại đây.

Hai tấm bia còn lại ở Quán Hội xưa
Đá kê chân cột của khu vực đền Hội
Hoa Gạo trên đất Nghệ An
Nhà thờ họ Nguyễn Đức ở xóm Hoàng Xá, Nghi Trung, Nghi Lộc, Nghệ An.

2 chuyện cần bàn thêm

Sau bài viết của tác giả Văn Nhân Nguyễn Quang Nhật “Sử Việt, 2 chuyện cần bàn“, xin góp bàn thêm về giai đoạn đặc biệt phức tạp nhưng cũng hết sức hào hùng này trong lịch sử nước Nam người Việt.

1. Chuyện số 1:

Lý Nam Việt Đế là Triệu Vũ Đế, cũng là Cao Tổ Lưu Bang. Tuy nhiên, còn người làm vua Nam Việt tiếp theo Lưu Bang thì cần xem thêm. Theo Sử ký Tư Mã Thiên, vị này:

– Ngay khi nhà Tần diệt vong đã tự xưng là Nam Việt Vũ Vương.
– Sau đó mấy năm được Lưu Bang cử Lục Giả mang phẫu phù đến sắc phong Vương chính thức.
– Khi Lữ Hậu mất thì xưng Đế, thuần phục Tây Âu và Mân Việt.

Xét theo truyền thuyết Việt, người được Lý Nam Đế trao lại quyền nước Nam, tự xưng Dạ Trạch Vương rồi xưng Hoàng đế phải là Triệu Quang Phục. Theo thần tích Hạ Mạo thì Quang Phục là dòng dõi Hùng Vương, cháu ngoại của Đông Chu Quân, được vua ban cho họ Lê, khởi nghĩa cùng Triệu Vũ Đế và được gả con gái là Triệu Hậu cho. Vì thế Quang Phục khi xưng Đế đã lấy tên triều đại của mình theo Triệu Cao Tổ Lưu Bang.

Đoạn văn tế độ Triệu Vũ Đế ở Đồng Sâm: 

Công tham lưỡng đại,
Uy nhiếp bách Man.
Thuỷ đế khai thất quận chi đồ, Hán hùng tịnh thế,
Mẫu nghi chính lục cung chi biểu, Chu hậu đồng ban. 

Người kế tục Lưu Bang – Lý Bôn ở Nam Việt là Triệu Quang Phục, xưng là Triệu Văn Đế. Đôi búa sắt lưu ở đền Đồng Xâm tương truyền là do nhà Hán, tức do Lưu Bang, đã trao cho Triệu Việt Vương. Phải chăng đây là khi Lưu Bang nhập Quan Trung nhà Tần, để lại binh quyền Nam Việt cho Triệu Việt Vương?

2. Chuyện số 2:

Khu Liên là Triệu Quốc Đạt – Đô Dương, người đã nối tiếp cuộc khởi nghĩa Khăn Vàng của bà Trưng – bà Triệu cuối thời Đông Hán. Thêm nữa, khi khảo sát các di tích và sự tích về Lý Nam Đế ở nước ta đã phát hiện có 2 vị vua đều được được gọi là Lý Nam Đế. Vị thứ nhất ở vùng Thái Bình, Long Hưng dựng nghiệp là Triệu Vũ Đế – Lưu Bang như đã nêu ở chuyện thứ 1. 

Vị thứ hai ở vùng Sơn Tây (quận Nhật Nam), từ nhỏ nuôi chí lớn ở trong chùa, khởi nghĩa lập ra nước Lâm Ấp. Khu Liên do đó là Lý Nam Đế thứ 2, vị vua đã “thác thủy” Lâm Ấp địa. Sau khi Khu Liên mất, đã giao lại quyền bính cho một người bên họ ngoại là Hữu tướng Phạm Tu, tức Sĩ Nhiếp. Phạm Tu là người có công bình định đất phương Nam – Lâm Ấp (miền Trung bộ), giao cho một người con là Phạm Hùng cai quản. Sĩ Nhiếp Phạm Tu duy trì chế độ tự trị kéo dài 40 năm đối với nhà Đông Hán rồi Đông Ngô.

Còn phần phía Tây Bắc Việt do người anh của Khu Liên là Đào Lang Vương Lý Thiên Bảo cầm quân. Lý Thiên Bảo mất, con là Lý Phật Tử lên thay. Dòng họ Lý ở vùng đất quận Nhật Nam xưa được sử Việt gọi là Nam Triệu (Nam Chiếu). Còn Hoa sử gọi là Tây Nam Man Mạnh Hoạch. Mạnh Hoạch và Sĩ Nhiếp chia đôi nước Lâm Ấp của Khu Liên thành 2 phần Đông Tây, lấy bãi Quân Thần ở Thượng Cát làm ranh giới. Đây cũng là ranh giới 2 quận Giao Chỉ và Nhật Nam từ thời Tây Hán.

Các di tích ở vùng Sơn Tây thờ Lý Nam Đế như ở Giang Xá (Hoài Đức) chính là nơi khởi nghĩa của Lý Khu Liên. Câu chuyện về 2 vị vua Lý Nam Đế này nay đã lẫn lộn vào nhau, nên trong sự tích mỗi nơi đều thấp thoáng chuyện của cả 2 vị ở 2 thời kỳ khác nhau.

Câu đối ở Giang Xá:

Thiên Đức hồng cơ long đỉnh Bắc
Vạn Xuân cung khuyết phượng thành Đông.
 

Tướng Ông trong hội cờ người lễ hội Giang Xá.

Y Sơn linh tích Hùng Ninh Vương

Khu vực Hiệp Hòa, Bắc Giang có di tích thờ một thần tướng đánh giặc Ân là Hùng Linh Công. Cụm di tích thờ Hùng Linh Công nằm quanh núi Y Sơn (Hòa Sơn) tại đây. Theo truyền thuyết và các tài liệu thư tịch cổ thì: vào thời kỳ Hùng Vương thứ 6 có quan trị sự xứ Kinh Bắc tên là Hùng Nhạc dòng dõi Hùng Vương. Ông đã ngoài 60 tuổi, bà ngoài 40 tuổi mà vẫn chưa có con trai. Nhân ngày đầu xuân, ông bà đi thăm Châu Lạng và vãng cảnh trên dòng sông Như Nguyệt (sông Cầu ngày nay), qua vùng núi Ia thì trời sẩm tối. Ông bà đã vào chùa Ia (Y Sơn Tây Tự) nghỉ trọ lễ phật cầu phúc. Đêm ấy xảy ra thần mộng: “Thiên thần thị ngã ứng hoài thai”.

Sau đó, quan bà Cao Tiên phu nhân mang thai sinh ra một người con trai vào ngày 12 tháng 10 năm Đinh Hợi, đặt tên là Hùng Linh Công. Hùng Linh Công khôi ngô tuấn tú, năm 17 tuổi văn võ song toàn. Đức vua nghe tin đã triệu về Kinh đô để thi kén hiền tài. Hùng Linh Công tỏ ra xuất sắc.

Khi có giặc lang thú, hổ, báo phá hoại dân lành, Đức vua sai Hùng Linh Công cầm quân đi dẹp. Người đã dẹp yên và bắt những con mãnh thú đầu đàn mang về nuôi thuần hóa để sử dụng.

Khi giặc Ân xâm lược nước ta, Đức vua giao cho Hùng Linh Công ba vạn quân và phong chức Nhạc phủ thống lĩnh tướng quân cầm quân dẹp giặc cùng Đức Thánh Gióng. Sau khi đánh tan quân giặc, đất nước thanh bình, Hùng Linh Công trở lại vùng núi Ia, thấy phong cảnh non xanh nước biếc, sơn thủy hữu tình, Người đã đóng bản doanh tại đây và hiển thánh vào ngày mùng 8 tháng 8 Âm lịch.

Hôm ấy đang trời quang mây tạnh, bỗng mây đen kéo đến, mưa gió, sấm chớp nổi lên và có 3 tiếng sét trên đỉnh núi, dân chúng thấy một người mình mặc giáp trụ, tay cầm thanh kim đao cưỡi con hổ đen bay lên trời. Sau đó, Hùng Linh Công biến mất. Tạnh mưa, dân làng lên đỉnh núi thấy cây trầm cổ thụ trên đỉnh núi héo khô, dân làng thấy làm điềm lạ đã mang cây tạc tượng Hùng Linh Công, lập đền phụng thờ để bày tỏ lòng thành kính nhớ ơn.

Sau khi Phụ thân và Mẫu thân Hùng Linh Công từ trần, Đức vua cảm kính trước câu chuyện thần mộng và công lao của Người đối với dân, với nước nên đã cho dân làng thờ hai ông bà Hùng Nhạc tại Hậu đường chùa Ia (Y Sơn Tây Tự) và phụng thờ Hùng Linh Công tại đền Ia.

Hùng Linh Công là vị tướng đánh giặc Ân có tục lệ thờ lớn và linh thiêng nhất sau Phù Đổng Thiên Vương. Một đoạn trong bộ câu trường đối ở đền Ia (Y Sơn linh từ): “Đương dữ Sóc phong liệt tướng thành sở vị, giang Nam nhất nhân giang Bắc nhất nhân”. Dịch là: “Cùng với núi Sóc các tướng nổi danh rằng: một người ở phía Nam sông, một người phía Bắc sông”

Nhưng nếu Thánh Dóng xuất phát là một đứa trẻ ở làng Phù Đổng thì Hùng Linh Công lại là dòng dõi họ Hùng chính thống, cầm đầu quân đội đánh giặc. Câu đối ở đền Ia:

雄派奇跡垂不朽
和峰遺像凜如生
Hùng phái kỳ tích thùy bất hủ
Hòa phong di tượng lẫm như sinh.
Dịch nghĩa:
Tích lạ dòng Hùng trùm bất hủ
Núi Hòa tượng mãi vẫn như sinh.

Nếu cuộc chiến của Hùng Vương thứ 6 đánh giặc Ân đã được xác định là cuộc chiến lập quốc của nhà Chu thì người con của vua Hùng đã cầm đầu quân đội miền núi đánh giặc Ân phải là Cơ Phát, con của Văn Vương Cơ Xương. Cơ Phát ban đầu có tên là Ninh Vương, rất có thể đây chính là dấu vết lưu lại trong cái tên Linh Công. Đất phong ban đầu của Cơ Phát có thể chính là vùng Bắc Ninh xưa, gọi là Vũ Ninh theo tên của Vũ Vương.

Trong quần thể di tích Y Sơn còn có ngôi chùa Y Sơn Tây tự nơi thờ cha và mẹ của thánh Hùng Linh Công. Trước chùa là đình “Phật tự xuân hội”, nơi diễn ra lễ hội Y Sơn. Trước sân chùa từng có một đôi Long mã, rất giống với đôi Long mã ở trước sân đền Thượng núi Sóc Vệ Linh. Lễ hội Y Sơn còn được biết đến trò diễn “tướng quản” đặc sắc, khi các tướng quản voi ngựa của thánh Hùng Linh Công đến làm lễ trước chùa.

Theo góc nhận định mới, Hùng Linh Công là Ninh Vương Cơ Phát thì cha và mẹ của thánh sẽ là Văn Vương Cơ Xương và bà Thái Tự Chu Hậu. Còn “Phật” ở thời Ân – Chu tất nhiên không phải là Phật Thích Ca, mà là Đạo sĩ Khương Tử Nha, được truyền thuyết Việt kể là Lão Phật giáng thế giúp vua Hùng nước Văn Lang. Trước khi ra trận đánh giặc Ân Vũ Vương Cơ Phát đã làm lễ trước vua cha và mẹ cùng với bái tướng Khương Tử Nha là Thượng phụ.

Cùng với Hùng Linh Công ở Hiệp Hòa còn thờ đức Vua Bà Mã Yên Sơn tại đình Bé dưới chân núi Hòa Sơn. Khi tế lễ Hùng Linh Công đồng thời cũng khấn tên Đức Vua Bà. Nếu Hùng Linh Công là Vũ Ninh Cơ Phát thì Vua Bà Mã Yên Sơn sẽ là bà Nghị Địch, người vợ của Vũ Vương. Bà Nghi Địch được thờ là tổ của nghề nấu rượu ở làng Vân, Việt Yên, cũng cùng đất Bắc Giang. Đây là một dẫn chứng khác cho thấy Vũ Ninh Cơ Phát từng dựng nghiệp ở vùng đất này.

Câu đối trong đền Ia nói về sự hiển hách của Hùng Linh Công:
平石奇功垂罔極
扶丁偉績永猶傳
Bình Thạch kỳ công thùy võng cực
Phù Đinh vĩ tích vĩnh do truyền.
Dịch nghĩa:
Dẹp Thạch kỳ công trùm khắp chốn
Trợ Đinh tích lớn mãi còn truyền.

“Bình Thạch” ở đây nói đến việc Hùng Linh Công đã dẹp được Thạch Linh Thần tướng, là tướng cầm đầu quân đội nhà Ân trong sự tích thời Hùng. Rất bất ngờ là cũng ở khu vực Bắc Giang tại vùng Việt Yên có di tích thờ Thạch Linh Thần tướng thời Hùng Vương. Đền Ia ở núi Y Sơn nằm ở đầu sông Cầu thì đền thờ Thạch Linh Thần tướng nằm ở phía dưới của dòng sông này.

Về các công trạng của Hùng Linh Công, ở đền Ia còn có câu đối:
青隴威加平虎患
月江波湧護龍舟
Thanh lũng uy gia bình hổ hoạn
Nguyệt giang ba dũng hộ long chu.
Dịch nghĩa:
Núi biếc thêm oai dẹp nạn hổ
Sóng dồn sông Nguyệt trợ thuyền rồng.

Ở đền Ia đặc biệt còn có dấu tích một phiến đá lớn với sự tích rằng Vua thủy tề đã cho người đội đá theo dòng sông mang đến đặt phiến đá gần cổng đền làm thành một cây cầu. Dưới gầm cầu bây giờ vẫn còn dấu vết hình đầu người và các đầu ngón tay của người đội đá. Cạnh cây cầu xưa còn có một ngôi miếu nhỏ thờ vị tướng là Quý Minh Đại vương. Phải hiểu dấu tích về phiến đá thần này như thế nào? Tại sao “vua thủy tề” lại phải cho đội đá đến tế thần Nhạc phủ (Hùng Linh Công là Nhạc phủ thống lĩnh tướng quân)?

Quý Minh Đại vương được biết là một vị thủy thần giúp vua Hùng đánh Thục. Trong chuyện này thì Quý Minh Đại vương là tướng bên phía nhà Ân (được gọi là Hùng Duệ Vương) chống lại quân nhà Chu (quân Thục) đến từ miền Tây rừng núi (Nhạc phủ).

Câu đối đền Ia cho phép lý giải hình tượng phiến đá của Vua thủy tề (Thủy thần Quý Minh) này. Vì Hùng Linh Công đã “bình Thạch” Linh Thần tướng của quân đội nhà Ân, nên quân nhà Ân (trong hình tượng thủy thần Quý Minh) đã đội phiến đá (Thạch Linh) ngược dòng sông Cầu (từ Việt Yên) lên đến Y Sơn để quy hàng Hùng Linh Công. Phiến đá của Vua thủy tề do đó cũng tương tự như hình tượng các nữ tướng Ân được đem đến đền làm lễ chém tướng trong lễ hội đền Sóc và đền Phù Đổng.

Như vậy, các di tích ở Bắc Giang, nơi chiến trường xưa giữa quân đội Chu Thục và Ân Thương nay là những nơi đất phong thần thờ tự các vị tướng lĩnh của cả 2 bên trong cuộc chiến khốc liệt phạt Thương lập Chu cách nay trên 3.000 năm. Vũ Vương Cơ Phát được thờ dưới tên Hùng Linh Công ở Hiệp Hòa, bái Lão Phật Khương Tử Nha làm tướng, tế bái cha Văn Vương và mẹ Thái Tự rồi đánh dẹp Thạch Linh Thần tướng ở Việt Yên, hàng phục tướng của nhà Thương là Quý Minh. Giò hoa tre – quả trám – bông lúa trong lễ hội Y Sơn như nhắc lại sự tích về một thời mở thế thái bình của nước Văn Lang xưa.

Tượng đức thánh Hùng Linh Công ở đền Ia
Đình “Phật tự xuân hội” trước chùa Ia
Hậu điện chùa Ia
Thạch Linh Thần tướng ở Việt Yên.
Phiến đá của vua thủy tề Quý Minh trước đền Ia
Hậu cung đình Bé Hòa Sơn
Hoa tre trong lễ hội Y Sơn

Việt Nam Lạc Thị – Những vị Lạc Vương ở Bắc Ninh

Ở khu vực huyện Thuận Thành và Gia Bình của tỉnh Bắc Ninh ven dòng sông sông Đuống có tín ngưỡng thờ các vị thần từ thời Hùng Vương mang tên là Việt Nam Lạc Thị. Những vị “họ Lạc” thủy tổ nước Việt Nam này là ai?

Thần tích về các vị Lạc Thị ở Bắc Ninh như sau (theo thần phả đình làng Nghi Khúc, Gia Bình):

Xưa Lạc Long Quân lấy nàng Âu Cơ sinh ra một bọc trăm trứng, nở thành trăm người con trai, dáng vẻ sinh đẹp, trí dũng kiêm toàn, người người đều nể phục. Năm mươi người con theo cha về biển, chia trị các xứ bờ biển. Năm mươi người con theo mẹ về núi chia trị núi rừng đất đai các xứ. Tôn con trưởng danh hiệu Hùng làm vua. Thứ làm Lang. Truyền 18 đời gọi là Hùng Vương. Tên nước là Văn Lang.
Tổ thờ ở Á Lữ. Tổ đi chu du thiên hạ, kiến xem hình thế. Một lần qua làng, thấy trước có 3 chẽ sông quanh co. Sau có 3 ngọn núi nhấp nhô đẹp đẽ. Sơn thủy hữu tình. Nhân đó dựng hành cung ở bờ sông, đặt tên là Nghi Giang cung. Chợt thấy 3 con rồng, mình dài vài trượng, lưng to mấy vòng. Trên đỉnh đầu có ấn vàng. Trong ấn nổi lên 2 chữ LẠC VƯƠNG. Lối lên ở ngã ba sông. Cá, tôm, rùa, ba ba đi theo. Sóng to gió dữ không thể kể xiết. Sau đó một đi chơi vùng Đại Đoan (nay là Đại Bái – Đoan Bái sông), một đi chơi sông Nghi Tuyền (nay là Nghi An sông), một đi chơi sông Bình An (nay là Bình Ngô – Yên Ngô sông).
Khoảnh chốc trở lại chỗ rồng nổi lên, vua thấy khác lạ, bèn ghi mật chúc rằng: “Đây là nơi rồng ẩn”. Về sau đời đời xa cách, vật đổi sao rời. Chỗ đó chỉ còn nền cung , tre lá, cây cỏ mọc lên thành bụi, rất lấy làm lạ. Sau hơn một trăm năm ở nơi sông này có một ngày mưa gió rất lớn, nghe như biển động chừng 1 canh giờ. Mây mưa chợt tạnh. Nhân dân nhìn thấy nền cung cũ gần nửa biến thành một đầm nước lớn, sâu bao nhiêu chẳng biết mà đo. Tục gọi là “Vực Thiêng”.
Dân bèn dựng miếu thờ. Gặp năm tai hạn, dân đốt hương khẩn cầu: Hoạn này hãy qua, yên tạnh như có nắng hạn được mưa, mùa màng tươi tốt. Nhân dân địa phương cảm kích vui mừng, nhân đó dựng đền thờ ở nơi cũ. Thờ cúng hàng năm.
Thủy thần ba vị tên chữ gọi là:
– Việt Nam Lạc Thị Đệ nhất Đại vương
– Việt Nam Lạc Thị Đệ nhị Đại vương
– Việt Nam Lạc Thị Đệ tam Đại vương.
Trải qua được các triều đại vua ban tặng. Hàng năm cứ đến tháng Hai ngày mùng 4, làng vào đám nhập tịch. Già trẻ nghi lễ khênh rước đến đền thờ, mật xin thần hiệu, múc một bình nước rước về đình (tên đình là đình Phúc Lộc), làm lễ cầu phúc. Năm nào bình nước thơm mát thì được mùa – bình yên tươi tốt. Nước chua thiu – gặp tai. Nước nhạt đục – ấy hạn. Rất có linh ứng. Thường ngày tùy theo dân đến cầu mong điềm lành, điều tốt.
Đến năm Cảnh Hưng dân địa phương có nạn binh lửa. Vật quý cũ sắc tặng phong các đạo bị thất lạc. Sau này lại được khâm mông làm:
– Tôn thần Việt Nam Lạc Thị Linh ứng Khai sơ Sáng thủy Khải minh Thùy hiến Uông nhuận Dực bảo Trung hưng Đại Vương.
– Hương Mát Hùng tài Đại lược Anh nghị Quả đoán Linh thông Hiển ứng Anh uy Hùng lược Đặc đạt Đại Vương.
– Quý Lang Diên hựu Đốc hỗ Tích chỉ Phong công Khải thánh Tập cái Từ tường Đoan chính Tập phúc Chiêu tường Đại Vương
.

Đây là khu vực duy nhất có tư liệu nói về Lạc Vương (3 con rồng trên đầu có ấn có chữ Lạc Vương). Tên “triển khai” đầy đủ của Lạc Vương ở đây là Việt Nam Lạc Thị Đại vương. Việt là chỉ tộc Việt, đất Việt. Nam là đất phương Nam, khởi dựng từ Kinh Dương Vương thụ mệnh vua cha làm vua phương Nam. Lạc Thị là họ Lạc, ở đây là Lạc chứ không phải họ Hùng. Lạc Thị là một giai đoạn của thời đại Hùng Vương.

Có 3 vị Lạc Thị là 3 vị thủy tổ của Việt – Nam mang họ Lạc. Các đền đình thờ Lạc Thị ở Bắc Ninh nay thường chuyển thành thờ các vị thủy tổ người Việt, mà cụ thể một số nơi theo tư liệu sắc phong và thần tích cho biết trước đây thờ thần Việt Nam Lạc Thị thì:

  • Đền Á Lữ, Thuận Thành nổi tiếng được biết đến vì là nơi có lăng Kinh Dương Vương. Ngoài Kinh Dương Vương ở Á Lữ còn thờ Lạc Long Quân, Âu Cơ và vua Hùng Quốc Vương.
  • Đình làng Đại Bái (Bưởi Nồi), Gia Bình nay được ghi là thờ Lạc Long Quân.
  • Đền làng Bình Ngô, Thuận Thành nổi tiếng với cuốn Hùng Vương ngọc phả, tức là thờ chính là Hùng Vương.
  • Đình làng Đoan Bái (Bưởi Đoan), cùng cụm di tích 4 làng Bưởi với làng Đại Bái, nay trở thành một nơi thờ đủ các vị thủy tổ Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân, Âu Cơ, Hùng Quốc Vương.
  • Đình làng Ngọc Xuyên (Bưởi Xuyên) thờ thần Bách Noãn.

Như vậy tục thờ Việt Nam Lạc Thị là thờ các vị vua khai sáng “Việt Nam” và Bách Việt (Bách Noãn), lần lượt có thể xác định là:

  • Việt Nam Lạc Thị Đệ nhấtKinh Dương Vương như ở đền Á Lữ.
  • Việt Nam Lạc Thị Đệ nhịLạc Long Quân như ở đình Đại Bái.
  • Việt Nam Lạc Thị Đệ tamHùng Quốc Vương như ở đền Bình Ngô.

3 vị khai sáng tổ của dòng Lạc theo cha xuống biển đã hiển hóa thành 3 con rồng với dấu ấn Lạc Vương tại vùng ven sông Thiên Đức, lưu truyền thành tín ngưỡng thờ Lạc Thị. Sự tích này cũng cho phép giải thích vì sao chữ Lạc 貉 lại viết dùng bộ Trãi. Bộ Trãi 豸 biểu thị loài bò sát không chân, rất có thể gắn với hình tượng những con rồng Lạc trên dòng sông Đuống này.

“Vực Thiêng” ở làng Nghi Khúc (Bưởi Cuốc) vốn là hành cung Nghi Giang thời Lạc Thị, là chốn cực kỳ linh thiêng của nước ta, giống như khu vực “Giếng Việt” của thời sau vậy. Khu vực ven sông Đuống có lẽ chính là nơi xuất phát của truyền thuyết sinh trăm trứng (Bách Noãn) trong huyền sử Hùng Vương.

Sau thời kỳ Sơn triều với Tam vị Hùng Vương Thánh Tổ ở vùng núi Phong Châu, giai đoạn Lạc triều từ Kinh Dương Vương truyền qua Lạc Long Quân rồi các đời Hùng Vương được truyền thuyết hóa bằng con số 18 đời ở vùng đồng bằng ven sông biển.

Câu đối ở đình làng Đại Mão, Gia Bình, nơi thờ Tam vị Lạc Thị:

Thiên đãng thánh thần khai Bách Việt
Địa xưng văn hiến ngưỡng tam linh.

Các di tích thờ Việt Nam Lạc Thị ở Bắc Ninh.
Sắc phong cho Kinh Dương Vương miếu ở Á Lữ, Thuận Thành: Khai sơ Sáng thủy Khởi minh Thùy hiến Việt Nam Lạc Thị Linh ứng Trung đẳng thần.
Ngai vị ba vị Việt Nam Lạc Thị ở đình làng Nghi Khúc, Gia Bình.
Bia sự tích Việt Nam Lạc Thị ở đình làng Đại Mão, Thuận Thành.
Tượng đồng Lạc Long Quân và Âu Cơ ở đình làng Đoan Bái, Gia Bình.
Nghi môn đền Bình Ngô, Thuận Thành.

Đi suốt thời đại Hùng Vương

Nhận thức về thời đại Hùng Vương là một quá trình rất dài, rất khó mà nếu không có tâm, không có sức thì khó có thể nhận ra được chân tướng dù là ở những chi tiết nhỏ nhất. Sẽ là quá đơn giản, nếu không nói là thô thiển và ấu trĩ, khi cho rằng 18 đời Hùng Vương chỉ là sự việc trong chốc lát vài trăm năm, rằng vua Hùng nào cũng giống như vua Hùng nào, không đội lông chim thì chắc cũng phải đóng khố… Sự thực 18 triều đại Hùng Vương của người Việt đã trải qua gần 3.000 năm lịch sử, phát triển từ thấp đến cao, từ thời kỳ đồ đá qua đồ đồng tới đồ sắt, từ khi con người mới đang ăn lông ở lỗ cho tới thời kỳ thiên hạ hàng triệu dân thống nhất trên vùng trời Đông. Xã hội thời Hùng Vương trong quá khứ người Việt đã bước từng bước qua 4 nấc thang phát triển Hồng – Lạc – Âu – Triệu ứng với 4 danh xưng thủ lĩnh thiên hạ là Tổ – Phụ – Vương – Đế.

Thời đại Hùng Vương bắt đầu từ khi núi sông Bách Việt có Tổ. Hoàng Đế Hữu Hùng Đế Minh 5.000 năm trước mở nước họ Hồng Bàng, thống trị vạn bang chư hầu thiên hạ, là ngọn núi Thái Sơn đột ngột vươn lên từ trong bóng đêm thủa hồng hoang chập chững của con người Việt. Tam vị Hùng Vương Sơn nối nhau kế trị, đạo thánh thần minh, vạn đời tín ngưỡng là những vị Thánh Tổ ngự ở đền Hùng trên núi Hy Cương. Sơn triều Hùng Vương Thánh Tổ được nối tiếp bởi Tản Viên Sơn, vị Kinh Dương Vương sơ khai Nam Việt, Nam Thiên Thánh Tổ, gậy thần sách ước lập nên thiên hạ nước Xích Quỷ, đóng đô miền Ngũ Lĩnh – Ba Vì, vượt lên thiên tai địch họa, mở mang bách nghệ, đặt nền móng vạn thế thịnh vượng cho nhân dân Việt.

Bước ngoặt của xã hội Việt 4.000 năm trước được đánh dấu bằng Vua cha Lạc Long Quân, xuất thế Rồng bay biển Bát, theo bờ biển thoái mà khai mở vùng Động Đình ven sông biển, dùng cày cấy và đánh cá mà tạo sự tự chủ cho cuộc sống của con người đối với thiên nhiên. Xã hội Việt bắt đầu thời kỳ thị tộc Phụ đạo, cha truyền con nối. Lịch sử ghi rằng Lạc triều truyền 18 đời, mở đất theo hướng Đông Nam xa vạn dặm. Hai triều đại Hạ Thương – họ Việt Thường mang dấu ấn thời theo cha Lạc Long xuống biển, kéo dài ngàn năm, cho tới thời Hùng Duệ Vương thì biên giới phía Nam (Bắc nay) đã vượt qua Dương Tử sang đến Hoàng Hà.

Song song với dòng theo Cha Rồng xuống biển Đông, dòng dõi trăm trứng theo Mẹ Tiên lên núi cũng làm nên kỳ tích, vượt dải núi Ai Lao ở Vân Nam, tiến đến Ba Thục ở Quý Châu, làm chủ toàn bộ miền Tây thiên hạ. Tới thời Lạc Vương đời cuối là Hùng Duệ Vương vào hơn 3.000 năm trước, Thục chủ Âu Cơ, theo điềm Phượng gáy non Kỳ, lấy văn đức làm gốc rễ, thụ nhận thiên mệnh, nắm được triết lý nhân sinh mà tác Dịch, tượng trưng trong bánh chưng bánh dày, thay thế Lạc Vương mà dựng nước Âu Lạc, lên ngôi là Thiên tử của toàn Thiên hạ. Chu Vương – Lang Liêu của nước Văn Lang đã phân phong trăm chư hầu, lập ra trăm quan, đặt ra trăm họ, phong cho trăm thần. Thục triều đã tạo dựng nên đất đai và các dòng tộc Bách Việt, hình thành nếp gấp về văn hóa và các vùng lãnh thổ lâu dài cho mãi tới ngày nay.

Thiên hạ với thập nhị hành khiển.

Trăm dòng Bách Việt có lúc thịnh lúc suy, trải qua thời Xuân Thu, Chiến Quốc hợp lại dần thành những Ngũ Bá, Thất Hùng. Để đến thế kỷ III trước Công nguyên, Triệu Đà diệt An Dương Vương, chiếm lục quốc, rồi xưng Hoàng Đế, thống nhất Trung Hoa, phân chia quận huyện mà trị. Nhà Tần Triệu duy trì không được lâu, nhưng chế độ nhất thống Trung Hoa đã là xu thế không thể đảo ngược. Triệu Vũ Đế Lưu Bang từ một thường dân áo vải tranh hùng với Hạng Sở rồi một lần nữa gồm thâu Trung Quốc, khai cơ Vạn Xuân. Phương Nam được phong cho hậu duệ nhà Chu là Nam Việt Vương Triệu Quang Phục cai quản. Cao Tổ và Lữ Hậu mất, Triệu Quang Phục tự xưng Đế, đi xe hoàng ốc, cắm cờ tả đạo, phân đôi Thiên hạ cùng nhà Hiếu. Nền văn hóa đồ đồng Đông Sơn phát triển cực thịnh dưới thời quốc gia Nam Việt. Tới thời Hiếu Vũ Đế có hùng tài đại lược, chiếm lại đất phương Nam, đuổi Triệu Việt Vương cùng đường nơi cửa khẩu Đại Nha. Trung Hoa nhất thống tập quyền về một mối, đánh dấu giai đoạn phát triển xã hội cao nhất trong thời đại Hùng Vương.

Lịch sử chân thực của thời đại Hùng Vương khẳng định dòng giống con Rồng cháu Tiên của người Việt và khắc ghi công ơn tiên tổ đã làm nên nền văn minh thuộc vào hàng sớm nhất trên thế giới, với phạm vi bao trùm khắp trời Đông. Nguồn cội và công ơn này mãi còn trong tâm thức người Việt.

Câu đối ở nghi môn đền Thượng trên núi Hùng Nghĩa Lĩnh:

Thông thông uất uất, trung hữu lăng yên tẩm yên, Long phụ Tiên mẫu chi tinh linh, khởi hựu hậu nhân võng khuyết

Cổ cổ kim kim, kiến thử sơn dã thủy dã, Thánh tổ Thần tôn chi sáng tạo, ô hô tiền nhân bất vong.

Dịch nghĩa:

Xanh xanh tốt tốt, trong có này lăng này tẩm, là tinh linh của Cha Rồng Mẹ Tiên, đó giúp đời sau không thiếu

Xưa xưa nay nay, thấy đây kìa sông kìa núi, là sáng tạo bởi Tôn Thần Tổ Thánh, hỡi ôi người trước mãi còn!

Rồng trong tâm thức hướng biển của người Việt cổ

Truyền thuyết khởi nguồn Họ Hồng Bàng kể 50 người con theo cha Rồng Lạc Long Quân đi về phía Đông xuống biển là các Thủy thượng Linh thần. 50 người con theo mẹ Tiên Âu Cơ lên vùng miền núi phía Tây là các Sơn thần. Như thế rồng là hình tượng đã đi vào trong văn hóa Việt ngay từ buổi đầu dựng nước với tâm thức hướng ra khai phá miền biển Đông.

1. Ca dao xưa:

Mồng bốn cá đi ăn thề

Mồng tám cá về cá vượt Vũ Môn.

Truyền thuyết Việt về Rồng đầu tiên là trong điển tích cá vượt Vũ Môn hóa rồng. Đây là sự tích kể về thời vua Kinh Dương Vương khởi dựng nước Nam. Kinh Dương Vương cũng là Tản Viên Sơn Thánh, người đã chống lại nước lũ ngập ngang trời thời Đường Nghiêu. Vũ Môn nơi Tản Viên Kinh Dương Vương trị  thủy là dải Thác Bờ gập ghềnh hiểm trở trên dòng sông Đà. Hình ảnh cá hóa rồng còn lưu lại ở nhiều đền thờ Tản Viên Sơn Thánh quanh vùng Ngũ Lĩnh núi  Ba Vì. Cá vượt Vũ Môn là một lời thề, là tấm gương nghìn đời của bậc tiền nhân thời lập quốc, đã tìm tòi tri thức về thế giới quan và nhân sinh quan mà nỗ lực vượt qua thiên tai, xây dựng cuộc sống ấm no cho nhân dân, đưa xã hội người Việt ở thủa hồng hoang phát triển lên một nấc thang mới.

Người đã kết duyên cùng với Kinh Dương Vương sau cuộc gặp gỡ bên bờ Động Đình là Thần Long Nữ. Tản Viên Kinh Dương Vương  đã cứu được con rắn, con của Long vương Động Đình, rồi đi xuống Thủy cung mà lấy được cuốn sách ước. Mẫu Thần Long đại diện cho tộc người sinh sống ở vùng sông biển ở phía Đông, xưa được gọi là hồ Động Đình. Câu chuyện Mẫu Thoải (Mẫu Thủy phủ) còn được kể trong truyền thuyết về thư sinh Liễu Nghị, đã xuống Thủy cung truyền thư báo tin mà cứu được Xích Lân Long Nữ. Liễu Nghị như thế là một cách kể khác của Kinh Dương Vương – Tản Viên Sơn Thánh. Mẫu Thoải và Liễu Nghị được thờ như các vị thủy thần có khả năng ngăn mưa chống lụt ở chùa Ông (chùa Sộp) và chùa Bà (chùa Dựa) tại Thanh Miện, Hải Dương.

2. Kinh Dương Vương lấy mẫu Thần Long sinh ra Lạc Long Quân nên Lạc Long Quân thừa hưởng vị trí quân chủ của cả dòng Lạc bên cha và dòng Long bên mẹ. Lạc Long Quân đứng đầu các tộc người vùng sông biển nên khi hóa sinh về biển được tôn là Vua cha Bát Hải Động Đình, là vị vua chủ của Thoải phủ trong tín ngưỡng Tứ phủ. Rồng đã trở thành biểu tượng vật tổ của người Việt vào thời khai phá miền Thủy phủ Động Đình.

Tín ngưỡng thờ những vị thủy thần Long Vương rất phổ biến ở vùng đồng bằng sông Hồng ven biển, trải dài qua Thanh Hóa, Nghệ An, vào tới tận Hà Tĩnh. Ở khu vực ven biển huyện Thạch Hà, Hà Tĩnh có một loạt các di tích thờ Tam Lang Long Vương như Miếu Ao Thạch Trị, đình Đại Hải… Đặc biệt nhất là đình Thạch Lặc nằm ngay trên di chỉ khảo cổ tiền sử cồn sò, nơi đã phát hiện được di cốt người Việt cổ với niên đại 4000 – 5000 năm trước. Đây là bằng chứng rất rõ ràng rằng các vị Long Vương là những quân chủ vùng ven sông biển, lấy nghề đánh bắt thủy hải sản mà sinh sống từ thời kỳ dựng nước trên 4000 năm trước.

Hùng Vương Thánh Tổ Ngọc phả cho biết những người con theo cha Lạc Long Quân xuống biển được gọi là các Thủy thượng Linh thần. Chữ Linh có phát âm khác là Lung, cũng là Long, chỉ rồng. Linh Lang tức là Long Vương. Vị thần hồ Tây Uy Linh Lang do đó chính là vua cha Lạc Long Quân của thời sơ sử. Hồ Dâm Đàm là đầm rồng của Thủy quốc Động Đình, nơi Long Quân cùng với những người anh em trấn trị tại đó. Sự tích này còn ghi trong Lĩnh Nam chích quái về việc Long Quân cùng Lục bộ Thủy phủ dâng nước diệt con cáo chín đuôi ở Hồ Tây. Long Quân còn là thần chính khí Long Đỗ, vị thành hoàng của kinh thành Thăng Long xưa.

3. Hình tượng rồng đã xuất hiện từ rất sớm trên những di vật khảo cổ đồ đồng thời Ân Thương (trên 3000 năm trước). Thường gặp nhất là hình rồng 1 chân, gọi là quỳ long, rất phổ biến trên các đồ đồng từ thời kỳ này. Truyền thuyết Long sinh cửu tử với 9 đứa con của rồng là 9 cách thể hiện hình tượng rồng trên các đồ dùng với những chức năng khác nhau. Ví dụ như hình mặt thú Thao thiết thường gặp trên các đỉnh đồng xưa. Hình Tiêu đồ với mặt rồng ngậm vòng, thường dùng trên các bình đồng làm quai cầm hay tay nắm cửa. Nhai tí là tên gọi cho hình rồng đúc trên chuôi các loại vũ khí như giáo, dao găm… Công phúc là loại rồng dẫn thủy, gặp trên các ấm đồng có vòi rót dài hình rồng… Rồng đã biến hóa vào mọi mặt của đời sống người Việt cổ.

Trong văn hóa tín ngưỡng, các vị Long Vương còn gặp ở một dạng thể hiện khác. Ở Nhật Tân có sự tích bà phi của vua Diệu Đế sinh ra một bọc, đem để ở bãi Nhật Chiệu, rồi nở thành 7 con rồng bay lên trời. 7 con rồng này là thần Uy Linh Lang và Đoài hồ thất giáp (7 giáp của hồ Tây). Tại bãi này người ta trồng 7 cây hoa gạo (mộc miên) để tưởng nhớ đến các vị thần rồng. Ngày sinh của Uy Linh Lang và những người anh em cùng bọc của mình là vào 10 tháng 2 Âm lịch. Đây cũng là lúc hoa gạo vào mùa nở đỏ rực ở bên bờ sông Hồng. Những cây hoa gạo nở hoa đỏ tháng 2 là hình ảnh rất sống, rất thực của Rồng bay lên trên đất Thăng Long.

Ở Long Hưng điện tại xã Xuân Quan, Văn Giang, Hưng Yên có sự tích vua Triệu Đà đi qua nơi đây, thấy rồng bay lên nên đã đặt tên là Thăng Long. Tên gọi Thăng Long của vùng Long Biên – Hà Nội như thế có từ thế kỷ 3 trước Công nguyên. Thăng Long là hình ảnh “Phi long tại thiên” của hào từ thứ năm trong quẻ Càn của Kinh Dịch. Đây là hào từ chỉ sự thăng hoa cao nhất của người quân tử. Rồng bay lên tức là trạng thái thành đạt, khi vua lên ngôi Hoàng đế, lập nên một triều đại.

Gắn với vua Triệu Vũ Đế còn có là di vật cổ là tượng một con Rồng đá lớn, cao bằng người, ở trên núi Châu Sơn (nay thuộc Quế Võ, Bắc Ninh). Con rồng đá này được tạo hình có mỏ chim, có cánh như thể hiện sự kết hợp giữa rồng và phượng. Con Rồng đá núi Châu Sơn là linh vật của ở đền thờ Triệu Vũ Đế có từ thời Hán. Nó là di vật chứng minh cho sự kiện Triệu Đà khởi nghĩa kháng Tần, lập căn cứ ở vùng núi này.

4. Ở một hướng phát triển khác, trong dòng tộc người Việt theo mẹ Âu Cơ lên núi, rồng được thể hiện khá nhiều trên các đồ đồng văn hóa Đông Sơn. Những hình rồng ở đây được gọi là Giao long. Hình Giao long thường gặp thành từng cặp ở trên các lưỡi rìu, lưỡi giáo, trống đồng, đồ trang sức… của văn hóa Đông Sơn. Ở đây Giao long được thể hiện như một loài thú có 4 chân, đuôi như có lông, trải dài hoặc cuộn, có mõm dài, có mào. Tiền thân của hình tượng Giao long có thể là loài cá sấu (hay thuồng luồng), vốn là loài bò sát lớn sinh sống phổ biến ở các vùng sông nước miền Bắc nước ta vào thời trước Công nguyên. Sự xuất hiện của hình tượng rồng Lạc (giao long) này cùng với hình chim Âu trên các đồ đồng Đông Sơn chỉ rõ sự hợp nhất hai dòng Âu – Lạc, lên núi xuống biển vào thiên niên kỷ thứ 1 trước Công nguyên.

Liên quan đến hình tượng Rồng lịch sử còn ghi vua Triệu Việt Vương khi ẩn trong đầm Dạ Trạch (Khoái Châu, Hưng Yên) đã được một vị thủy thần là Quý Minh Đại vương, cưỡi rồng vàng hạ xuống, tháo móng rồng trao cho để làm thành bảo bối mũ đâu mâu. Oai lực của đâu mâu móng rồng chỉ vào đâu là giặc ở đó tất tan. Những nơi thờ Triệu Việt Vương ở vùng đầm Dạ Trạch luôn thờ cùng với các vị thủy thần tại đây như Quý Minh Đại vương hay Linh Lang Đại vương. Những ngôi đình, ngôi đền cổ thờ các vị thần này được thể hiện bằng những bức chạm rồng thành hàng bầy, vô cùng sinh động. Phải chăng đó là trạng thái “Quần long vô thủ” như hào từ thứ 6 của quẻ Càn trong Kinh Dịch nói tới, chỉ sự thái bình thịnh vượng?

Hiện vật khảo cổ tiêu biểu thường gặp sau thời kỳ nước Âu Lạc là các gương đồng. Những chiếc gương thời Hán được chôn theo người chết với ý nghĩa dẫn đường cho vong linh về với tiên giới, về với tổ tiên. Trên các gương đồng thời Hán, rồng được thể hiện là Thanh Long, một trong bốn loài linh thú (tứ linh). Chữ viết trên gương đồng ghi: Rồng trái, hổ phải trừ đi điều xấu. Con rồng trên gương đồng như thế là biểu tượng của sự cát tường, may mắn. Cùng thời kỳ này còn hay gặp hình ảnh các vị chân nhân cưỡi rồng bay trên mây. Đây là thể hiện sự đắc đạo phi thăng thành Tiên. Hình tượng cùng chủ đề này gặp ở trên mảng chạm tại đình Tây Đằng (Ba Vì, Hà Nội), khắc họa những vị tiên có thân rồng. Chủ đề rồng thời kỳ đầu Công nguyên gắn liền với quan niệm tu tiên của Đạo giáo.

Từ khi Kinh Dương Vương trị thủy, vượt Vũ Môn hóa rồng, mẫu Thần Long và vua cha Lạc Long Quân dẫn con dân người Việt chinh phục miền sông nước ven biển Đông, hình tượng rồng đã đi vào tâm thức tín ngưỡng của người Việt, là biểu trưng cho nhiều mặt của đời sống như ăn, uống, làm nông nghiệp, thủy lợi, chiến đấu bảo vệ quê hương. Rồng bay lên trên đất Thăng Long là khi người Việt đạt đến chế độ phát triển tổ chức xã hội cao nhất, Triệu Vũ Hoàng Đế nhất thống sơn hà, hải nội. Những vị chân nhân đắc đạo cưỡi rồng phi thăng bất tử thành tiên. Con rồng biểu tượng vừa cho sự chinh phục miền sông nước biển Đông thời lập quốc, vừa là sự thăng hoa tinh thần của xã hội người Việt khi thiên hạ thống nhất một dải.

Bài viết đăng trên Tạp chí Năng lượng mới số Tết năm Giáp Thìn 2024.

Phả chép về một vị phu nhân âm phù triều Trưng nữ vương

Dịch từ bản khai thần tích thần sắc làng Nhuế Đông, xã Lang Tài, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh.

Phả chép về một vị phu nhân âm phù triều Trưng nữ vương
Chi Khảm, bộ Thượng đẳng
Chính bản bộ Lễ quốc triều
Xưa Hùng Vương Sơn Nguyên Thánh Tổ mở vận ứng đồ hơn hai ngàn năm Hùng Vương dựng nước núi xanh vạn dặm lập nền đô thành cung điện, nước biếc một dòng mở đạo đế thánh vua sáng, mà cứu vật giúp người, cai quản 15 bộ, gọi là tổ ban đầu của Bách Việt vậy. Về sau họ Hùng có trăm thần sông núi thường hay xuất hiện, biến hóa thần kỳ, âm phù giúp nước giúp dân. Có thơ rằng:
Sơ khai Nam Việt tự Kinh Dương
Nhất thống sơn hà thập bát vương
Thập bát thế truyền thiên cổ tại
Ức niên hương hoả ức niên phương.

Dịch nghĩa:
Ban sơ Nam Việt từ Kinh Dương
Thống nhất núi sông mười tám vương
Mười tám đời truyền ngàn năm đó
Vạn năm hương lửa vạn năm hương.

Lại nói, cơ đồ họ Hùng tương truyền được 18 đời đến khi mạt tạo, ý trời muốn dứt, trải qua các triều đại Tây Đông Hán, Ngô, Tấn, Tống, Tề, Lương, Đường, Tùy, tới khi nước Nam có bốn họ Đinh, Lê, Lý, Trần mở mang cơ đồ, giữ quốc thống bền lâu vậy.
Xưa ở đất Việt có Trưng nữ vương. Vương họ Trưng tên Trắc, người huyện Mê Linh, Phong Châu, là con gái của Lạc tướng, lấy chồng là Thi Sách. Khi ấy có giặc Hán Tô Định dẫn quân đến xâm chiếm Trung Nguyên. Họ Triệu tang thương, không người cứu giúp. Khi đó người cháu gái Hùng Vương tên là Trắc, là bậc nữ trung hào kiệt, là thánh thần trên đời, nổi oai hùng cất quân đến đánh. Đang khi ấy không có bậc nam nhi nào có đủ tài thao lược. Vương vì trả thù cho chồng mà cùng với em gái khởi binh. Nữ tướng dẫn quân, thần linh phát động. Thế rồi Trưng nữ bèn cầu đảo Tản Viên Sơn Thánh, lại lập đàn cầu đảo bách thần ở cửa sông Hát Môn (nay thuộc xứ Sơn Tây). Bèn chúc rằng:

  • Trời sinh con người là tông chủ của vạn vật trong đất trời, sinh linh có dòng dõi, cỏ cây có tương quan. Trải các đời đế vương trước đây là những bậc thiên tử thánh minh, triều đình có đạo yêu dân vì nước. Đức hóa chuyên năng. Thiên hạ thanh bình, quốc gia vô sự. Nay có kẻ tộc ngoài là tên Tô Định, như loài dê chó quấy phá, lộng hành điên cuồng, bạo ngược nhân dân. Trời đất thần người đều căm phẫn. Thiếp hiềm chỉ là cháu của Hùng Vương trước đây, là một nữ nhân, nghĩ đến sinh linh, hoàng thiên rơi lệ. Ngày hôm nay đau lòng thương cảm mà trượng nghĩa trừ tàn bạo. Xin trăm vị chư tôn hội đàn chứng giám, giúp thêm sức cho Trưng nữ thiếp dẫn quân dẹp giặc, giữ nước cứu dân. Để thiếp khôi phục được cơ nghiệp trước đây của tổ tông, để các sinh linh được hưởng miếng cơm manh áo, đưa sinh linh khỏi chốn nước lửa, mà không phụ lòng của tiền nhân, thỏa sự linh thiêng đền miếu tiên hoàng, an ủi tổ phụ dưới nơi chín suối.

Chúc xong thấy xuất hiện ngàn hàng vạn đội âm binh. Ngay hôm đó Trưng nữ bèn truyền hịch đến các đạo, châu, huyện nước Nam, ai người có tài văn võ, anh hùng, có thể chống giặc thì ngay lập tức chiêu mộ tráng binh dẫn đến để chọn lựa người có kỳ tài mà phong chức vụ.
Hôm đó các đạo nghe thấy chiếu của Trưng nữ bèn đem các quân trong làng xóm dẫn đến ứng tuyển. Trưng nữ bèn phong những người có tài làm đại tướng. Còn binh sĩ xếp thành các đội. Ngày hôm đó Trưng nữ giao cho tướng lãnh quân đi trước dẹp đường. Còn mình thì dẫn quân đi sau ứng trợ.
Ngày hôm đó Trưng nữ sai các tướng đem quân tuần phòng các đường, dẫn quân xuất binh đường đường mà đi. Ngay hôm ấy Trưng nữ dẫn hai ngàn quân đi đánh với giặc Hán. Một buổi tiến đến đạo Kinh Bắc (xưa gọi là Vũ Ninh), phủ Thuận An (sau đổi là Thuận Thành), huyện Lương Tài (xưa là Thiện Tài). Trời đã về chiều, gặp quân Hán nên đóng quân thủy ở gần sông Thiên Đức. Trưng nữ bèn trú quân ở khu đất đầu trang Nhuế Đông, nơi có miếu thờ. Đến tối Trưng nữ bèn vào cầu đảo trong đền thần mong được âm phù dẹp giặc. Tối hôm đó tới giữa canh ba Trưng nữ bỗng nhiên nằm mộng thấy một bà lão tuổi khoảng 40, có phong tư yểu điệu, nhan sắc phi thường, mặt phượng mày ngài, má hồng môi phấn, vạn điểm như sóng thu, mười phần là sắc xuân, theo con đường trước miếu mà đến, tự xưng rằng:

  • Ta vốn là Hoàng Thái hậu triều Tống, tên là Càn Hải phu nhân. Do khi nhà Tống suy vong, giặc Nguyên xâm chiếm nên mẹ con ta ba vị hồng nương cùng xuống thuyền rồng lánh nạn ở ngoài hải đảo, vượt qua sông núi đên nơi cửa biển Am thì gặp sóng gió mà cùng hóa vậy (ngày hóa là 15 tháng 5). Thiên đình cảm động ban chiếu cho các trang khu, phường trại ở cạnh sông góc biển lập miếu mà thờ cúng để đề cao tích thiêng của phu nhân. Nay thấy nữ tướng dẫn quân dẹp giặc Hán đến trú quân và cầu đảo được âm phù nên ta xuất hiện, xin được theo quân đội dẹp giặc lập công.

Bà lão dứt lời thì biến mất (ngày thần hiện là mùng 9 tháng 2). Trong phút chốc Trưng nữ tỉnh lại, biết là linh thần xuất hiện giúp nước giúp dân. Rạng ngày Trưng nữ gọi nhân dân và phụ lão ở trang khu Nhuế Đông đến hỏi rõ việc này:

  • Ta muốn hỏi có phải hai khu trang ấp các người phụng thờ một vị Tống Hoàng Thái hậu, rất là linh hiển phải không?

Khi ấy nhân dân phụ lão trang khu Nhuế Đông đều sợ hãi mà làm lễ mừng, tâu rằng:

  • Đúng là trang khu chúng thần theo như trước đây khi mới lập trang khu có xin lĩnh lô hương ở cửa biển Am mang về dân lập miếu mà thờ cúng, thật sự rất linh nghiệm.

Trưng nữ nghe vậy bèn ban cho nhân dân phụ lão một nén vàng tím để tu sửa miếu điện, đợi khi yên bình sẽ gia phong Thượng đẳng thần. Hôm ấy Trưng nữ vương bèn dẫn quân về phía Tây, hội quân cùng các tướng. Tướng nam dẫn quân nam. Tướng nữ dẫn quân nữ, cùng với em là Nhị cùng các tướng chia thành các đạo tiến thẳng đến đồn Tô Định đánh một trận đại phá, bắt được Tô Định ở xứ Lãng Bạc mà chém đi. Quân Hán thua to, chém được chính tướng và tì tướng cùng binh sĩ vài ngàn đầu, thu được khí giới. Xây dựng 65 thành ở Lĩnh Ngoại, khôi phục toàn bộ đất đai nước Nam.
Hôm ấy các tướng đón Trưng nữ khải hoàn, lên ngôi xưng là Trưng nữ vương. Bèn mở tiệc mừng lớn, phong thêm cho các tướng sĩ cấp bậc tương ứng. Vương bèn nói với quần thần các tướng rằng:

  • Giặc Hán dẹp yên được cũng là do có thần âm phù trợ giúp.

Bèn sai sứ sắc phong cho bách thần các mỹ tự. Sắc phong thần hiệu nguyên tên phong là Đại Càn Nam Hải linh ứng tôn thần. Tặng phong là Nga hằng Uyển mị Chí đức Đoan trang Hoàng Thái hậu Thượng đẳng thần.
Từ đó về sau có nhiều sự linh ứng nên có nhiều các đời đế vương thường đều có phong thêm mỹ tự, cho phép cửa biển Am là nơi hộ nhi. Thường nước cầu dân khấn, anh linh không phai. Sắc vâng ban cho trang khu Nhuế Đông phụng thờ. Vâng thay!
Đến thời Trần Anh Tông đi chơi ở núi Yên Tử, đến cửa biển thì gặp nạn sóng gió, mà được một vị tôn thần cứu thoát. Đến ngày về Đế bèn phong thêm mỹ tự là Huệ hoà Gia hành Đoan trang Thục diệu Phu nhân Thượng đẳng thần. Lại ngâm một câu thơ:
Hương hoả thiên thu âm tục Tống
Phong ba nhất trận mặc phù trần.

Nghĩa là:
Hương lửa ngàn thu âm nối Tống
Sóng gió một trận thầm giúp Trần.

Lại nói, sắc chỉ ban cho trang khu Nhuế Đông phụng thờ. Vâng thay!
Thời sau khi Lê Thái Tổ khởi nghĩa Lam Sơn dẹp trừ giặc Minh, cùng bè đảng Mộc Thạnh, Liễu Thăng, đến khi có được thiên hạ thì vua Thái Tổ bèn phong thêm mỹ tự là Ý đức Thuần hoà Anh linh Phù tộ Phu nhân Thượng đẳng thần. Sắc chỉ ban cho trang Nhuế Đông khu Đặng Thượng và khu Thiên Lộc cùng tu sửa miếu điện để phụng thờ, cùng với nước nhà hưởng phúc, mãi là thức lệ. Vâng thay!
Ngày tiệc thần hiện vào ngày mồng 9 tháng 2. Lễ chính lệ dùng trên có mâm chay và phẩm quả, dưới tùy xếp cỗ, ca hát ba ngày.
Niên hiệu Hồng Đức năm thứ 5 giữa xuân ngày tốt Đệ tam giáp Tiến sĩ trí sĩ Thượng thư bộ Lễ Hàn lâm viện Đông các Đại học sĩ, thần là Nguyễn [Bính] vâng soạn bản chính. Nội các bộ Lại tuân theo bản chính cũ vâng sao.
Niên hiệu Bảo Đại năm thứ 13 ngày mồng 1 tháng 3 lý trưởng xã Nhuế Đông vâng sao nguyên như bản chính.

Ngọc phả Tiền Lý Nam Đế, Đức Vua bà cùng con gái Đàn Bang

Thần tích thôn Đại Phúc, xã Đạo Đức, huyện Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc, có đối chiếu với ngọc phả của làng Kim Thanh, Tiến Thắng, Mê Linh, Hà Nội. 

Ngọc phả ghi chép về ba vị bản thuộc thành hoàng (bản thuộc nghĩa là nước ta, thành hoàng nghĩa là ? ?  thành hoàng), sau đổi là Quốc vương [Thiên tử Tiền Lý Nam Đế], Đức Vua Bà cùng con gái Đàn Bang

Chi Càn, bộ đế vương thứ nhất. Chính bản bộ Lễ quốc triều

Xưa đất Việt định vị Càn Khôn, một phương Ly Khảm phân giới hạn tại Sách trời, là ứng hướng các sao Dực, sao Chẩn. Ban đầu xưng là nước Lạc, tôn núi Tản sông Lô là sơn hà. Từ triều Hùng đổi vận, thánh tổ dựng cơ đồ tương truyền 18 đời hơn 2000 năm thịnh trị, đời đời cha truyền con nối đều xưng là Hùng Vương. Ngọc lụa, xe sách, núi sông một dải, chính là tổ đất Việt ta vậy.

Đến nhà họ Hùng truyền 18 đời mới nhường ngôi báu cho Thục An Dương Vương. Dương Vương được nước trong 50 năm thì có người Chân Định họ Triệu tên Đà cất quân đến xâm chiếm. Nhà Thục mất. Triệu Đà được nước, cha truyền con nối 5 đời làm vua. Từ đó đất Việt ta thuộc vào Hán cùng Tấn, Tống, Tề, Lương. [Đến Lương Võ Đế cho] Tiêu Tư làm Thái thú đất Việt ta. Tư là kẻ tham tàn bạo ngược, nặng hình pháp. Sinh dân đất Việt ta rơi vào cảnh lầm than chưa từng có vậy. May thay, lòng người không muốn cảnh loạn, ý trời cũng cho thay đổi nên thanh bình. Sông núi nước Nam vua Nam ở, chính đúng là như vậy.

Trước đó có một nhà họ Lý, vốn là người Bắc Hán di cư đến Việt ta ở đất Long Biên, Thái Bình, được 4 đời tới Lý Công Quang sống ở bến Thái Bình, lấy việc chèo thuyền đưa người qua sông làm nghề nghiệp. Gặp ai cũng chở mà không đòi hỏi lấy tiền. Địa phương nơi đó đều gọi là người có lòng tốt bụng vậy.

Sau này có một thuyền khách buôn phương Bắc đi qua đây, chẳng may gặp gió lớn nổi lên, của cải đều mất cả. Ông xuất tâm cứu giúp, dẫn về nhà nuôi dưỡng. Trong số các khách phương Bắc có một người tên là Lý Sinh, tinh thông địa lý, xem được một thế cục ở núi Ất Lý tại Long Biên, có thể phát 2 đời làm vua Nam Việt, sau khi mất còn là phúc thần vạn đời. Thấy Công Quang cũng mang họ Lý, lại có lòng tốt nên tìm cho một huyệt để chôn táng trên đỉnh núi Ất Lý, dựa Đinh hướng Quý. Chôn xong thì người khách trở về nước phương Bắc.

Sau Công Quang sinh được Công Đạt. Công Đạt có vợ tên là Lã Thị Hương, gia thế vốn giàu mạnh. Vợ chồng đều rất trung hậu, nửa điểm không có ý hại người, chút lợi cũng không động lòng riêng. Một tối Lã Thị nằm mộng thấy tự nhiên bay lên trên trời, muốn xuống mà không được, rồi lại có một con rồng vàng, mà cưỡi để hạ xuống, nhổ một chiếc râu rồng mang về nhà. Bỗng nhiên tỉnh lại. Từ đó cảm mà có mang thai.

Mùa xuân năm sau đó ngày 11 tháng giêng sinh hạ được một người con trai, phong thái chỉnh tề, khí chất khôi ngô, vượt hơn người thường rất nhiều. Đang lúc sinh có khí lành bao phủ, hương thơm ngào ngạt. Sinh được trăm ngày thì người cha đặt tên là Lý Công Bôn. Quả nhiên Hoàng thiên không phụ, đất lành hưng vượng, sông biển đúc thiêng, núi sông nuôi dưỡng. Ông khi sinh đã có tính linh, tròn tuổi đã biết nói, 5 tuổi đã hiểu âm luật. Đến năm 7 tuổi thì chẳng may cha bị bệnh mất. Ông tuy còn nhỏ nhưng lanh lợi, đối với cha mẹ thì hiếu kính, với họ hàng làng xóm thì ôn hòa, ai cũng đều khen ngợi. 

Đến năm 16 tuổi ông làm quan cho nhà Lương. Năm 21 tuổi trở về nuôi dưỡng mẹ. Khi ấy Tiêu Tư có một người mưu sĩ tên là Chu Năng, thạo việc xem thiên văn, thường nói với Tiêu Tư là:

– Nước Nam có một người lạ, nhưng người này không được thọ lâu.

Tiêu Tư cười rằng:

– Lạ mà không thọ thì lạ làm gì.

Một hôm Tiêu Tư ở trong nhà, mơ màng như mộng, thấy có một thiếu niên tự xưng là Ất Lý bản thuộc, tay cầm song kiếm đuổi Tiêu Tư mắng rằng:

– Đất của ngươi là nước phương Bắc. Hãy trả lại nước Nam nơi đây của ta.

Tiêu Tư trong mộng chạy dài cho tới lúc thoát. Bỗng nhiên bàng hoàng tỉnh dậy, biết là nằm mộng. Bèn gọi Chu Năng đến giải giấc mộng đó. Chu Năng nói:

– Thần đã xem sao trên trời và báo với chúa công, nhưng chúa công không chú ý. Nay chúa công đã mộng thấy như vậy, tất là trời cho điềm báo trước. Sự thể như vậy, thần xin được đi vi hành thăm dò tình hình mà định kế.

Tiêu Tư đồng ý như thế. Thế là Chu Năng chọn một người tùy tùng xem hướng mây mà đi. Hai tháng sau đi đến Long Biên, quả nhiên thấy một ngọn núi có tên là Ất Lý. Chu Năng xem xét nơi đó thấy địa linh tất sinh nhân kiệt. Ngẩng mặt lên xem mây trên trời bỗng thấy hoa mắt, hôn mê, trong lòng đau đớn, nôn ra máu, ngã ra mà chết. Đó chính là sơn thần muốn giúp Lý Bôn nên đã đánh chết Chu Năng. Câu chữ để đời là:

Nam quốc sơn hà khai thái vận

Thiên tâm giáng phúc thái bình quân.

Dịch là:

Núi sông nước Nam mở vận lớn

Lòng trời giáng phúc vua thái bình.

Chu Năng bị sơn thần đánh chết, còn người tùy tùng chạy về nói với Tiêu Tư. Tiêu Tư bèn dẫn thủ hạ hai trăm người thẳng đến Long Biên, bắt hết già trẻ, nam nữ. Hôm ấy mẹ con Công Bôn cùng họ hàng hơn 20 người may mắn thoát được, chạy ra bên ngoài. Anh Bắc em Tây, ẩn trốn nơi đất khách. Mẹ con Công Bôn không biết phải chạy về nơi nào, cứ liên tục chạy qua mấy ngày, trong người mệt mỏi bèn vào nghỉ nơi miếu ở bên đường, rồi ngủ thiếp đi. Bỗng nhiên nằm mộng thấy một người thân mặc áo xanh, tay cầm cờ vàng, tự xưng là sử giả nhà trời, quỳ xuống mà đọc rằng:

Quân kim nghi tẩu Sơn Tây đạo

Tam Đới Châu Diên Táo Tuyến hương

Tiền đắc quang huân đồng tán trợ

Hậu ư thử xứ ức niên hương.

Dịch là:

Nay vua nên đến Sơn Tây đạo

Phủ Tam Đái, Táo Tuyến, Chu Diên

Trước được ánh quang cùng trợ giúp

Sau đó là nơi thờ vạn niên.

Công Bôn tỉnh lại, nhớ lại bài thơ thần báo mộng rõ ràng. Sơn Tây, Tam Đái thì đã từng nghe, nhưng Táo Tuyến, Chu Diên thì không biết là nơi nào. Nhưng nghĩ rằng đã có sự hiển báo, tất sẽ có âm phù. Bèn dẫn mẹ là Lã thị tìm đường mà đi. Không đến mấy ngày quả nhiên đến được trang Táo Tuyến, huyện Chu Diên, phủ Tam Đái, đạo Sơn Tây.

Đang khi đó trang Táo Tuyến có ông Triệu Quang Hành trụ trì chùa ở làng đó. Ông Quang Hành tuổi đã gần 60, sống cùng với một người cháu tên là Quang Phục. Đêm hôm ấy [Quang Phục nằm mộng thấy Long thần của chùa đến bảo trụ trì phải quét dọn cửa chùa sạch sẽ vì ngày mai sẽ có mẹ con của quốc vương đến. Quang Phục chợt tỉnh dậy thì trời đã rạng sáng, bèn đem việc trong mộng nói cho người bác nghe. Ông Quang Hành bèn sai đồ đệ quét dọn sạch sẽ. Đến giờ Ngọ quả nhiên có mẹ con Công Bôn đến xin nghỉ nhờ.]

Ông Quang Hành thấy Công Bôn là người có tướng lạ, bèn mời mẹ con ông cùng về ở, bố trí riêng một phòng, cho Quang Phục đến phục vụ. Khi ấy Công Bôn 23 tuổi. Quang Phục 11 tuổi. Thật là đã có vua tất có thần tử. Quân thần hợp nhau như cá nước có duyên. Lúc xem võ bị, lúc đọc binh phù, có hùng tài mưu văn lược võ, có chí lớn như Hán Cao Tổ, Đường Thái Tông. Ngày đêm tính kế, làm việc vì đất nước, chiêu dụ các hào kiệt dẹp loạn cứu dân.

Khi ấy ở bên kia bờ sông đối diện Táo Tuyến có một làng, tên là Đông Lỗ, thấy Công Bôn có lòng như Thôi Đới, nên cứ mỗi tháng hai lần lại đem rượu thịt đến dâng, cùng nói rằng kẻ nước Bắc tàn nhẫn, quý ông có chí dẹp trừ, thần dân đều xin được làm thủ hạ.

Từ đó ông thường đến Đông Lỗ, xem xét địa thế, thấy cùng với trang Táo Tuyến đều không phải đất dụng võ, bèn rút về Long Biên cùng hội quân với anh họ là Lý Phật Tử, gửi hịch đi các nơi phủ huyện kêu gọi hào kiệt đồng tâm dựng nước, vì nghĩa dẹp tàn. Sau này nếu yên định được sẽ cùng hưởng phúc thanh bình. Khi ấy các chi binh mã đến ứng mộ cộng được hơn ba vạn người. Bèn lấy Triệu Quang Phục làm Tả tướng, Lý Phật Tử làm Hữu tướng. Trong vòng ba bốn năm đuổi được Tiêu Tư về Bắc, dẹp sạch bụi trần bốn phương, khôi phục núi sông nước Nam. Công Bôn bèn lên ngôi, tự xưng là Lý Nam Đế, đóng đô ở Long Biên, đặt quốc hiệu là Vạn Xuân.

Khi đó nội cung của Đế có 1 Hoàng hậu, 6 quý phi, 70 cung tần. Một hôm Đế xa giá đi tuần du ở Nam Hải gặp một người con gái tuổi khoảng ngoài 20, hình dung nhan sắc tựa như Hằng Nga trên trời. Đế tự nghĩ đây là tiên giáng, là phong nữ hay là kiều hoa, sao ở chốn này lại có người như vậy.  Bèn gọi lại trước mặt mà hỏi. Người con gái ấy đáp rằng:

– Thiếp vốn là người Nam Hải, nhà ở chốn này. Khi thiếp lên 3 tuổi, cha mẹ đều mất, nên không biết tên họ như thế nào. Đến năm 10 tuổi trước đây có một ông lão đầu bạc từ biển đến nói rằng thiếp khi ngoài 20 tuổi sẽ gặp được đấng quân vương. Nay thiếp đã tròn 22 tuổi, gặp được thiên nhan, tất là lão ông đầu bạc chính là bậc chân tiên vậy.

Đế nghe vậy vô cùng thích thú bèn cùng về triều, nhân nàng là người Nam Hải nên đặt tên là Nam Hải nương, lập làm Đệ nhất cung phu, tình yêu quý ngày càng thêm sâu sắc.

Khi ấy Đế ở ngôi được 3 năm, chỉ có Hoàng hậu sinh được hai người con gái, không có con trai. Một hôm Đế cùng với Hoàng hậu và các quý phi, cung tần hơn 20 người đi vãng du các danh lam thắng cảnh, cầu đảo mà vẫn chưa được linh nghiệm. Bèn ở trong cung, ngày đêm thắp hương đến các chư Phật trên trời giáng cho điều lành, cùng bách thần sơn thủy sớm ứng cho điềm tốt, sinh được người kế nối.

Đến đúng đêm Trung thu tháng 8 Đế cùng với Hoàng hậu, quý phi, cung tầm ngắm trăng. Đế bỗng nhiên thấy tâm thần mỏi mệt, bèn dựa án mà nằm, mơ màng thiếp đi, thấy mình cùng với cung phi Nam Hải nương cùng đến một nơi có đền đài nguy nga, quan hầu vô số, nghênh đón Đế cùng cung phi Nam Hải vào ngồi trên lầu cao. Trước mặt có một cuốn sách đỏ, bèn mở ra xem, thấy đều là chuyện các đời đế vương, lời lẽ tươi đẹp. Ở cuối chương có bốn câu rằng:

Thất niên chủ tể tác Nam giang

Thiên sổ an bài nữ hữu tam

Hoàng hậu quý phi giai nhất tuế

Cung phi Đông Lỗ dữ Đàn Bang.

Dịch là:

Bảy năm làm chủ ở Nam giang

Số trời an định nữ ba nàng

Hoàng hậu, quý phi cùng năm mất

Cung phi Đông Lỗ với Đàn Bang.

Đế lật lại muốn xem kỹ thì bỗng nhiên tỉnh giấc. Nghĩ lại bài thơ trong mộng không khỏi lấy làm lạ. Khi ấy có vị quý phi thứ ba là người động Hoa Lư, phủ Trường An, châu Ái, tên là Hoàng Thị Chung, gả cho Đế từ khi 21 tuổi, đến nay đã được 27 tuổi. Đêm hôm đó nằm mộng thấy một ông lão dắt đến một con rồng và nói rằng:

– Con rồng này là con rồng cái. Nương tới giờ vẫn chưa sinh nở nên ta ban cho con rồng cái này, tất sẽ sinh được.

Quý phi tỉnh lại đem việc trong mộng tâu lên. Đế nghe vậy nói rằng:

– Rồng cũng có rồng cái sao? Quả nhiên rồng cái là điềm sinh con gái. Cứ như mộng này tất sẽ sinh ra con gái.

Từ đó thấy quý phi mang thai, đến kỳ quả nhiên sinh hạ được một người con gái. Đế nhân giấc mộng của quý phi bèn đặt tên là Rồng Nương, như là ý trời vậy, mệnh Mão. Rồng Nương sinh được 5 tháng thì mẹ đẻ Hoàng Thị bị bệnh mà mất. Còn Hoàng hậu cùng với 5 vị quý phi cùng trong một năm đều qua đời. Đế đem người con Rồng Nương giao cho cung phi Nam Hải phu nhân tìm nhũ mẫu để nuôi. Nam Hải nương mười phần yêu thương như con mình sinh ra vậy.

Khi Rồng Nương được hơn 2 tuổi, Lương Võ Đế lại sai Bá Tiên, Dương Sàn cất quân đến đánh. Đế đánh trận gặp bất lợi nên lùi về ở động Khuất Liêu, rồi bị mắc bệnh đau dạ dày, phong khí nhập vào trong tâm can, không thể làm gì được. Mệnh Đế chỉ còn trong ngày đêm, nhìn quanh chỉ thấy cung phi Nam Hải nương ôm con gái Rồng Nương cùng với mấy người Đông Lỗ, huyện Chu Diên, phủ Tam Đái đứng hầu. Đế lấy trong túi riêng 40 lạng vàng, đem chia đều thành hai phần. Một phần cho cung phi Nam Hải, một phần ban cho người ở Đông Lỗ, rồi dặn rằng:

– Trẫm nay bị bệnh rất nặng, vạn phần sẽ mất. Duy chỉ muốn người con gái út Rồng Nương cùng với cung phi Nam Hải giao phó lại nhờ các ngươi. Sau khi Trẫm mất, các ngươi hãy dẫn trở về quê của các ngươi để nuôi dưỡng.

Lại nhân đó nói với Nam Hải nương rằng:

– Ta bất hạnh không có con trai, chỉ được ba người con gái. Hai người đã đều có nơi chốn, chỉ còn lại người con út cho nàng làm mẹ. Sau khi chôn cất ta xong mẹ con nàng hãy về ở Đông Lỗ.

Nói xong thì Đế băng hà vậy (khi đó là mùng 8 tháng 10). Nam Hải nương khóc lóc động trời, nhưng sự thể không thay đổi được. Bèn cùng với Lý Phật Tử, Triệu Quang Phục làm lễ chôn cất. Sự xong Lý Phật Tử vào động Dã Năng, Triệu Quang Phục về đầm Nhất Dạ. Nam Hải nương theo lời di chúc đem con gái út Rồng Nương cùng người Đông Lỗ trở về Đông Lỗ. Người Đông Lỗ đó kể lại rõ ràng việc Đế cho vàng và di chúc lại với phụ lão nhân dân. Vị Nam Hải là cung phi của Đức vua ông Lý Nam Đế. Rồng Nương là con gái út của Đức vua ông. Nhân dân nghe lời không khỏi cảm động, bèn lập một ngôi miếu nhỏ, viết thần hiệu Đức Vua Ông Lý Nam Đế để phụng thờ. Từ đó nhân dân tôn gọi Nam Hải là Đức Vua bà, gọi Rồng Nương là Đức Vua con, hiệu là Ả Toát, mà không gọi tên.

Từ đó cung phi Nam Hải cùng với Rồng Nương sống ở Đông Lỗ, khuyến khích nghề cấy trồng dệt vải, tạo điều tiện lợi, trừ dẹp điều hại, thật là có nhiều công lao với dân vậy. Đến khi Rồng Nương lên 14 tuổi thì xuất gia ở trong chùa Đông Lỗ thờ Phật, cải tên là Đàn Bang.

Khi ấy Triệu Quang Phục trở về ở Dạ Trạch, có được móng rồng để trên mũ đâu mâu, hướng vào đầu thì khắc chế được nơi đó, là điềm trời ứng vậy, bèn tự lập là Triệu Việt Vương. Bèn lệnh các tô thuê và phục dịch của Đông Lỗ làm bổng lộc cho cung phi Nam Hải nương cùng với Ả Toát Rồng Nương Đàn Bang. Đến khi Nam Hải nương 50 tuổi, Rồng Nương 27 tuổi thì đều không bệnh mà mất. Nhân dân Đông Lỗ dâng tấu lên Triệu Việt Vương. Vương dùng lễ hậu sai cùng đón về quê Đế ở Thái Bình, chôn cùng với Đế một nơi. Chôn cất xong nhân dân Đông Lỗ trở về, nhớ đến công đức bèn viết thần hiệu Đức vua bà Lý Nam Đế cung phi Nam Hải phu nhân, Đức vua con Lý Nam Đế con gái út tên Ả Toát Rồng Nương Đàn Bang tôn thần, mà lập các miếu để phụng thờ.

Thời Việt Vương có truy tặng mỹ tự Ngọc bệ hạ. Hậu Lý Nam Đế cũng truy tôn mỹ tự Chí Di [Quốc vương Thiên Tử Ất] Lý Nam Đế v.v. Thời Tùy Văn Đế cho Lưu Phương làm Thái thú đất Việt ta. Lưu Phương đến đất Việt tới đền Đông Lỗ, giáng Đế xuống là Nam Giang Đại vương, nhưng vẫn cho Đông Lỗ phụng thờ.

Nhân dân vâng ghi:

Vâng chép sinh hóa các tiệc cùng với các chữ húy nhất thiết cấm là năm chữ Bôn, Nam, Hải, Rồng, Nương.

Ngày sinh của Đế là 11 tháng Giêng, dùng lợn đen, xôi, rượu, ca hát.

Ngày hóa là mùng 8 tháng 10, dùng cỗ trâu, xôi, rượu.

Ngày sinh của vị Nam Hải không rõ. Ngày hóa là 20 tháng 3, dùng gà, lợn, xôi, rượu.

Ngày sinh của Đức Vua con là mùng 10 tháng 8. Ngày hóa là 20 tháng 2.

Hoàng triều niên hiệu Hồng Phúc năm thứ 9 ngày tốt tháng cuối xuân, Hàn lâm viện Đông các Học sĩ, thần là Nguyễn Bính vâng soạn.

Hoàng triều niên hiệu Vĩnh Hựu năm thứ 2, ngày tốt tháng đầu thu, Quản giám bách thần Tri điện Hùng lĩnh Thiếu khanh, thần là Nguyễn Hiền tuân theo bản chính mà vâng chép.

Một trang ngọc phả thôn Đại Phúc.

Bảy quận núi sông nước Nam

Hậu Hán thư ghi: Năm Nguyên Đỉnh thứ 5 (112 TCN) đời Hán Vũ Đế bèn diệt Nam Việt chia đặt thành 9 quận, do Thứ sử Giao Chỉ lĩnh lấy, trong đó 2 quận Châu Nhai, Đạm Nhĩ trên bãi ngoài biển. 9 quận chia ra từ nước Nam Việt cụ thể là nằm ở đâu?

Đến thời Sĩ Nhiếp thì Giao Châu chỉ còn 7 quận: Giao Chỉ, Cửu Chân, Hợp Phố, Thương Ngô, Uất Lâm, Nhật Nam, Nam Hải, gọi là “thất quận sơn hà”, thường được nhắc đến trong các thần tích về nước Nam. Như thế rõ ràng 2 quận Châu Nhai và Đạm Nhĩ không thể nằm ở đảo Hải Nam, mà là vùng đất xa hơn về phía Bắc giáp biển.

Châu Nhai vốn là tên của đảo Đài Loan như được ghi trên tấm bia bài minh Mộ Chí tiến sĩ Thái Đình Lan của Lâm Hào đời nhà Thanh soạn: “Miền Chu Nhai hoang phục xa xôi,  đất Quỳnh Sơn tích học, khởi nghiệp.” Do đó quận Châu Nhai phải là vùng tỉnh Phúc Kiến ngày nay.

Đạm Nhĩ tương tự sẽ là vùng Chiết Giang, nơi nhà thơ Tô Đông Pha từng đi lưu đày và làm bài thơ Cư Đam Nhĩ. 2 quận Châu Nhai và Đạm Nhĩ tương ứng là đất Mân Việt vào đầu thời Tây Hán. Do Mân Việt phục tùng nước Nam Việt nhà Triệu nên khi Hán Vũ Đế chia đất Nam Việt đã tính cả vùng đất Mân thành 9 quận.

Vị trí quận Nam Hải khả dĩ nhất là vùng Quảng Đông, không gây tranh cãi nhiều. Còn Hợp Phố là phía Nam Quảng Tây, nơi ngày nay vẫn còn địa danh huyện Hợp Phố. Uất Lâm hay Quế Lâm là phía Bắc Quảng Tây, nay còn thành phố Quế Lâm giáp với Hồ Nam. Quận Thương Ngô nằm gần với đất Mân Việt nên thuộc vùng Giang Tây ngày nay.

Vấn đề còn lại là 3 quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam thời Tây Hán nằm ở chỗ nào?

Quận Cửu Chân theo Truyện Nhâm Diên trong Hậu Hán thư thì giáp với Dạ Lang, mà Dạ Lang nằm ở Quý Châu. Theo Thái Bình hoàn vũ ký thì quận Cửu Chân Bắc giáp Ba Thục, Đông giáp Uất Lâm, Tây giáp Tường Kha, Nam giáp Nhật Nam. Ba Thục chính là đất Dạ Lang ở Quý Châu (không phải Xuyên Thục là Tứ Xuyên). Tường Kha là tên khác của Tượng quận, thuộc Vân Nam. Suy ra Cửu Chân nằm ở quãng phía Tây của Quảng Tây, giáp với Vân Nam.

Quận Nhật Nam là một quận mới xuất hiện khi Hán Vũ Đế chia Nam Việt thành 9 quận, vì trước đó thời nhà Triệu chỉ thấy nói đến cử người đến quản Giao Chỉ và Cửu Chân. Nhật Nam lúc này không ở vùng miền Trung Việt vì nó được biết là giáp với quận Cửu Chân ở trên.

Đặc biệt bản thần tích ở đất Thái Bình về bà Vương Chiêu Quân thời Hán Nguyên Đế cho một thông tin hết sức lạ: cha của bà là Vương Thức, người trang Bát Đồn (ở Thái Thụy, Thái Bình) làm Thái thú quận Lâm Ấp ở Nam thổ. Có thể thấy Lâm Ấp đây chính là chỉ quận Nhật Nam thời Tây Hán. Vị trí quận này khi đó bao gồm vùng tỉnh Thái Bình.

Bài vị Thái thú Vương Thức ở đền thờ bà Chiêu Quân tại thôn Diêm Tỉnh, Thụy Dũng, Thái Thụy, Thái Bình.

Từ thông tin này có thể đi đến nhận định rằng Nhật Nam là phần phía Đông vịnh Bắc Bộ, có thể cả phần Bắc Trung Bộ Việt. Còn quận Giao Chỉ như thế sẽ là phần Tây Bắc. Sự phân chia này còn thấy sau đó khi Sĩ Nhiếp cai quản vùng phía Đông Nam, Mạnh Hoạch chiếm giữ vùng Tây Bắc. Ranh giới Đông Tây lúc này theo truyền thuyết là bãi Quân Thần ở Thượng Cát – Từ Liêm. Nói cách khác quận Giao Chỉ thời nhà Triệu tới thời Tây Hán đã được tách thành 2 phần Tây Bắc và Đông Nam, là Giao Chỉ và Nhật Nam. Lý do sự chia tách này là bởi vùng phía Tây là địa bàn của hậu quân nhà Triệu Nam Việt chống lại nhà Tây Hán, được biết trong sử Việt với tên gọi Tây Vu Vương, hoặc sau đó là khởi nghĩa của Hai Bà Trưng ở Phong Châu phía Tây.

Việc xác định quận Giao Chỉ và Nhật Nam vào thời Tây Hán là 2 vùng Tây Bắc và Đông Nam nước ta là một nhận định mới, liên quan đến nhiều sự kiện lịch sử trong thời gian tiếp theo. Ví dụ như sự kiện Khu Liên, con một công tào địa phương đã nổi dậy ở Lâm Ấp. Rõ ràng Lâm Ấp lúc này gồm cả miền Bắc Việt, chứ không không chỉ là ở miền Trung.

Tiếp nữa là việc Sĩ Nhiếp có bố là Sĩ Tứ, vốn là Thái thú quận Nhật Nam thời Hán Hoàn Đế. Với việc xác định Nhật Nam là vùng phía Đông Nam miền Bắc nước ta thì việc Sĩ Nhiếp nối tiếp vị trí Thái thú Nhật Nam của cha là rất hợp lý. Nếu quận Nhật Nam lúc này mà ở tận Nam Trung Bộ thì làm sao Sĩ Nhiếp lại trở thành Thái thú ở miền Bắc?

Rồi còn những chuyện như thời Lý Nam Đế giặc Lâm Ấp vào xâm chiếm. Tả tướng Triệu Quang Phục được cử đi dẹp Lâm Ấp… Rõ ràng Lâm Ấp lúc này ở ngay cạnh khu vực miền Bắc nước ta chứ không phải ở tận miền Nam Trung Bộ, muốn đánh ra Bắc còn phải qua Bình Trị Thiên rồi Thanh Nghệ.

Vị trí các quận phía Nam thời Tây Hán.
Chữ trắng là địa danh ngày nay. Chữ vàng là tên các quận thời Tây Hán. Chữ xanh nước biển là tên nước.

Thần tích bà Vương Chiêu Quân ở Diêm Tỉnh, Thụy Dũng, Thái Bình

Lễ bộ Thượng thư Quản giám tri điện triều Lê vâng sao ghi chép phụ cổ truyền

Cung Khảm, thần tích hạng phụ

Hoàng đế bệ hạ phụng ban sắc văn và thần hiệu. Sắc phong cho Đương cảnh Thành hoàng Gia từ Hoàng Thái hậu Tiên huy Thái trưởng Chiêu Quân Công chúa Đại vương.

Sắc văn: Tôn nghiêm chỉ thuận, anh dục sơn xuyên, tú chung hà hải, cao phối thiên, hậu phối địa, hộ quốc tý dân, hách quyết thanh, trạc quyết linh, dực bảo trung hưng, thánh hoá đạt văn, khoan hoà nhân thứ, đặc đạt tiềm mặc, hoằng thâm phổ hợp, trừng trạm cảm ứng, tối linh từ đức, phu liệt thánh nữ, đằng vân giá vũ, hiển ứng huân hao. Tặng truy Hoàng Thái hậu. Cho phép khu Hạ, trang Bát Đồn, quận Hạ Hồng, trấn Nam Định, phụ lão nhận một đạo sắc văn trở về phụng thờ, cùng trợ giúp bảo vệ nhân dân ta. Vâng thay!

Xưa từ khi trời Nam mở vận, chia ngang theo sao Dực Chẩn, ban đầu phong thẳng hướng sao Đẩu Ngưu. Vốn từ cháu ba đời của họ Thần Nông là Đế Minh, sinh ra Đế Nghi, nhân đi tuần phương Nam ở núi Ngũ Lĩnh mà lấy được Tiên Vụ Nữ, mà sinh ra Kinh Dương. Dương có thánh trí thần tài, vượt trội hơn thánh Đế Nghi. Đế Minh muốn truyền ngôi báu cho để trị vạn bang. Kinh Dương cố nhường cho anh. Thế là Đế Minh lập Đế Nghi, còn phong vương ở phương Nam, gọi là họ Hồng Bàng. Kinh Dương vâng mệnh vua cha dẫn tướng phát oai, lấy người con gái của Động Đình Quân, sinh ra Lạc Long Quân, có điềm bách nam, sinh một bầu trăm trứng, phân thành trăm họ, đặt ra trăm tên, phong làm trăm vương, trấn giữ một phương, là thủy tổ của Bách Việt vậy.

Người con trưởng là Quốc Vương nối trị, 18 đời sau đó đều gọi là Hùng Vương. Đến khi Thục Vương tên Phán lên ngự trị được 50 năm thì bị họ Triệu thôn tính. Triệu Vũ Đế là đại tướng của Tần, gặp lúc Tần giao tranh mà tự giữ ở phương Nam. Nhà Hán sai Lục Giả mang ấn thư đến phong cho ở phương Nam, quyền quản Bách Việt. Sau này bởi Lữ Gia không tuân theo mà Ai Vương khó giữ nước. Nhân đó lại thuộc về Bắc vậy. Nhà Hán bèn lập thủ lệnh các quận huyện, hoặc có lúc chính sự tốt, cũng như lúc gây thế sự tham tàn đều có vậy. Đến thời Nguyên Đế mới cùng hợp lại với Trung Quốc.

Vương Thức vốn là người ở một làng có tiếng của khu Đồn Hạ nước Nam. Khi còn nhỏ đi du học, tỏ rõ có nhiều chỗ hơn người. Đến khi trưởng thành thi đỗ khoa Mậu Tài, làm Thái thú Kim Thành. Sau về làm Thái thú Lâm Ấp. Ở đó lấy vợ tên là Phạm Thị Dụ, gặp được mộng rắn, đến ngày 12 tháng 3 thì sinh được một người con gái quý. Hôm ấy hương thơm bay ngào ngạt, trong trướng rạng rỡ, xuất hiện 4 vị tướng lạ, 3 con rồng bay quanh nhà. Ngày hôm đó ở trên trời trong nội thành vang lên ba tiếng động lớn, làm rung chuyển núi sông cây cỏ. Trên điện có vạn thú đến chầu. Dưới chân núi sóng nước nổi dồn dập. Trăm thú, kình nghê, lân ngư, vạn vật theo mưa gió mà tới chầu cống. Người người thấy điềm lạ dị thường đó lấy làm vui mừng. Thái thú Vương Thứ nhân đó mà đặt tên là Vương Tường.

Ngày ngày thường ở yên một nơi trong phòng, tự học xem sách, không chờ người chỉ dạy mà tiêu đàn thành thạo, âm luật tinh thông, binh thư, cung trượng không gì là không biết. Đến năm mới 14 tuổi đã có phong tư đẹp đẽ, sắc nước hương trời, không ai sánh nổi.

Khi ấy vua Hán vào ngày mùng 1 tháng 8 nằm mộng thấy một Lão tiên đến mang cho một nữ tử, nói rằng:

–          Người này đúng là giúp nước cứu dân, trung trinh chỉ một, ở tại đất Nam, trong nhà Thái thú.

Dứt lời thì bay lên không trong khoảnh khắc không có ai thấy nữa. Đế tỉnh lại cho là sự rất lạ, ngẫm lại tưởng đến người con gái đó có một nốt ruồi ở bên má trái. Đến rạng ngày cho hội quần thần đến phán rằng:

–          Đêm qua Trẫm nằm mộng thấy một ông lão đem đến một người con gái, nói rằng người này ở tại nhà Thái thú đất Nam. Người này giúp nước cứu dân, trung trinh chỉ một. Đình thần hãy cử họa sĩ đến đất Nam xem xét tình hình mà vẽ lại người đó. Có tin tốt tâu về sẽ có thưởng.

Khi đó triều đình cử Diên Thọ phụng mệnh. Diên Thọ đi để vẽ tranh, khi đến Thái thú Lâm Ấp thấy Vương Tường đẹp tuyệt như tranh vẽ mà run lòng mất mật. Vì thế Thái hậu tự vẽ để mang về tâu với vua Hán. Vua Hán xem nhận ra nốt ruồi lạ thấy đúng người con gái đó, lập tức viết chiếu thư cử mang đến gọi Vương Thức về cửa ngọc, sai quan mang đồ sính lễ đến. Vương Tường tâu với cha cho mua thêm ao ruộng, đất đai, ban ơn cho các phụ lão nhân dân các nơi. Rồi được thưởng tước vị, đón về kinh thành.

Vua Hán vì thế mà rất vui mừng, đến khi mở mạng che mặt thấy mày loan như trăng mới mọc, mắt nhẹ nhàng như sóng mùa thu, tóc sáng như gương soi, da trắng mịn màng, sắc sáng như mặt hồ nước, vẻ đào có dung mạo chi sa cá lặn, nguyệt thẹn hoa nhường. Đem so với hoa thì hoa hết lời, đem so với ngọc thì ngọc sinh hương, cùng là vẻ toàn mỹ vậy. Vua rất yêu quý, được sủng hạnh trong cung không ai bằng.

Lại nói, khi ấy Diên Thọ đã vâng chỉ làm thợ vẽ, thấy sắc đẹp của Thái hậu nên muốn lấy, có ý gian không vẽ mà bàn chuyện nghĩa lý. Thái hậu không theo. Thái hậu tự vẽ bức chân dung đó. Khi Thái hậu đi rồi, Diên Thọ đem tiến bức vẽ cho vua Hồ. Vua Hồ rất khen ngợi, giữ Diên Thọ ở lại kinh đô nước đó, rồi viết một bức tâm thư gửi cho vua Hán xin cưới Công chúa giống như trong bức tranh. Nếu không lấy được tất sẽ gây chiến tranh để chiếm lấy. Vua Hán bất đắc dĩ than rằng:

–          Tưởng được ước nguyện dài trăm năm mà lại thành cách biệt. Nếu qua được tình cảnh trước mắt này thì sẽ tích lực tăng uy, ngày sau sẽ phá vua Hồ.

Thái hậu bèn vượt biên ải sang triều đình nước Hồ. Nhân dân ai cũng thương xót cho là trời xui khiến vậy. Trên đường đi khi tới núi Cửu Cô, có bầy tiên 9 người đang tắm ở bên bờ biển, thấy thuyền rồng của Thái hậu đến gần liền hỏi:

–          Chúng ta với nàng cùng là nữ, sao nương lại gặp phận duyên như thế?

Thái hậu nói:

–          Em tuân theo mệnh trời giáng làm người trần. Vua Hán lệnh gọi đi cống vua Hồ. Ngưỡng mong các chị hãy cứu giúp kẻ phàm dân này.

Bầy tiên phán rằng:

–          Nay chúng em vâng chiếu chỉ của trời đi du chơi bên bờ biển. Nay đã thấy có lời này tất phải cứu giúp.

Bầy tiên tìm trong tay áo lấy ra 3 viên thuốc, bảo hãy nuốt lấy. Chín tiên nữ lại tặng cho một chiếc áo bàn lửa, nhìn xa như hình kim nhọn chích Hồ. Người người thấy đều sợ hãi. Khi đến kinh thành Hồ, vua Hồ ra đón. Khi đó Thái hậu chưa mặc áo lửa. Vua Hồ rất yêu thích, thấy thế rất sủng ái. Đến khi Thái hậu mặc chiếc áo bàn lửa, vua Hồ bàng hoàng sợ hãi. Vua Hồ nghe lời liền yêu thích tiếng nói đó, sao có thể cùng ở được. Nên 16 năm không dám động vào thân thể. Khi ấy Thái hậu xin được dựng một cây cầu ở sông Hắc thủy. Cầu xây xong Thái hậu xin vua Hồ cầu đảo núi sông thần kỳ. Vua Hồ đều theo mà lập lễ, cầu trời đất, bách linh thần. Bỗng nhiên thấy một áng mây trắng phủ như cung điện nguy ngà, khói sương lấp lánh, rồng mây bốn bức, mờ mịt lâu đài nước Trúc, núi sông một bầu, thấy đó cảnh thú vị Bồng Lai. Trời đất tối tăm, nước sông kêu ầm ầm như sấm chớp nổi lên. Giao long, cá, ba ba trùng trùng liền như sóng vạn phái. Côn kình lớp lớp như sóng cuộn ngàn tầng. Lại có rồng vàng dài hơn một trượng, cuốn thân chờ đợi.

Thái hậu cầu chúc trời đất bách thần mà thấy trăm hoa giấu mặt, hương bay khí lạ, rồi nhảy xuống sông cưỡi rồng mà đi. Đó là ngày 13 tháng 12. Vua Hồ không biết sao đành dẫn quân về.

Lại nói, Thái hậu tên húy là Vương Tường, tên chữ là Chiêu Quân. Nhà Hán phong mỹ tự. Nước ta niên hiệu thời Vĩnh Hữu phong là Hiển linh Trợ thuận Thiên huy Thái trưởng Công chúa, cho 72 đền miếu phụng thờ. Nay còn di chỉ ở trang Bát Đồn, dựa Nhâm hướng Bính.

Thánh phụ chức vốn là Thái thú, tên húy là Vương Thức, tức chữ là Tử Bình.

Thánh mẫu theo phẩm trật là Nhị phẩm phu nhân, tên húy là Phạm Thị Dụ, hiệu là Đức Lộc.

Ngày sinh là 12 tháng 3. Ngày hóa là 13 tháng 12.

Lễ dùng bánh trôi, chay bàn, xôi ngon, gà quý, rượu ngọt, tiền vàng, ca hát, vui chơi.

Năm Chiêu Thống thứ nhất triều Lê vâng sao.

Đền thờ bà Vương Chiêu Quân ở Diêm Tỉnh.