Thục An Dương Vương truyền kỳ Hồi IV

Hồi IV

Khuyên bạo quân Huyền Thiên cầu Thất Diệu
Cứu nhân thế Khổng Tử soạn Thư Kinh.

Từ khi Khương Thái Công câu cá bên bến Việt Trì, Thục Phán dời đô về Cảo kinh đất Âu, Thục triều trải qua mấy trăm năm, truyền đến đời Chu U Vương. U Vương bản tính quái dị, sủng ái người đẹp Bao Tự. Để mua tiếng cười của mỹ nhân, U Vương đã cho nổi lửa Ly Sơn, kinh động các nước chư hầu anh em mà làm trò vui. Đánh mất đạo trời, không bao lâu sau Cảo kinh bị Khuyển Nhung tấn công. U Vương phải bỏ kinh thành mà chạy trốn. Hùng Tạo Vương nối ngôi buộc phải dời kinh đô về đất Lạc. Từ đó, thế vận nhà Thục đã suy, chư hầu tự nổi lên xưng hùng xưng bá thiên hạ.

Huyền Thiên Trấn Vũ vốn là một vu sư, quê ở đất Kim Bảng (Hà Nam), làm quan thủ thư của nhà Thục ở Lạc Ấp. Trước cảnh U Vương bạo ngược, lại thêm khi dời đô vùng Tam Giang gặp cảnh động đất liên tục. Thành Lạc Dương cứ xây lại đổ. Huyền Thiên nhân đó bèn lập đàn trên núi Võ Đang ở Cổ Loa, tế cầu trời đất.

Trên núi Thất Diệu, sau khi đăng đàn tế lễ, Thục An Dương Vương đã đào được các chiêng trống, xương cốt cổ, vốn là di tích của cuộc chiến Hùng – Thục dưới thời Vũ Vương và Thánh Gióng diệt Trụ. Huyền Thiên Lão Tử dựa vào đó đã bày chuyện yêu quỷ Ma Lôi, Bạch Kê là hậu duệ của Hùng Duệ Vương phá hại, nhằm mục đích khuyên răn Thục U Vương.

Huyền Thiên Lão Tử còn giảng đạo ở Lạc Dương. Trước khi ra đi, ngài đã ghi những điểm cốt yếu trong học thuyết của mình trong cuốn Đạo Đức kinh và để lại cho quan lệnh doãn Kim Quy làm báu vật thấu suốt nhân gian. Học thuyết “móng rùa” của tiên nhân Huyền Thiên truyền lại cho Thục An Dương Vương, góp phần củng cố Thục triều kéo dài thêm hơn 400 năm nữa.

Đông Chu phong vũ thị hà thì, biệt bả thanh hư khai Đạo Giáo
Nam Việt sơn hà duy thử địa, độc truyền ảo hóa tác thần tiên.

Nối tiếp tư tưởng Đại Đạo của Lão Tử, một triết gia khác đến từ nước Lào là tên là Trọng Ni. Ông đi bôn ba khắp các nước chư hầu để giảng về Lễ, nhưng không được trọng dụng. Cuối cùng ông quay về quê hương bên dòng sông Lam, mở trường thu nhận đệ tử, soạn kinh san định lại lịch sử, văn hóa, tín ngưỡng, âm nhạc của thời Văn Lang, viết bằng chữ Khoa đẩu. Điển chế lễ nhạc từ Cao Lỗ Vương, Kinh Dịch âm dương bánh chưng bánh dày từ Lang Liêu, lịch sử Xuân Thu chép đến đời Lỗ Ai Công thì dừng bút, phong dao của những bậc tiền hiền như Chu Công, Thiệu Công cùng với lời hay ý đẹp trong dân gian đã được Khổng Tử biên chép, tuyển soạn. Nền tảng của Nho Đạo được xây dựng, đúc kết tinh hoa văn hóa Hùng Thục từ quốc tổ Hùng Vương mà truyền cho vạn thế.

Sở bang lộc mộng địa chung linh, vạn niên tiên chủ
Lỗ ấp lân thư thiên thụy biểu, thiên tải tố vương.

Tượng Lão Tử ở chùa Bổ Đà, Bắc Giang

Tượng Khổng Tử ở chùa Bổ Đà, Bắc Giang

Đình Võ Liệt ở Thanh Chương, Nghệ An, từng là nơi thờ Khổng Tử

Cửa võng đình Thổ Hà, Việt Yên, Bắc Giang

Ngai vị Thiên Tôn ở đền Đa Giá, Ninh Bình

Hoành phi “Đại Thành miếu” đình Trung Cần, Nam Đàn, Nghệ An

Huyền Thiên Trấn Vũ, tranh thờ người Dao ở Yên Bái

Huyền Thiên Trấn Vũ ở chùa Cầu, Hội An

Huyền Thiên Đại Thánh ở đền Huyền Kỳ, Quỳnh Lưu, Nghệ An

Múa nam nữ đồng tử trong lễ hội Thổ Hà, Bắc Giang

Thái Thanh Đạo Đức Thiên Tôn và Chu Lăng Độ mạng trên tranh thờ của người Dao

Tượng Khổng Tử ở văn chỉ Minh Hương, Hội An

Văn Thánh miếu ở Hội An

Đình Thượng Lực Giá, Thiên Tôn, Ninh Bình

Đình Tri Lễ, Thạch Hà, Hà Tĩnh, nơi thờ Khổng Tử là thành hoàng.

Đình Thượng Nguyên, Thạch Hà, Hà Tĩnh, nơi thờ Khổng Tử là thành hoàng

Tam Thanh ở chùa Thiên Tôn, Ninh Bình

Diệu Thiện Quan Âm ở chùa Thiên Tôn, Ninh Bình

Trang Vương ở chùa Thiên Tôn, Ninh Bình

Tam Đa, Song Đồng Ngọc Nữ trong lễ hội Thổ Hà

Trâu xanh ở đình Giáp Nhị, Thịnh Liệt, Hà Nội

Huyền Thiên Trấn Vũ ở động Thiên Tôn, Ninh Bình

Ngũ môn đền Sái trên núi Võ Đang ở Đông Anh

Ngọc hư cung khuyết trong đền Huyền Thiên ở Hàng Khoai, Hà Nội

Văn Thánh miếu ở Huế

Thục An Dương Vương truyền kỳ Hồi III

Trăm anh em phân bình thiên hạ
Một Dịch kinh đúc kết trống đồng

Sau cuộc Phong thần ở núi Vệ Linh, Thái Công Khương Thượng trở về đất phong của mình là nước Tề, ở vùng ven Biển Hồ. Cơ Phát lên ngôi xưng Thiên tử và dời lại kinh đô về đất Cảo ở Ai Lao (Âu – Vân Nam). Đất Âu với Cảo kinh là vùng phía Tây Văn Lang. Đất Lạc trở thành vùng đất phía Đông của nước Văn Lang.

Các đại công thần lập quốc khác cùng đều được phân phong tương ứng theo công trạng. 2 đại thần lớn nhất lúc này là Chu Công Đán và Thiệu Công Thích.

Chu Công Đán là một trong trăm người em của Hùng Quốc Vương Cơ Phát. Ông được phong ở đất Lào (Lỗ) nhưng không về nước mà ở lại triều đình. Võ Vương mất, con trai lên ngôi là Chu Thành Vương, thì Cơ Đán được giữ chức Thái bảo, còn gọi là Lỗ quốc Thái sư, tức thần Cao Lỗ.

Cao Lỗ dùng chiếc “móng rùa” Dịch lý mà chế thành trấn bảo của nước Văn Lang là trống đồng. Ông là người đã phát triển Dịch học từ thời Lang Liêu Văn Vương, đặt ra các lời hào cho 64 quẻ của Kinh Dịch. Cũng Chu Công là người đã lập nên khu vực Lạc thành ở Đông Ngàn Cổ Loa, làm nơi an trí đám ngoan dân dòng dõi nhà Ân tại đây.

Lỗ quốc lúc này bao gồm vùng đất hai bên bờ sông Mã, mà trung tâm của nó là vùng Thanh Hóa. Cao Lỗ được thờ ở đây dưới tên Đồng Cổ Sơn thần, nghĩa là vị thần tổ trống đồng (Sơn = tổ). Vùng đất trống đồng Đông Sơn chính là nước Lỗ của Chu Công.

Người anh em cùng bọc  khác là Thiệu Công Thích, được phong ở đất Yên. Nước Yên nay ở quãng miền Trung Việt. Cũng như Chu Công Đán, Cơ Thích ở lại trong triều phụ giúp Chu Thành Vương, dẹp phản loạn. Ông làm đến chức Thái phó trong Thục triều. Nói về ông có điển tích cây “Cam đường bất phạt” lấy từ Kinh Thư thiên Thiệu Cáo, khi Thiệu Công dùng đạo trời khuyên vua hãy nhân từ mà tha cho dân đất Lạc (tức hậu duệ của Hùng Vương được an trí tại đây).

Thời Thành Vương nước Việt Thường, là con cháu nhà Hạ Trung hưng ở vùng cửa sông Dương Tử cử sứ giả qua ba lần thông dịch vào Cảo kinh cống Chim trĩ trắng, chính thức gia nhập vào thiên hạ của nhà Chu. Chu Công ban cho sứ giả Việt Thường cỗ xe chỉ Nam dẫn đường. Sứ giả Việt Thường đi dọc sông Mê Kông qua các nước Tề (Phù Nam), Lỗ (Lâm Ấp) rồi men theo bờ biển Đông mà về nước.

Người anh em khác trong bọc trăm trứng của Hùng Quốc Vương là Cơ Cao. Khi Hùng Quốc Vương phạt Đế Tân, Cơ Cao cầm búa nhỏ, Cơ Đán cầm búa lớn đi hộ vệ. Sau này Cơ Cao tiếp quản việc cai trị ở Lạc Ấp và có công ổn định được đám ngoan dân tại đây. Vì thế nên ông được phong là Tất Công (tất trong hoàn tất, lấy ý của thiên Tất Mệnh trong Kinh Thư). Cơ Cao là tổ của Phan tộc, đất phong ở Phù Nam. Ngày nay ông được thờ ở vùng Thị Cấm Xuân Canh tại Hà Nội với tên Phan Tây Nhạc.

Trăm anh em của cùng một mẹ Âu Cơ đã chia nhau nơi đầu núi góc biển, an định Thiên hạ, đồng tôn Hùng Quốc Vương là Thiên tử. Chế độ phong kiến thị tộc phân quyền chính thức được khởi đầu. Các dòng họ người Việt cha truyền con nối cũng bắt đầu từ đó.

Ngôi vị thiên tử nhà Chu truyền được mấy đời, tới Chu Mục Vương cưỡi xe bát mã lên núi Côn Lôn tìm cung điện của Hoàng Đế và gặp được Tây Vương Mẫu. Đó là chuyện Lang Liêu cầu tiên ở núi Tam Đảo và kết duyên với nàng Lăng Thị Tiêu, thần núi ở Tây Thiên.

Nếp gấp phân phong, lễ nhạc của nước Văn Lang đã định hình văn hóa xã hội Việt, mãi đi vào chính sử nước nhà với tên Văn Lang – Âu Lạc của các vị vua Hùng, vua Thục.

Sổ thiên niên vương tá thủy chung, phụ tử quân thần khai chửng điểm
Thập ngũ bộ thiên phân thảo dã, sơn hà nhật nguyệt cộng trường tồn.

Tranh sứ tế lễ thời Hùng Vương ở Bảo tàng đền Hùng, Phú Thọ.

Cung thờ Cao Lỗ ở Cao Đức, Bắc Ninh.

Đền thờ Cao Lỗ trong cụm di tích Thành Cổ Loa

Đền Đồng Cổ ở Đan Nê, Thanh Hóa

Núi Đồng Cổ ở Đan Nê, Thanh Hóa

Mặt trống đồng Gia Phú, bảo vật quốc gia ở Lào Cai

Mặt trống đồng Pha Long, bảo vật quốc gia ở Lào Cai.

Đền Cao Lỗ ở Hoằng Hóa, Thanh Hóa

Nội điện đình Nghi Tàm, Hà Nội thờ Lỗ quốc Thái sư

Đền Trần Đăng, Ứng Hòa thờ Cao Lỗ

Trống đồng

Đình Tri Cẩn thờ Cao Lỗ ở Thiệu Hóa, Thanh Hóa

Bình đồng với bài minh văn nhắc tới tên của 10 vị vua thời Tây Chu

Cự thạch Thạch Bàn trên đỉnh Phù Nghi, Tam Đảo

Đình Dữu Lâu, Việt Trì, nơi từng có phủ Lang Liêu

Đình Hòe Thị ở Xuân Phương, Hà Nội thờ Phan Tây Nhạc

Thi nấu cơm trong lễ hội làng Thị Cấm, Xuân Phương, Hà Nội tưởng nhớ Phan Tây Nhạc (ảnh Nguyễn Vinh Việt)

Sưu tầm đồ đồng Đông Sơn ở nhà nghệ nhân họ Thiệu tại Thiệu Hóa, Thanh Hóa

Nội điện thờ Thủy tổ Phan Tây Nhạc ở Thanh Hóa

Thần núi Tam Đảo ở đỉnh Phù Nghi

Thục An Dương Vương truyền kỳ Hồi II

Bến Việt Trì Thái Công câu cá
Núi Vệ Linh Thánh Gióng phong thần
.

Thục Vương Cơ Xương là người ở vùng đất Âu, đánh bại Lạc hầu Sùng Lãm, dời đô từ đất Âu về đất Lạc, dựng nước Âu Lạc, lập kinh thành Phong Châu. Sử Việt gọi Cơ Xương là Âu Cơ. Mặc dù Âu Cơ Xương đã chiếm được 2 vùng Tây và Bắc (Nam nay) của thiên hạ, nhưng đe dọa từ Hùng Duệ Vương Đế Tân vẫn không ngừng tăng lên.

Lo lắng trước vận nước khó khăn, một hôm Âu Cơ đi dạo ngoài thành Phong Châu, cạnh chùa Hoa Long ở bến Việt Trì. Chợt thấy một lão ông tuổi ngoài 80, cầm một cây cần trúc đứng trên bàn thạch bên bến sông Việt Trì, dáng vẻ ung dung, có cốt cách của thần tiên. Âu Cơ lấy làm lạ tiến đến hỏi chuyện, thì thấy quả đúng đây là người hiền tài hiếm có, có thể phò tá gây dựng vương nghiệp thiên thu. Cơ Xương bèn phong cho ông lão làm Thái Công, giao phó hết trọng trách trong nước cho Lã Vọng.

Một ngày đẹp trời Cơ Xương về bên đất Hiền Lương ở Hạ Hòa, Phú Thọ mà hóa về trời. Con trai Cơ Xương là Cơ Phát hay Thục Phán lên nối tiếp sự nghiệp, tôn phong cho cha mình là Văn Lang (Văn Vương). Lập đền thờ ở xã Hiền Lương (Hiền vương), ngàn năm hương hỏa không cùng.

Cơ Phát khi chưa kế vị có tên là Ninh Vương. Người Việt thờ ông là Hùng Linh Công ở vùng Việt Yên (Bắc Giang). Cũng từ tên gọi này mà vùng Bắc Ninh xưa được gọi là Vũ Ninh, chỉ Ninh Vương Cơ Phát.
Khương Thái Công được sự cầu hiền của Văn Vương, dốc lòng phò trợ Cơ Phát, phát loa gọi khắp bốn phương tám hướng, chiêu hiền tuyển tướng, kết tập chư hầu, hẹn ngày phạt Trụ. Sứ giả đi đến làng Phù Đổng ở Vũ Ninh thì gặp được thiên thần giáng thế trong một cậu bé 3 tuổi làng Gióng, vươn vai phút chốc đã thành một đại tướng. Thái Công lấy Na Tra làm tướng tiên phong, gấp rút chuẩn bị quân đội đối phó với giặc Ân.

Lúc này Đế Tân sai Thạch Linh Thần tướng cùng các nữ tướng Ân là Ma Cô Tiên, Bạch Kê dẫn quân Bắc chinh (Nam nay). Thạch Linh kéo quân tới vùng núi Châu Sơn ở Vũ Ninh, đại chiến với Thánh Gióng dưới chân núi. Lửa cháy rực trời, khói bụi tung mù mịt. Na Tra nhổ tre đằng ngà quét sạch quân Ân. Thạch Linh Thần tướng tử trận ở vùng Yên Vệ.

Tiêu diệt được cánh quân chủ lực của Đế Tân, Thục Phán cùng Khương Thái Công giao hẹn chư hầu cùng phát binh đến cánh đồng Mục Dã, quyết một trận sống mái với Duệ Vương. Đế Tân thất thế, nổi lửa thiêu Lộc Đài rồi tự mình nhảy vào lửa tự vẫn.

Cơ Phát làm chủ được thiên hạ họ Hùng, xưng là Võ Vương. Sử Việt gọi là Hùng Quốc Vương, người con đã theo mẹ Âu Cơ lên núi lập nước Văn Lang, đóng đô Phong Châu.

Hùng Quốc Vương lên ngôi Thiên tử, phân phong cho các họ tộc làm chư hầu bình phong phên dậu ở trăm nơi đầu núi góc biển, được quyền thế tập cha truyền con nối, đặt ra trăm họ, định ra lễ nhạc trăm quan. Thiên hạ họ Hùng chưa bao giờ lại rộng lớn như thế này, Đông giáp biển Thái Bình Dương, Tây qua Đại Thực, Bắc quá Hoàng Hà, Nam tới vịnh Thái Lan.

Để tưởng nhớ các tướng sĩ của cả 2 bên hy sinh trong cuộc chiến Hùng – Thục, Thái Công Thánh Gióng về lại đất Lạc, lập đàn tế ở núi Vệ Linh, xướng bảng phong thần cho những anh hùng liệt sĩ. Hùng Duệ Vương Đế Tân vốn là thiên tử của tiền triều nên được tôn làm vua Địa phủ, Trung Nguyên Xá tội, lập đền thờ trên núi Châu Sơn. Tiên phong Na Tra làm thần núi Sóc Sơn, hộ trì đất nước.

Nhớ xưa đương thủa triều Hùng
Vũ Ninh nổi đám bụi hồng nẻo xa
Trời thương Bách Việt sơn hà
Trong nơi thảo mãng nảy ra kỳ tài
Lên ba đương tuổi anh hài
Roi ngà ngựa sắt ra oai trận tiền
Một phen khói lửa dẹp yên
Sóc Sơn nhẹ gót thần tiên lên trời…

Tượng Ma Bà (Ma Cô Tiên) ở Phùng Dị, Bắc Ninh
Cô tướng Ân trong lễ hội Phù Đổng 2022
Phường Ải Lao trong lễ hội Phù Đổng 2022
Thạch Linh Thần tướng cưỡi voi ở Việt Yên, Bắc Giang
Triệu Nguyên Sư (Triệu Công Minh – tướng của nhà Ân) trong tranh thờ người Dao ở Lào Cai
Voi ngựa trong lễ hội Y Sơn, Bắc Giang thờ Hùng Linh Công
Hoa tre trong lễ hội Y Sơn (Bắc Giang), nơi thờ Hùng Linh Công
Ngai vị thờ Thái Công Khương Thượng ở nghè làng Kiều, Sầm Sơn, Thanh Hóa
Tranh Lão tiên ông bên bến Việt Trì trong chùa Hoa Long, Phú Thọ
Chính cung đền Sóc thờ Phù Đổng Thiên Vương, Na Tra Thiên Tử, Nữ Oa Bộ Thiên, Vu Điền Quốc Vương, Tỳ Sa Môn Thiên Vương
Phù Đổng Thiên Vương, Na Tra Thiên Tử, Vu Điền Quốc Vương ở đền Hạ Mã, Sóc Sơn
Trung Nguyên xá tội, tranh thờ dân tộc Dao ở Yên Bái
Cự thạch – tế đàn cổ ở Sóc Sơn
Con Phi liêm ở núi Châu Sơn, Bắc Ninh

Thục An Dương Vương truyền kỳ, Hồi I

Hồi I

Lễ dối trời Duệ Vương hết số
Vì sinh linh Thục Chủ khởi binh

Lạc Long Quân chia 50 người con xuống khai phá miền ven biển Đông, vượt qua nhiều sông núi mà khai mở phương Nam xưa (phương Bắc nay). Long Quân truyền ngôi qua nhiều đời, đến Hùng Duệ Vương có tên là Đế Tân, đóng đô ở An Huy.

Duệ Vương là người có hùng tài đại lược, nhưng lại ham mê tửu sắc, bất kính với thiên địa, dâng lễ dối trời, sủng ái vu nữ Đát Kỷ. Trời và người cùng phẫn nộ, dẫn đến tai họa giáng xuống, vận nước cáo chung.

Bộ chủ Ai Lao – Ba Thục lúc này Tây Bá Hầu Cơ Xương, nổi lên là một người nhân nghĩa đại đức, thu phục nhân tâm. Thục chủ Cơ Xương tinh thông Dịch lý, hiểu lẽ trời đạo người. Bị Đế Tân chèn ép, Thục chủ buộc phải phát động binh đao. Nhưng để giữ lễ với Hùng Vương, Cơ Xương đầu tiên dẫn quân tiến đánh vùng đất Lạc của Sùng Hầu Hổ. Quân Thục từ Ai Lao kéo vào đất Hưng Hóa đến châu Quỳnh Nhai. Đất nước của Hùng Duệ Vương rúng động.

Người đứng đầu vùng đất Lạc khi đó là Bắc Bá Hầu Sùng Lãm, là dòng dõi quý tộc triều Hùng từ Kinh Dương Vương – Lạc Long Quân, nên cũng gọi là Lạc hầu Nguyễn Tuấn. Cuộc chiến giữa Ai Lao bộ chủ Cơ Xương và Lạc hầu Nguyễn Tuấn diễn ra rất ác liệt. Trong lần đầu Nguyễn Tuấn phục kích đánh bại được quân Thục ở Mộc Châu. Khải hoàn trở về, tấu cáo Đế Tân.

Vài năm sau, Bá Thục lại kêu gọi các chư hầu tập hợp được hơn 50 vạn quân. Cơ Xương chia quân thành 5 đạo, thủy bộ tịnh tiến, đánh chiếm đất Sùng. Với thế quân mạnh và nâng cao ngọn cờ nhân nghĩa, cuối cùng Sùng hầu Nguyễn Tuấn đã chịu thua, nhường lại đất Lạc cho Thục chủ.

Thục chủ Cơ Xương thu nhận được đất tổ Hùng Vương, đã cho dời kinh đô từ Ai Lao về Phong Châu, xây dựng thành Việt Trì, lên núi Thái Sơn Nghĩa Lĩnh lập điện Kính Thiên, đăng đàn tế cáo trời đất, lập cột đá thề trung thành với quốc tổ họ Hùng, cứu dân giúp nước.

Từ cổ đế vương ức triệu dân
Quy thần tất tự điện tinh thần
Thử truyền vị biện chân tướng ảo
Hồi tưởng Sơn danh phảng phất chân.

Chân tượng Cao Sơn Đại vương trong Nhất thành khả cách chân kinh.
Nha chương Phùng Nguyên, niên đại cuối thời nhà Ân Thương, bảo vật quốc gia ở Phú Thọ.
Cúng Bàn Vương của người Dao ở Hoàng Su Phì, Hà Giang.
Hải Bá Lạc Long Quân, tranh thờ người Dao.
Tượng đồng Hổ hai đuôi thời Thương.
Tượng thờ Long khuyển Bàn Hồ của người Dao ở Chù Lìn, Lai Châu.
Long tranh Hổ đấu, sách cúng người Dao ở Yên Bái.
Tượng mẫu Âu Cơ ở Hiền Lương, Phú Thọ.

Ông Ngâu, bà Ngâu và đàn chim quạ

Nọ thì ả Chức, chàng Ngưu
Đến trăng thu lại bắc cầu sang sông.

(Chinh phụ ngâm)

Câu chuyện Ngưu Lang, Chức Nữ bị thiên đình chia cách, mỗi năm chỉ được gặp nhau một lần vào ngày Thất tịch (mùng 7 tháng Bảy) nhờ đàn chim quạ bắc cầu trên sông Ngân Hà tưởng rằng là truyện thần thoại Trung Quốc, nhưng mấy ai biết rằng ông Ngâu, bà Ngâu chính là hai vị Sơn Tinh, Thủy Tinh trong truyền thuyết Việt.

Làng Ngâu (nay là thôn Yên Ngưu, xã Đại Thanh, Hà Nội)  có 2 ngôi miếu cổ có từ thời Lý thờ Ngưu Lang và Chức Nữ. Đó là miếu Mục Đồng thờ đức Tổ Nam Dương, tức ông Ngâu, và miếu Diệu Linh thờ Hương Từ Thanh Vân Thần Nữ, còn gọi là Tổ Mẫu Ngâu. Theo truyền thuyết, miếu Diệu Linh được hoàng hậu của vua Lý Thần Tông là Lệ Thiên tôn tạo và đặt tên chùa Hưng Quốc để thờ Phật. Ngày nay chùa Ngâu vẫn có lối thờ Tam phủ và có tượng Tổ Mẫu Ngâu cầm cành trúc trên tay (Trúc = Chức nữ?). Còn miếu Mục Đồng có tượng Thánh Tổ Yên Ngưu (Ngưu Lang) tay cầm gậy và đang ngồi trên con trâu vàng.

Vị Thánh Tổ Nam Dương cầm gậy thần và cưỡi trâu thì là Nam Thiên Thánh Tổ Tản Viên Sơn với cây gậy đầu sinh đầu tử. Nam Thiên Thánh Tổ cũng là Kinh Dương Vương, người đã vâng mệnh vua cha Đế Minh làm vua ở phương Nam. Bà mẫu trồng dâu dệt vải tương ứng như bà Tang Ma bên bãi Trường Sa Động Đình là Mẫu Thần Long, vị mẫu của Thủy phủ (Mẫu Thoải). Thì ra mối tình Ngưu Lang – Chức Nữ chính là sự kiện Kinh Dương Vương gặp mẫu Thần Long Động Đình trong sử Việt. Đây cũng là chuyện giữa Sơn Tinh (Tản Viên Sơn Thánh) và Thủy Tinh (Mẫu Thoải), dẫn đến mâu thuẫn mà hàng năm vào mùa mưa Ngâu tháng 7 lại dâng nước lên gây lũ lụt ở đồng bằng sông Hồng.

Chùa Yên Ngưu (Miếu Diệu Linh xưa) có lối thờ Tam Phủ là Thiên, Địa, Thoải nhưng khác với lối thờ của các đền phủ khác. Cung Vua cha Động Đình thay thế cho cung Chúa Sơn Trang. Cung thứ 2 thờ chính giữa Quan lớn Đệ Nhất Tôn Ông. Cùng với Tổ Mẫu Ngâu được thờ ở đây thì lối thờ này rõ ràng nhấn mạnh vào dòng Thủy phủ, trong đó Vua cha Thủy phủ ở đây là Động Đình Đế Quân, Tổ Mẫu Ngâu là Thần Long Động Đình, Quan lớn Đệ Nhất là Lạc Long Quân theo Truyện họ Hồng Bàng.

Miếu Mục Đồng ngoài thờ chính là Tổ Yên Ngưu còn có thờ Tản Viên Sơn Thánh, Cao Sơn Đại Vương. Điều này cho thấy, đối lập với miếu Diệu Linh (chùa Yên Ngưu), miếu Mục Đồng nhấn mạnh việc thờ dòng lên núi (Nhạc phủ). Đặc biệt nhất là miếu Mục Đồng lại thờ 10 vị quan lớn của Thủy phủ nhưng dưới tên gọi là 10 vị Kim ô (quạ vàng). Kim ô là hình ảnh con quạ ba chân, biểu tượng của mặt trời, như gặp trên các bức lụa hay tranh tường từ thời Hán. Đàn quạ bắc cầu Ô Thước thì ra chính là 10 vị quan lớn, được biết là những người con của Kinh Dương Vương và mẫu Thần Long. Kim ô hay mặt trời là cách gọi từ góc độ của dòng lên núi (nằm trong miếu Mục Đồng – nơi thờ dòng lên núi) đối với các vị quan lớn Thủy phủ.

Hình Kim ô – quạ vàng ba chân trong mặt trời trên bức lụa ở mộ Mã Vương Đôi thời Hán (ảnh internet)

Theo Sơn hải kinh: ở ngoài Đông Nam Hải, giữa sông Cam Thủy, có một quốc gia gọi là Hy Hòa. Ở nước Hy Hòa có nàng Hy Hòa là vợ của Đế Tuấn, sinh ra mười con trai là mười con kim ô, tức Mặt Trời. Hàng ngày, Hy Hòa tắm cho Mặt Trời ở Cam Uyên. Có truyền thuyết khác kể rằng mười con Kim ô đậu trên cây Phù Tang.

Như vậy nàng Hy Hòa chính là Động Đình Thánh Mẫu hay Đông Quang Thánh Mẫu (Nhật), tức Mẫu Thần Long. Bà lấy Kinh Dương Vương Tản Viên. Sơn hải kinh ghi bà lấy Đế Tuấn là đúng vị Sơn Tinh Nguyễn Tuấn. Hy Hòa là tên gọi theo vị tổ phương Đông là Phục Hy hay theo vị quan Hy Trọng được Đế Nghiêu cử đến phương Đông quan sát mặt trời, xây dựng lịch pháp. Cây dâu Phù Tang cũng chỉ rõ đây là hướng Đông và liên quan đến việc trồng dâu dệt vải của Chức Nữ. Phù Tang và Cam Lâm còn được nhắc tới trong tên gọi của vị thần phương Đông (Đông Vương Công) là Thủy phủ Phù Tang Cam Lâm Đại Đế.

Các vị quan lớn của Thủy phủ là những vị thủ lĩnh được Lạc Long Quân (vua Hạ) phân chia trấn trị các phương. Điều này được hình tượng hóa thành 10 mặt trời chiếu sáng khi đó. Truyền thuyết kể thời Đế Nghiêu, mười mặt trời chiếu nắng cháy bỏng. Đế Nghiêu sai thần tiễn thủ Hậu Nghệ bắn rụng 9 mặt trời. Chỉ còn lại 1 mặt trời (Kim ô) sợ quá lẩn trốn mất. Truyền thuyết này diễn tả lại sự kiện lịch sử là Hậu Nghệ – một chư hầu ở phương Bắc xưa của chính dòng Đế Nghiêu – đã đánh diệt các thủ lĩnh của nhà Hạ ở 9 phương, chỉ còn lại 1 phương, sau này trở thành nhà Hạ Trung hưng.

Còn trong thần tích Việt thì đây là câu chuyện ông Nhăng mà lấy bà Nhăng, sinh ra con rắn thằn lằn cụt đuôi. Ông Nhăng bà Nhăng là ông Ngâu, bà Ngâu. Con rắn cụt là vị thủ lĩnh còn lại của nhà Hạ đã bị Chử Đồng Tử – Hậu Nghệ chặn, đuổi lên phương Nam xưa, thể hiện trong chuyện Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh bị đi đày ở Kỳ Cùng (Lạng Sơn).

Như vậy, câu chuyện lễ Thất tịch là lịch sử khởi dựng nước Xích Quỷ (Thủy quốc) được kể từ góc độ của dòng lên núi (Nhạc phủ). Ngưu Lang Sơn Thánh lấy Mẫu Ngâu Thần Long trồng dâu dệt vải bên bãi sông Động Đình, sinh ra 10 con Kim ô, là các thủ lĩnh nhà Hạ, đứng đầu là Hạ Khải Lạc Long Quân. Lạc Long Quân khởi (khải) lập quốc là nhà Hạ, phân cho những người anh em trấn ở các phương, là những vị tôn quan. Hạ Khải mất, một chư hầu của chính dòng Đế Nghiêu là Hậu Nghệ Chử Đồng Tử đã đoạt ngôi chủ thiên hạ (trong hình ảnh công chúa Tiên Dung), dẹp các tôn thất nhà Hạ (các Kim ô) ở 9 phương. Duy nhất còn lại một con Kim ô (con rắn cụt đuôi) chạy lên miền Nam xưa (Bắc nay), rồi sau đó trung hưng lại cơ nghiệp nhà Hạ.

Dòng lên núi của cha Tiên Tản Viên Sơn Thánh (Ngưu Lang) kết hợp với dòng xuống biển của mẹ Rồng Thần Long (Chức Nữ) mà làm nên dòng giống Việt, lưu truyền ngàn đời. Chính sự vận động đối lập lên rừng – xuống biển của 2 dòng người mới đem lại sự phát triển của xã hội người Việt vào thời lập quốc.

Thánh Tổ Yên Ngưu cầm gậy cưỡi trâu (ảnh Nguyễn Huân)
Tổ Mẫu Ngâu (ảnh Nguyễn Huân)
Các vị Quan lớn – Kim ô ở miếu Mục Đồng (ảnh Nhật Minh)

Các vị thần trong bộ tranh thờ người Dao ở Mộc Châu

Người Dao ở vùng Mộc Châu – Sơn La dùng một bộ tranh thờ gồm 3 bức tranh lớn vẽ các vị thần và 2 bức nhỏ vẽ chân dung thần. Bộ tranh này được gọi là Hành say, dùng trong các nghi lễ thờ cúng, tín ngưỡng của người Dao tại đây.

Bức tranh đầu tiên có hình một vị thần cưỡi ngựa là bức Thái Úy. Theo các nhà nghiên cứu thì Thái Úy là ông Đại Vũ, người khởi đầu nhà Hạ bởi trên một số tranh Thái Úy khác có thể hiện hình một cậu bé theo tích Đại Vũ sinh ra Khải trong quá trình trị thủy. Thái Úy cưỡi ngựa, cầm kiếm và ấn lệnh, làm chủ miền rừng núi. Phía dưới là các vị quan lại cưỡi ngựa. Tương ứng trong lịch sử người Việt thì Đại Vũ là Tản Viên Sơn Thánh hay Kinh Dương Vương, người khởi đầu dòng lên núi. Trong Tứ phủ người Dao thì Thái Úy ứng với Dương gian, là phủ nơi con người sinh sống.

Bức tranh đối diện thể một vị thần mặt đỏ cưỡi rồng, gọi là Hải Bá. Hiện tại các nhà nghiên cứu cho rằng thần cưỡi rồng là Hiên Viên Hoàng Đế đã cưỡi rồng mà về trời. Tuy nhiên như vậy không hợp lý vì Hiên Viên không phải là “Hải Bá”, thần của miền biển. Đúng hơn thì Rồng biểu trưng cho Thủy phủ. Người cưỡi rồng phải là vị thần chủ của Thủy phủ, tức là Thủy Tinh Bát Hải Động Đình hay Lạc Long Quân. Thần chủ của Thủy phủ ở trên tranh còn cầm tù và, khá giống với hình tượng Thủy Tinh trong truyền thuyết Việt. Phía dưới bức Hải Bá là hình ảnh các thầy tào và cảnh Thượng đao sơn trong lễ cấp sắc của người Dao.

Bức tranh ở chính giữa được gọi là Tổng đàn hay Tổ tiên. Bức tranh này thể hiện có 9 tầng từ trên trời xuống đất. Trên cùng là Tam Thanh cung thờ 3 vị Ngọc Thanh Nguyên Thủy Thiên Tôn (ở giữa), Thượng Thanh Linh Bảo Thiên Tôn (bên phải) và Thái Thanh Đạo Đức Thiên Tôn (bên trái). Ba vị Tam Thanh được Đạo giáo thờ như những người đã sáng tạo ra vũ trụ.

Ở tầng thứ hai là Ngọc Hoàng Thượng Đế, người cai quản Thiên đình. Hai bên là các vị Thiên Vương, có ánh hào quang. Tầng thứ ba là Tây Vương Mẫu, vị thần cai quản các tiên thánh trên núi Côn Lôn. So với sử Việt thì Ngọc Hoàng Thượng Đế là vị vua Hùng đầu tiên, tức Đế Minh. Tây Vương Mẫu là Tây Thiên Quốc Mẫu ở núi Tam Đảo hay là bà Vụ Tiên trong Truyện họ Hồng Bàng.

Ở tầng thứ tư là Bắc Đẩu Tinh Quân. Hai bên là các vị nguyên soái, như Đặng Nguyên Soái mặt đen như thiên lôi ở bên trái, Triệu Nguyên Soái mặt đen ở bên phải. Ở tầng thứ năm là Nam Tào và các vị phụ thần hai bên. Nam Tào và Bắc Đẩu là hai vị thần nắm sổ sinh và sổ tử của Thiên đình. So với sử Việt thì đây là hai vị Hùng Vương Thánh Tổ được thờ ở đền Hùng, là Viễn Sơn Thánh Vương (Đế Nghi) và Ất Sơn Thánh Vương (Lộc Tục).

Tầng thứ sáu, bảy và tám là các quan Tam Nguyên. Tầng thứ sáu vẽ Thượng Nguyên Thiên Quan có hình nhật nguyệt ở 2 bên, tiết Thượng Nguyên Tứ Phúc vào rằm tháng Giêng. Tầng thứ bảy là Trung Nguyên Địa Quan, tiết Trung Nguyên Xá Tội vào rằm tháng Bảy. Tầng thứ tám là Hạ Nguyên Thủy Quan, tiết Hạ Nguyên Giải Ách vào rằm tháng Mười.

Ở tầng cuối cùng (thứ chín) vẽ hình Thổ Địa thần nơi miếu thổ thần và các loài vật sống trên mặt đất như hổ báo, trâu voi, rắn rết. Thần Thổ Địa cai quản vùng đất đai và những sinh vật sinh sống ở đó.

Trong bộ tranh này thì bức Tổng đàn ở giữa thể hiện cảnh theo trục đứng gồm Thiên phủ – Địa phủ, nơi các thần linh ngự trị. Còn hai bên là Thủy phủ và Dương gian, nơi con người sinh sống. Tổng hợp 3 bức tranh có đủ Tứ phủ theo tín ngưỡng của người Dao.

Hai bức vẽ nhỏ là chân dung (mặt nạ) của hai vị thần chủ cai quản con người, cũng là hai vị thủy tổ của người Việt: Thái Úy – Kinh Dương VươngHải Bá – Lạc Long Quân. Thái Úy Kinh Dương Vương thể hiện như một vị quan mặt trắng, hiền từ như mặt trăng mùa thu (Chu). Hải Bá Lạc Long Quân thể hiện mặt đỏ như mặt trời mùa hè (Hạ).

Hải Bá Lạc Long Quân
Thái Úy Kinh Dương Vương

Có thể thấy tín ngưỡng thờ của người Dao tương đồng với tín ngưỡng của người Việt về các vị thần, về cách chia Tứ phủ. Cũng như người Việt, các vị thần được thờ của người Dao là “Tổ tiên”, tức là những vị vua, quan đã có công lao gây dựng nên dân tộc, nên đất nước ở thời cổ sử. Đó là ba vị Hùng Vương Thánh Tổ như thờ ở đền Hùng và hai vị thủy tổ Sơn Tinh, Thủy Tinh của 2 dòng lên núi và xuống biển.

Sách mới: Lạc Hùng chính thống Thánh tích ký truyền

Quá khứ không phải là điều đã qua và qua rồi là hết. Lịch sử một đất nước, một dân tộc như phần rễ cây chìm trong lòng đất, không nhìn thấy nhưng lại quyết định khả năng vươn cao của cây. Rễ có sâu, có to thì thân và cành lá mới xum xuê vững chãi. Nền văn minh chói ngời của cha ông một thời soi đường cho cả Thiên hạ là sức mạnh tinh thần to lớn thúc đẩy con cháu ngày nay xốc tới…
Không theo vết xe cũ mà nhiều người trước đã đi trong việc tìm hiểu quá khứ Việt, nhóm Hùng Việt sử quán đã mở ra hướng khảo cứu mới, tìm thông tin lịch sử Việt trong dân gian như: ngôn từ, ca dao tục ngữ, thần tích thần phả… Dòng sử dân gian này do không hay rất ít ảnh hưởng bởi tư liệu lịch sử Tàu nên chắc chắn là chân thực. Có chăng chỉ là một chút sai lạc do thời gian uốn nắn…
Văn nhân Nguyễn Quang Nhật

Cuốn sách Lạc Hùng chính thống Thánh tích ký truyền của nhóm tác giả Hùng Việt sử quán vừa xuất bản tháng 7 năm 2025 đã khắc họa lại lịch sử dựng nước của các vua Hùng một cách chân thật, hùng tráng dựa trên những khảo cứu, đúc kết của nhóm trong suốt hơn 10 năm qua. Cuốn sách tái hiện lịch sử thời đại Hùng Vương dưới hình thức dễ đọc, dễ hiểu, không đi vào khảo cứu mà giới thiệu các thông tin dưới dạng hình ảnh, phả đồ, bản đồ, giúp người đọc có thể nhanh chóng tiếp cận được nội dung nhưng cũng không kém phần cuốn hút bởi những câu chuyện lịch sử thực tế và những cảm xúc thăng trầm qua văn thơ trên con đường tìm về nguồn cội.

Cuốn sách mở đầu bằng phần LỊCH SỬ HÙNG VƯƠNG TÂN BIÊN, tái hiện lịch sử thời đại Hùng Vương thành một mạch xuyên suốt từ khi mở trời mở đất cho đến vị vua Hùng cuối cùng qua những sự kiện, những mốc phát triển chính. Từ thuở Hoàng Đế mở muôn nước, Kinh Dương Vương trị thủy thống nhất bốn phương, Lạc Long Quân cùng các vị Thủy thượng Linh thần khai phá miền sông biển, mẹ Âu Cơ Văn Lang cùng vua Hùng Lang Liêu thắng Trụ diệt Ân, đặt ra trăm quan, phong cho trăm họ mà sinh Bách Việt cho đến khi Triệu Vũ Hoàng Đế thống nhất đế quốc, Triệu Việt Vương lập nước Nam Việt, quang phục nền văn hóa Đông Sơn huy hoàng, Trưng Lữ Vương dựng cờ khởi nghĩa bên sông Hát và những vị Nam Giao học tổ hy sinh quên mình vì nước.

Lịch sử Hùng Vương tân biên không tham vọng khảo chứng lịch sử, mà là chia sẻ sự nhìn nhận có được qua việc tìm hiểu quá khứ từ những dữ kiện và góc nhìn khác nhau. Đó là việc đối chiếu các nguồn tư liệu thành văn của Hoa sử và Việt sử. Là những thông tin chắt lọc từ những sự tích thờ cúng, lễ hội cho những anh hùng, những nhân vật trong suốt chiều dài sử Việt. Là sự suy ngẫm trước những hiện vật khảo cổ biết nói đã được phát hiện không chỉ ở Việt Nam mà còn trong cõi trời Đông. Là góc nhìn địa văn hóa, sử văn hóa từ những dấu vết ngôn ngữ, triết học cổ.

Tiếp theo là phần NIÊN BIỂU VÀ THÁNH TÍCH 18 TRIỀU HÙNG VƯƠNG. 18 triều đại Hùng Vương được sắp xếp theo 4 giai đoạn phát triển của xã hội Việt là thời kỳ Thủ lĩnh cộng đồng, thời kỳ Thị tộc phụ đạo, thời kỳ Phong kiến phân quyền và thời kỳ Phong kiến tập quyền. Mỗi triều đại được ghi rõ tên gọi từ các nguồn tư liệu khác nhau, niên đại, kinh đô, dấu vết khảo cổ, các truyền thuyết và đặc biệt là thống kê đầy đủ các di tích lịch sử văn hóa liên quan đến mỗi triều đại này trên đất Việt. Kèm theo đó là hình ảnh màu thực tế của hàng trăm di tích và hiện vật được giới thiệu trong sách.

Cuốn sách cung cấp rất nhiều phả đồ xuyên suốt các thời kỳ Hùng Vương hoặc chuyên sâu cho mỗi giai đoạn quan trọng, giúp bạn đọc nhanh chóng nắm bắt được nội dung diễn biến chính của mỗi thời kỳ. Các phả đồ không chỉ chỉ rõ mối quan hệ giữa các nhân vật, các sự kiện lịch sử mà còn là sự đối sánh giữa các tư liệu của các góc nhìn lịch sử khác nhau. Phả đồ và lịch sử tân biên được xây dựng với quan niệm: Không có tư liệu sai, chỉ có sự nhìn nhận và hiểu biết của chúng ta còn chưa đủ, chưa phù hợp. Chính sự so chiếu này làm nên tính phổ quát của niên biểu. Phả đồ cùng với các di tích lịch sử, di chỉ khảo cổ và niên biểu tên gọi là bộ bản đồ dẫn đường cho mọi người Việt chúng ta trên con đường tìm về quá khứ và tổ tiên.

Lịch sử làm nên văn hóa của một xã hội, và ngược lại văn hóa là kết tinh của lịch sử. Mặc dù cuốn sách được biên soạn theo hình thức “sử ký”, tức là ghi chép lại các sự kiện lịch sử và giới thiệu các nguồn tư liệu, dấu tích, nhưng phần bàn luận về VĂN HÓA THỜI ĐẠI HÙNG VƯƠNG là những bài viết ngắn đi sâu khảo chứng cho những vấn đề, những chủ đề cụ thể. Đó là về quan niệm minh triết người Việt cổ, các hình tượng vật tổ, chữ viết của người Việt thời Hùng Vương, về các cuộc chiến thay đổi thời vận, về các gương hiếu của thời Hùng Vương, các vị tiên nữ, các vị thần bất tử, và một số nhân vật quan trọng như Na Tra Đổng Thiên Vương, Khương Thái Công Lã Vọng, Đức Thánh Chèm Lý Thân, An Dương Vương…

Trên bìa những cuốn lịch sử Hùng Vương xưa (ngọc phả Hùng Vương) được soạn bởi các bậc Hàn lâm Học sĩ đương thời có đề đôi câu đối:
Vấn lai dĩ sự tu vi sử
Tế nhận như đồ dục mệnh thi.
Tức là:
Hỏi kỹ chuyện qua mà chép sử
Thấy rành như vẽ mới làm thơ.

Xem kỹ những gì đã biết về các vua Hùng, thấy sự việc rõ rành thì tất có cái hứng để làm thơ, để ca ngợi công đức tiền nhân, để cảm sự nỗ lực của người Việt dựng nên nền tảng văn hóa xã hội ngàn đời cho con cháu. Sau phần biên diễn lịch sử là những bài thơ VỊNH SỬ LẠC HÙNG xuất phát từ những cảm hứng này.

18 vương triều Hùng bất diệt. 3.000 năm xã hội Việt phát triển qua 4 giai đoạn từ thấp đến cao. Không gian lịch sử bao trùm khắp phương Đông. Những vị anh hùng đã hóa thần trong sử Việt. Đó là những gì cuốn sách muốn gửi gắm đến các bạn đọc ngày hôm nay.

Hồn sông núi nước Nam còn mãi
Để hôm nay ta lại là ta
Xé mây trời sáng bao la
Anh linh tiên tổ, Hùng ca đời đời.

Thông tin liên hệ:

Thần tích Nại Tử xã – nơi Thi Sách tử trận

Dịch từ bản khai thần tích thần sắc làng Nại Tử xã, tổng Phương Quan, phủ Yên Lãng, tỉnh Phúc Yên

Xã Nại Tử vâng sao ngọc phả

Ngọc phả thời Bắc thuộc Đông Hán, do Thượng thư bộ Lễ triều Lê, quản giám tri điện, vâng sao ngọc bảo cổ truyền.

Hoàng đế bệ hạ vâng ban sắc văn, thần hiệu.

Sắc phong cho Đương cảnh Thành hoàng Quốc vương Thiên Tử Đại vương.

Sắc phong cho Đương cảnh Thành hoàng Ả Lữ [Lã] Nàng Đê Đại vương, Hoàng hậu Trưng đế Thánh nữ Phúc thần.

Sắc văn: Dực vận An dân Anh nghị Quả đoạn Chính trực Tuyệt hựu Hiển ứng Tông hưu Chi hoà Tuy hành Ý đức Tề hoà Trinh tĩnh Túy mỹ Diệu vận Kỳ nhẫn Đông Hán Đại vương Lĩnh châu Phúc thần.

Cho phép xã Nại Tử quận Tam Đới xứ Sơn Tây phụng thờ, để thần cùng bảo vệ cho dân ta. Vâng thay!

Xưa vào thời Quang Vũ triều Đông Hán có một người con gái Lạc tướng đất Mê Linh – Phong Châu. Lạc tướng tên là Trưng Nghĩa Dũng, tên chữ là Phúc Bố, vợ là bà Hồng Thị Đào. Vợ chồng đúng là những người tích thiện làm điều nhân đức, hương lửa tam sinh, một nhà thật là phong lưu có thừa vậy. Năm Lạc tướng 42 tuổi, bà phu nhân 43 tuổi mà vẫn chưa sinh con nuôi dưỡng. Vào ngày 12 tháng Giêng ông Trưng nói với phu nhân họ Hoàng rằng:

  • Không có sự giàu có bốn biển nào mà không đến lúc nghèo. Không có tuổi thọ như núi cao nào mà không đến lúc chết. Chỉ có là chưa có được con nối dõi thì thường buồn bã. Chi bằng hãy chia phát tài sản để cầu phúc, cầu cho được có con.   

Phu nhân vâng theo lời đó bèn phát chẩn cho người nghèo, sắm sửa lễ bái, khấn với sông núi thần kỳ, lập đàn bố thí. Đến ngày mồng 9 tháng Tư vợ chồng đi lên chùa Hương Tích trên núi lễ bái, rồi ngủ lại trong chùa. Nằm mộng thấy có thần nhân đến nói rằng:

  • Gia đình các người có lòng thành. Trời đã soi mệnh, cho viết vào sổ hồng, sau giáng bậc anh hùng quốc chủ, giúp nước an dân. Không phải người phàm ở trần gian vậy.

Vợ chồng nghe lời bỗng tỉnh dậy, trong lòng rất lấy làm vui mừng. Bái tạ rồi trở về nhà của ông Trưng. Từ đó bà có mang. Đến ngày mồng 9 tháng Tư vào giờ Tý ông Trưng thấy ánh sáng chiếu đầy nhà, tự nhiên mơ màng mà thiếp đi, nhìn xa thấy có một ông lão. Ông lão thân mặc áo vải vạn màu, đầu đội mũ hoa, lưng thắt đai vàng, chân đi giày, tay dẫn một người con gái, tự xưng là nữ Kim Tiên, đứng ở một bên giường, nói rằng:

  • Ta sịnh ra vào thời Hoàng Đế, du chơi nơi chốn không già, nhàn nhã ở đường suối bàn vậy. Nay vâng sắc lệnh Ngọc Hoàng đem nữ Kim Tiên cho nhà ngươi.

Ông Trưng nói: – Vâng.

Ông lão bay lên không mà đi. Ông Trưng cười lớn ở trong mộng, bỗng tỉnh lại thì bà vợ họ Hoàng đang thai đang chuyển động. Đến mùng 10 giờ Sửu sinh được một người con gái, phong tư tuấn chỉnh, cốt cách dị thường. Hình dáng tuy là nhi nữ nhưng tướng mạo lại như con trai. Mọi người đâu vui mừng, cho là điều lạ. Nhân theo trong mộng đã đứng ở một bên nên đặt tên húy là Trắc, tục gọi là Ả Lã (Lữ). Đến khi trưởng thành gọi là Nàng Đê. Mày cong trăng non, mắt tựa như làn thu thủy. Khi vừa tròn 16 tuổi vườn hồng đầy lá mà chưa có mối lương duyên.

Lúc đó có người Chu Diên, cũng con của Lạc tướng (cha tên Huề [Dương] Thái Bình, mẹ là Hồ Thị Nhữ), tên là Dương Thi Sách. Tuổi đã 29, sinh ngày 10 tháng 6. Nghe nói Ả Lã Nàng Đê có nhan sắc kiều diễm mà tư chất kiên trinh, bèn thưa với Lạc tướng. Lạc tướng nói rằng:

  •  Ta và Lạc tướng Phong Châu trước đã có nguyện ước. Nay con lại nghe danh nàng Ả, đó phải chăng là duyên trời định vậy.

Bèn đến hỏi cưới, đón về, tức ngày mồng mười tháng Mười một. Đất Chu Diên hai họ đều cùng vui mừng.

Bấy giờ có người phương Bắc là Tô Định giữ chức Thái thú Giao Chỉ, là người cai trị bạo ngược hà khắc, tạp dịch nặng nề, khiến người phương Nam lầm than oán thán. Tô Định lại ham mê tửu sắc vô độ.  Nghe nói có con gái của Lạc tướng đất Mê Linh là nàng Trưng là người có sắc đẹp phi thường. Hắn liền đem quân đến đóng ở bên sông, rồi xông vào Mê Linh hỏi Trưng công. Trưng công cứ thực mà báo lại, nói rằng:

  • Một người con gái há lại gả cho hai chồng?

Tô Định từ tạ rồi lập tức dẫn binh mã tiến thẳng đến Chu Diên, tới nhà Dương Thi để hỏi. Thi Sách tuy là xuất thân văn học song cũng nổi tiếng võ lược, bèn kháng cự lại. Đôi bên mắng rồi đánh nhau. Khi đó Tô Định lập mưu, dùng khí giới trước mà Dương Sách thì tay không. Thi Sách tuy có chí dũng song sao có thể lấy sức bọ ngựa để đánh lại với cỗ xe vạn thặng được. Đến Tử Khê thì Dương công đường cùng mà hóa (tức ngày 11 tháng 12).

Dương Công đã chết. Tô Định tìm giết hết họ tộc Dương. Trưng nữ vương chạy về đất Mê Linh, bàn bạc tình trạng của tên Thái thú. Lạc tướng Trưng công liền chiêu mộ binh sĩ tinh nhuệ làm quân tiên phong. Trưng nữ vương vì căm ghét Tô Định là kẻ tham tàn bạo ngược giết chồng mình nên đã dấy quân đuổi Tô Định. Đánh chiếm được 65 thành ở vùng Lĩnh Nam, tự lập là Vương, tôn phong cho chồng là Quốc vương Thiên tử Đông Hán Đại vương, còn mình thì tự xưng là Quốc [Vương] Thiên Tử, lấy tên Ả Lã Nàng Đê làm tên thụy. 

Nhà Đông Hán lệnh cho Mã Viện đến xâm chiếm, cùng với Vương đánh nhau ở Lãng Bạc. Đánh nhau với Mã Viện từ đầu đến cuối là hơn 150 hiệp. Vương biết tình thế không thể chống đỡ được, nên rút về giữ ở Tử Khê, đóng ở miếu thờ Dương công. Đến đêm nghe tiếng thần ngâm rằng:

  • Nam quốc sơn hà, vốn bãi bể thành nương dâu.

Trưng Vương cùng với em là Nhị đem quân rút về cửa khẩu sông Hát nên quân tướng đều đang lộn xộn. Chị em cùng tử chiến, trở nên rất linh thiêng ở cửa sông Hát. Từ Phong Châu đến cửa khẩu sông Hát cộng 72 ngôi đền thờ phụng.

Phường Nại Tử ở Tử Khê nguyên là nơi ông Dương Thi Sách thua trận, chạy đến bãi Thường Nghiêm trong địa phận Nại Tử thì ngã chết. Trưng nữ phục quốc lên ngôi, cho phép phường Nại Tử làm làng hộ nhị, cho miễn tô thuế, phu dịch. Phường Nại Tử ở Tử Khê dâng tấu lên triều đình xin quan cho mỹ tự để thờ. Quan trong triều phong cho ông Dương là Quốc Vương Thiên Tử, ở vào thời Đông Hán nên xưng là Đông Hán Đại vương. Sau lại dâng tấu xin mĩ tự tên thờ. Triều đình không dám đặt tên hiệu mới, nên xưng là Quốc Vương Thiên Tử Ả Lã Nàng Đê Lĩnh Nam Đại vương (yên định được 65 thành ở Lĩnh Nam nên xưng là Lĩnh Nam vương). Sau này trang phường nghe tin Trưng Vương tử trận, khóc như tang người thân, nhận ngày sinh hóa (sinh ngày mồng 9 và 10 tháng Tư, hóa ngày 11 tháng Sáu) mà làm nghi lễ tế tang, phụng thờ.

Kể rằng khi vua [Lê] Thánh Tông còn nhỏ ở chùa Long Khánh, thường được Trưng Vương hiển ứng giúp vận, ngăn hoạn trừ tai. Nên đến đời Hồng Đức tặng là Ý đức Tông hoà Trinh tĩnh Túy mỹ Cung phi Hoàng hậu Lĩnh châu Đại vương. Lệnh các nơi trang phường phụng thờ, không được thay đổi. Ngôi miếu thiêng ở trên song muôn năm được kính ngưỡng, tôn sùng. Vạn đời truyền tụng, hàng năm tiến lễ. Năm năm hương lửa, đời đời nối mãi. Tốt thay, lành thay! Mãi mãi không ngừng.

Tên húy thụy theo như trong tích này. Cùng các ngày khánh hạ tùy dùng, trên là mâm chay, dưới là đồ mặn nấu chín kỹ.

Cúng húy ông Sách – Thiên Tử Đại vương. Dùng lễ áo mã màu xanh thêu gấm.

Cúng húy bà Trắc – Lĩnh châu Đại vương (tức Vua Bà). Lễ mã dùng áo bào sắc ánh vàng.

Lý trưởng Lê Văn Quán thừa sao.

Minh văn trên chiếc chuông cổ thời Trần phát hiện tại Hưng Yên

Năm 2015 một chiếc chuông đồng cổ lớn đã phát hiện ở làng Nhân Vũ (Nguyễn Trãi, Ân Thi, Hưng Yên). Chuông cao hơn 1m, đường kính miệng 60cm. Trọng lượng chuông khoảng 200kg. Phần thân chuông chia là 4 mặt. 4 mặt phía trên có hình Phật ngồi tòa sen và minh văn. Phía dưới là ô vuông chạm hình các muông thú (rồng, voi, trâu, rùa) ẩn trong mây sóng nước. Phần chỉ dọc của 4 mặt chia thành đường, có khắc chữ. Quai chuông hình rồng hai đầu (Bồ lao). Đỉnh quai có hình búp sen (đặc điểm tương tự thấy trên các chuông cổ thời Trần khác). Miệng chuông loe có chạm khắc hình cánh sen.

Đây là một chiếc chuông lớn có 4 mặt đúc đầy chữ và 4 vành, mỗi vành gồm 3 cột cũng có chữ khắc. Tuy nhiên phần nửa trên của chuông đã bị phong hóa bào mòn nên mất gần hết chữ. Chỉ còn đọc được nửa dưới mỗi mặt. Tổng số những chữ còn có thể đọc được là trên 600 chữ.

Bài minh văn phần thân chuông bắt đầu bằng mô tả con đường làng nhỏ qua cầu có ngôi chùa… Chuông đồng là sắc giới nghiêm trang, mở âm thanh tịnh. Chuông là khí đánh vang, Phật thường hiện. Phật là vô tướng, đâu cần phải nhìn thấy, chạm vào mới cảm nhận được sự hiển linh của Phật. Do đó người Việt chốn thiền (sư?) đã mở đàn việt quyên góp các thí chủ để đúc chuông. Năm Nhâm Dần tháng đầu đông (tháng 10) ngày mùng 1 đúc chuông lớn. Quang cảnh chùa ở nơi hương thôn từ cổ xưa, có nhiều người tín Phật, khung cảnh yên tĩnh, là nơi cúng tế các việc sinh tử. Có tiếng ca hát, mênh mông nguy nga. Có đài cửa phẩm liên hoa rậm rạp. Phảng phất hình sông nước, gò đồi. Chùa mới như một Kỳ viên ngàn thôn. Có chuông là pháp khí. Dựng lầu trống, lầu chuông. Người thợ nhân cũng là người làng xóm gần đó mà làm bài minh ghi lại việc nhân nghĩa.

Bài minh rằng:

… chuông là sự hiển hiện của Phật, Phật lấy chuông làm thịnh

… âm kình phát ra quần long sinh gió

… treo ở lầu cao, tiếng kêu vang vang.

Phần chữ nhỏ ở cuối bài ghi lại đàn việt quyên góp và những người đã đóng góp đất đai, tiền để xây chùa.

Người viết bài minh là Lê Tịnh, hiệu Ba Lãng.

Phần chữ trên viền chỉ dọc chuông được khắc sau khi đúc chuông, nội dung ghi những người đã tiến thí (đóng góp) ruộng, tiền để xây dựng các công trình trong và quanh chùa. Các công trình này là để bổ sung tượng, đồ dùng cho tòa Tam bảo trong chùa, để làm con đường và cây cầu nổi đi vào chùa. Thời điểm khắc chữ ở phần viền chỉ là vào tháng 11 năm Nhâm Dần (tức là sau khi đúc chuông 1 tháng). 

Đặc biệt trên phần chữ ở viền chuông có nói đến các địa danh hành chính của người tiến thí cho chùa là ở lộ Khoái Châu xã Đãn Chàng và xã Dược thuộc động Yên Viên. Xã Đãn Chàng có thể nay là xã Đan Chàng, một xã cùng tổng Nhân Vũ với nơi phát hiện ra chiếc chuông thời Nguyễn. Còn xã Dược thuộc động Yên Viên gần đó có thể là nằm trong tổng Yên Canh thời Nguyễn với các khu vực cận kề thuộc xã Mão Cầu.

Đơn vị hành chính “lộ” ở nước ta bắt đầu từ thời Lý, phổ biến ở thời Trần và chấm dứt vào đầu thời Lê. Sau khi thống nhất đất nước, Lý Thái Tổ đã chia Đại Việt thành 24 lộ, thay thế cho 10 đạo thời Đinh – Lê. Nhà Trần tiếp tục duy trì đơn vị hành chính lộ, nhưng giảm số lượng xuống còn 12. Khi nhà Minh xâm chiếm nước ta đã áp dụng chế độ phân giới hành chính theo phủ, không còn đơn vị “lộ” nữa. Đến vua Lê Thái Tổ đã chia cả nước ban đầu thành các đạo.

Với địa danh “lộ Khoái Châu” được khắc trên chuông thì có thể xác định chắc chắn rằng đây là chiếc chuông thuộc về thời nhà Trần. Chuông được đúc vào năm Nhâm Dần, thì trong giai đoạn này có các năm sau:

  • Năm 1302 thời Trần Anh Tông
  • Năm 1362 thời Trần Dụ Tông

Rất khó xác quyết chiếc chuông này ở vào thời Trần Anh Tông hay Trần Dụ Tông. Nhưng với mối liên hệ của vùng đất này với Huyền Trân công chúa (em vua Trần Anh Tông) và loạn lạc thời kỳ cuối triều Trần Dụ Tông thì có thể nhận định rằng chuông được đúc vào năm Nhâm Dần 1302.

Nếu so sánh chiếc chuông Nhân Vũ với các chuông thời Trần đã biết là chuông chùa Bình Lâm (Hà Giang), chuông Vân Bản (Hải Phòng) và chuông chùa Rối (Hà Tĩnh) thì chuông Nhân Vũ có nhiều điểm nổi bật hơn. Đó là chuông còn nguyên vẹn, có chạm khắc không chỉ hoa văn mà còn hình Phật tọa thiền và các muông thú trong mây nước độc đáo. Về minh văn thì số chữ đúc và khắc trên chuông Nhân Vũ vượt xa số chữ tương ứng trên các chuông kia. Do đó chiếc chuông này xứng đáng được công nhận là Bảo vật quốc gia, như đã công nhận đối với những chiếc chuông thời Trần cùng thời.

Chuông thời Trần phát hiện ở Ân Thi, Hưng Yên.
Quai chuông hình bồ lao có núm búp sen.
Phật trên tòa sen.
Minh viết: Chung chi Phật hiển, Phật dĩ chung long…
Người viết bài minh: Ba Lãng Lê? Tịnh? thư.
Hình trâu trên mây nước
Dòng chữ: Tại Khoái Châu lộ…
Voi trên mây nước.

Cô Tấm và ông Bụt

Nguyên phi Ỷ Lan được biết là rất coi trọng đạo Phật, cho xây nhiều chùa chiền mà các di tích khảo cổ và tín ngưỡng vẫn còn để lại cho đến ngày nay. Tuy nhiên, thực sự là dòng phái Phật giáo nào đã giúp cho Nguyên phi Ỷ Lan trở thành một Thần phi, một Hoàng hậu nhiếp chính rồi Hoàng Thái hậu? Lần theo sự tích của Nguyên phi Ỷ Lan kết hợp với các di tích còn lại có thể cung cấp thêm những nhìn nhận mới về Phật giáo và văn hóa đầu thời Lý.

Cầu duyên trên quê hương Thổ Lỗi – Sủi

Trong thần tích trong bản khai thần tích thần sắc của làng Thục Cầu (Đồng Xá, Văn Lâm, Hưng Yên) thì tên của Nguyên phi Ỷ Lan được chép như sau:

Thái hậu quê ở làng Cổ Lỗi, huyện Siêu Loại, xã Dương Xá. Cha là ông họ Lê tên Quyết. Mẹ là Võ Thị Tĩnh Nương. Gia đình lấy nghề trồng dâu làm nghiệp. Lại nằm mộng điềm lạ nuốt sao Thái âm mà sinh được một người con gái, tức là Thái hậu vậy. Đặt tên là Yến, còn gọi là Cám (Cảm), còn có hiệu là Khiết nương.

Tên vua Lý Thánh Tông phong cho Nguyên phi là Ỷ Lan thực ra là tên chữ, vận dụng phép phiên thiết từ tên thời con gái của bà vì Ỷ Lan đọc thiết âm là Án = Yến. Tương tự, tên làng Thổ Lỗi vốn cũng là tên phiên thiết của âm Nôm là Sủi vì âm Th- xưa đọc như S-. Dẫn chứng khác là làng này có lúc được ghi là Thượng Lỗi, có cùng âm phiên thiết như Thổ Lỗi. 

Điểm bổ sung là sau Lý Thánh Tông cho đổi tên Thổ Lỗi thành Siêu Loại, thực ra vẫn là giữ âm phiên thiết của chữ Sủi. Tức là:

  • Thổ Lỗi hay Thượng Lỗi thiết Thổi – Sủi
  • Siêu Loại thiết Soại – Sủi.

Thần tích Thục Cầu cho biết khi Khiết nương bị em lừa lấy hết cá thì người đã giúp Khiết nương là vị lão tăng chùa Linh Nhân có tên là Đại Điên. Tức là trong nếu so với truyện cổ tích Tấm Cám thì ông Bụt hiện lên chính là sư Đại Điên.

Tiếp đó khi cá bống bị giết cũng chính vị tăng này (Đại Điên) đã bảo Khiết nương thu xương cá chôn ở góc giường và sau trăm ngày được một đôi hài đẹp. Khiết nương mang đôi hài ra phơi trước sân thì bị một con “chim thần” tha mất một chiếc hài đem thả vào cung nhà vua. Nhà vua cho đó là điềm sinh Hoàng tử kế vị và ngay sau đó đã về chùa Linh Nhân ở huyện Siêu Loại lập đàn cầu nguyện, vì thế mà gặp được Khiết nương đang hái dâu, đưa về lập làm Thần phi.

Có thể thấy rõ ràng rằng đây là một sự sắp đặt của vị tăng Đại Điên, từ việc làm ra đôi hài, mang hài bỏ vào cung đình rồi đánh tiếng để cho nhà vua về cầu nguyện tại chính chùa của mình (chùa Linh Nhân). Ngôi chùa Linh Nhân này nay là chùa Linh Nhân Tư Phúc ở Dương Xá, Gia Lâm. Linh Nhân cũng là tên thờ của Hoàng Thái hậu Ỷ Lan. Còn có chùa Phú Thị (chùa Sủi) có lễ hội Bông Sòng, trả lại trong sạch cho nội thị Nguyễn Bông, người đã “tham vấn” sư Đại Điên ở chùa Linh Nhân. Có thể chùa Sủi là quê hương của Nguyễn Bông (Nguyễn Bông có thể là người cùng quê với Nguyên phi Ỷ Lan).

Quê hương của Nguyên phi Ỷ Lan ở Dương Xá thuộc tổng Dương Quan, phủ Thuận Thành, Bắc Ninh xưa. Xã Dương Xá có mấy thôn: Đanh, Đá, Trung. Những cái tên Đanh, Đá gợi nhắc tới Bà Đanh, Bà Đá trong tục thờ Tứ pháp.

Đặc biệt là trong cùng tổng Dương Quang, ở phía bên kia sông Thiên Đức đối diện với Dương Xá là làng Đề Trụ. Làng này tới nay còn đền thờ Thiên Đế Đế Thích. Đây là một liên hệ cho thấy khả năng vị tăng Đại Điên ở chùa Linh Nhân là một vị sư tu theo đạo thờ Thiên Đế, bởi Đế Thích mới là vị thần có thể cầu duyên và cầu tự, chứ không phải Phật Thích Ca.

Sự tích Ông hàng Dầu đã thấy mây lành che trên đầu Khiết nương và khuyên nàng đi xem vua ở Dương Xá chắc hẳn cũng có ý nghĩa. Dầu là thứ để thắp sáng (Quang) nên rất có thể tương ứng với cái tên Dương Quang của tổng này. Cái tên Dương Quang cũng nhắc tới liên hệ với Thạch Quang Phật trong tín ngưỡng Tứ pháp.

Cầu tự nơi kinh thành Thăng Long

Lý Thánh Tông rước Khiết nương về Thăng Long, cho ở cung Ỷ Lan, phong là Thần phi. Dấu vết của cung Ỷ Lan nay là chùa Kim Cổ, vốn là Đồng Thiên quán, tương truyền là nơi Nguyên phi Ỷ Lan thờ “đạo Giáo”. Tuy nhiên, Nguyên phi Ỷ Lan là người tôn sùng “đạo Phật”, sao lại đi lập Đạo quán ở ngay nơi ở của mình? Cái tên “Đồng Thiên” của quán này cho thấy khả năng nơi đây thờ Thiên Đế của “đạo Phật”, chứ không phải thờ thần của đạo Giáo.

Nguyên phi Ỷ Lan vốn được sự giúp đỡ của “ông Bụt” Đại Điên mà trở thành cung phi, sau đó lại cũng nhờ ông Bụt này mà sinh được Hoàng tử. Nên quán nơi cung điện của bà phải là thờ “Bụt” mới đúng.

Chuyện Nguyên phi Ỷ Lan cầu tự được con trai liên quan trực tiếp đến tăng Đại Điên. Thần tích Thục Cầu kể rằng sau khi vào cung, Thần phi Ỷ Lan (thần tích khác chép là tiểu nhân là Nguyễn Bông) vẫn thường về chùa Linh Nhân cúng dường. Tăng Đại Điên đã “tư vấn” cho Nguyễn Bông nhìn trộm Thần phi để đầu thai làm Thái tử. Dấu vết nơi Nguyễn Bông đầu thai là chùa Thánh Chúa ở Dịch Vọng, Hà Nội.

Điều lạ là tăng Đại Điên lúc này không còn ở huyện Siêu Loại nữa mà đã về vùng Dịch Vọng ở tại chùa Duệ Tú. Thần tích Duệ Tú cho biết ông là người quê ở tại vùng này, có tên là Lê Toàn Nghĩa. Khi tu hành đã trở thành một vị lương y và thiền sư có nhiều công lao. Rõ ràng rằng tăng Đại Điên ở Thổ Lỗi đã “chuyển chùa” cùng với Thần phi về kinh đô. Và vị Đại Điên đã có công lớn trong việc giúp Thần phi Ỷ Lan “sinh con theo ý muốn”, sinh được Thái tử Càn Đức, nhờ vậy Ỷ Lan trở thành Nguyên phi nhiếp chính thời Lý Thánh Tông. Chú ý rằng sư Đại Điên cũng mang họ Lê như Khiết nương Lê Thị Yến.

Một lần nữa có thể thấy là tăng Đại Điên không phải dùng “Phật pháp” thiền môn mà là một Pháp sư có khả năng giúp đầu thai và chữa bệnh. Câu chuyện đầu thai của Nguyễn Bông có điểm giống với cách Khâu Đà La bước qua người Man Nương mà sinh ra Tứ pháp trong sự tích chùa Dâu thời trước.

Cũng chính nơi chùa Duệ Tú này nay còn mộ của tăng Đại Điên, bởi trong chuyện Thánh Láng Từ Đạo Hạnh đã báo thù cha và giết chết Đại Điên ở nơi đây. Đại Điên đầu thai thành đứa bé là Giác Hoàng, biết rất nhiều chuyện của cung đình, nên đã được vua đưa về kinh sư cho ở trong chùa Báo Thiên để đầu thai lại vào hoàng thất. Sau đó Giác Hoàng bị Từ Đạo Hạnh ngăn cản mà chết. Tại chùa Duệ Tú Đại Điên được tôn là Thánh tổ Lê Nghĩa hiệu Giác Hoàng Đại Điên Thiền sư.

Câu chuyện Đại Điên đầu thai thành Giác Hoàng cũng như việc tranh đấu với Từ Đạo Hạnh càng chứng tỏ lối tu của Đại Điên là lối tu theo Thiên Đế. Ngay việc Giác Hoàng được đưa về chùa Báo Thiên cũng cho biết điều này, bởi chùa Báo Thiên vốn là ngôi chùa thờ Thiên Đế, thường được dùng để cầu mưa, như việc rước Pháp Vân từ chùa Dâu về đây cầu mưa. 

Theo Việt điện u linh, khi Từ Đạo Hạnh chuẩn bị viên tịch có nói với các đệ tử: Ta chưa hết nhân duyên với đời, lại phải thác sinh làm vua ở nhân gian, khi nào chết lại về làm chủ “Tam thập tam thiên”. Vị thần chủ của “Tam thập tam thiên”, cõi trời 33, là Vua trời Đế Thích (Thiên Đế). Từ Đạo Hạnh như vậy chính là hóa thân của Đế Thích.

Hoằng quang đạo pháp ở các chùa

Nguyên phi Ỷ Lan khi nắm được quyền triều chính đã cho xây dựng nhiều ngôi chùa mà dấu vết của chúng còn lại cho tới ngày nay. Điều đặc biệt là khi xem kỹ những ngôi chùa này, ta lại thấy có nhiều dấu vết và liên hệ đáng ngạc nhiên đến tục thờ Vua trời Đế Thích và Tứ pháp. 

Điển hình ở tại quê hương Văn Lâm của bà có chùa Hương Lãng là chùa cổ từ thời Lý với những bậc đá hình con sấu và chim phượng cùng với bệ sư tử đá lớn nhất thời Lý còn thấy được. Trong khuôn viên chùa còn xây am thờ Hoàng Thái hậu Ỷ Lan. Rất ngạc nhiên là chùa Hương Lãng còn có tên là Pháp Lôi tự, tức là chùa thờ Pháp Lôi trong hệ thống Tứ pháp. Chùa Hương Lãng được gọi là chùa Ông Sấm, nhưng ông Sấm ở đây không phải chỉ bệ sư tư đá còn trong chùa, bởi bệ đá hình như vậy còn gặp ở những nơi khác và không đâu gọi sư tử là ông Sấm cả. Ông Sấm thực sự là tượng Pháp Lôi, có lẽ đã từng có đặt trên bệ sư tử này vào thời Lý.

Ngôi chùa lớn nổi tiếng khác là chùa Dạm ở Quế Võ, Bắc Ninh. Chùa Dạm còn gọi là chùa Bà Tấm, có đền thờ Hoàng thái hậu Ỷ Lan. Các làng xung quanh đó như Môn Tự, Tự Thôn, Sơn Nam đều thờ bà. Tương truyền nơi đây là nơi Hoàng Thái hậu đã về tu hành vào cuối đời. Chùa Dạm có nền khảo cổ 3 cấp thời Lý và đặc biệt là còn một chiếc cột đá chạm rồng lớn còn nguyên vẹn. Nhiều nhà nghiên cứu đã từng cho rằng cột đá rồng chùa Dạm là ngẫu tượng của Linga. Nói cách khác, nơi đây là nơi thờ “đạo Phật” theo hướng tương tự như đạo Bà la môn ở miền Trung.

Chùa Dạm sau này từng được sư Không Lộ trụ trì theo sách Lịch triều hiến chương loại chí. Không Lộ cũng là một vị pháp sư cùng với Từ Đạo Hạnh và Giác Hải kết nghĩa, đi học đạo ở phương Tây, nhưng chưa đến đất Phật mà dừng ở nước Kim Xỉ. Đạo học của Tam vị Thánh Tổ triều Lý này như vậy thực ra không phải đạo Phật chính tông, mà là Ấn Độ giáo, tôn thờ Tam vị nhất thể trong hình ngẫu tượng Linga như ở miền Trung Việt Nam.

Các hiện vật khảo cổ các chùa thời Lý cho thấy nghệ thuật tạo hình thời kỳ này mang đậm nét của “văn hóa Chăm” với những vũ công được thể hiện theo phong phồn thực. Hay như tượng Nhạc công thiên thần đầu người minh chim tìm thấy ở chùa Phật Tích. Rồi những bức tượng, phù điêu bằng đá sa phiến thạch được sử dụng làm tượng thờ và trang trí đền chùa, rất đặc trưng. Thực ra đây không phải là “văn hóa Chăm”, mà là văn hóa của đạo Bà la môn (Ấn Độ giáo) đã trở nên thịnh hành ngay từ đầu thời Lý.

Ngay tại đền Ghênh ở Như Quỳnh (Văn Lâm, Hưng Yên) đã tìm thấy hiện vật chính thời Lý là một “Kính Thiên đài” với bệ chạm sư tử ở dưới.  Đài Kính Thiên thì rõ ràng là thờ Thiên, tức Vua trời Đế Thích.

Tại chùa Phật Tích, dấu vết truyền đạo Bà la môn xưa là những phiến đá lớn xếp hình trên đỉnh núi Tiên Du, gọi là Bàn cờ đá, là “Phật tích” của vị tăng Bà la môn là Khâu Đà La (theo bia ở chùa tổ Mãn Xá). Núi Tiên Du là nơi Khâu Đà La tu hành cùng với Man Nương mà sinh Tứ pháp. Hiện nay tại đây có chùa Linh Quang ở thôn Vĩnh Phú bên sườn núi phía Nam sau chùa Phật Tích, là nơi Khâu Đà La tu hành, nay còn tượng thờ.

Nhưng kỳ lạ hơn nữa là ngay cạnh chùa Linh Quang chính là đền Bà Tấm thờ Nguyên phi Ỷ Lan. Nhân dân ở đây tương truyền đây là mộ của bà. Trong nền chùa và đền này đã phát hiện rất nhiều hiện vật thời Lý, gồm cả những viên gạch có chữ “Lý gia đệ Tam đế Chương Thánh Gia Khánh lập tạo”, “Lý gia đệ tứ Long Thụy Thái Bình lập tạo”. Tại sao Bà Tấm lại chọn nơi xuất xứ của vị Bà la môn Khâu Đà La làm nơi xây chùa đền và gửi hồn xác của mình?

Khâu Đà La là hiện thân của Vua trời Đế Thích cùng Tứ đại Thiên Vương là Phong Điều Vũ Thuận hay Vân Vũ Lôi Điện trong tín ngưỡng Tứ pháp của vùng đất Siêu Loại – Thuận Thành xưa. Nguyên phi Ỷ Lan cũng như nhà Lý bát đế có quê hương gốc ở vùng đất này nên việc thờ Thiên Đế trở thành tôn giáo chính của hoàng gia nhà Lý là việc dễ hiểu.

Thiền uyển tập anh chép câu hỏi của Hoàng Thái hậu Ỷ Lan  đối với Quốc sư Thông Biện: Ngày 15 tháng 2, mùa xuân năm Hội Phong thứ 5 (1016) Phù Thánh Linh Nhân hoàng thái hậu có lần đến trai tăng ở chùa Sư, cùng với các bậc kỳ túc thăm hỏi ý nghĩa Phật và Tổ, có gì hơn thua? Phật trú phương nào? Tổ ở nơi đâu? Đến đất nước này từ lúc nào? Trao truyền đạo đây, ai trước ai sau. Còn niệm tên Phật, đạt tâm Tổ, tuần tự truyền nhau, thì chưa biết cái nào là tôn chỉ?.

Phật nào? Tổ nào? Câu hỏi nghi vấn của Hoàng Thái hậu Ỷ Lan cho thấy sự nghi ngờ của bà đối với “đạo Phật” của các dòng thiền lúc này. “Tổ đến đất nước này” thì rõ ràng là chỉ Khâu Đà La.

Như vậy, vào đầu thời Lý với vai trò của Pháp sư Đại Điên chuyên về cầu duyên, cầu tự, đầu thai, giúp Nguyên phi Ỷ Lan ở vùng Siêu Loại, nối tiếp là 3 vị Thánh Tổ đi học đạo ở Miến Điện về cũng đầu thai (Từ Đạo Hạnh), rồi hàng long diệt hổ (Đại pháp sư Không Lộ và Giác Hải) có thể thấy Ấn Độ giáo lúc này đã trở thành một chính giáo của triều đình, có ảnh hưởng sâu sắc đến nền chính trị của nhà Lý cũng như văn hóa nghệ thuật đương thời. Khái niệm “Tam giáo đồng nguyên” thời Lý có lẽ phải là Lão giáo – Phật giáo – Ấn Độ giáo mới đúng, bởi Nho học không phải là tôn giáo. Chính nét Ấn Độ giáo này mới làm nên một văn hóa tín ngưỡng tôn giáo riêng của nhà Lý ở phương Nam, khác biệt với những dòng thiền của Trung Hoa khi đó.

Bài tham luận trình bày tại buổi sinh hoạt tháng 6/2025 của CLB Di sản và Văn hóa Á Đông tại chùa Sủi – Phú Thị.

Một vài hình ảnh minh họa

Thần tích của thôn Tự Thôn ở Nam Sơn, Quế Võ, Bắc Ninh ghi trong sách Hà Bắc nghìn năm văn hiến.

Kiệu thờ Ông hàng Dầu tại đền Bà Tấm, Phú Thị, Gia Lâm.

Ban thờ Khâu Đà La ở chùa Linh Quang, cạnh đền thờ Nguyên phi Ỷ Lan ở thôn Vĩnh Phúc, Phật Tích.

Tượng Thiên Đế Đế Thích ở đền làng Đề Trụ, xã Dương Quang, Gia Lâm, Hà Nội.

Tượng Giác Hoàng Đại Điên ở chùa Duệ Tú.

Tên chùa Hương Lãng, nơi có các bậc sấu đá và bệ sư tử thời Lý: Pháp Lôi tự.

Kính? Thiên đài – di vật thời Lý ở đền Ghênh, Như Quỳnh, Văn Lâm, Hưng Yên.