Thần tích xã Thượng Lát, Việt Yên, Bắc Giang.
Xưa nguyên Thánh tổ Hùng Vương Sơn Tiền Hoàng đế của ngôi báu trời Nam dựng tạo cơ đồ Việt Nam, là thủy tổ khai sáng Cổ Việt Thường. Họ Hùng 18 đời thánh vương ngự trị trời Nam, khai mở cơ đồ nước Việt. Nước biếc một dòng, mở vận thánh đế trời Nam. Núi xanh vạn dặm, lập nền cung điện đô thành. Mở vật giúp người, thống quản 15 bộ, thế lớn trùm phiên bang. Nối ngôi báu lớn, là vua Viêm Hồng trị nước hơn 3000 năm, mãi giữ nền tông miếu, hiển ứng linh thiêng ở Nghĩa Lĩnh. Truyền trăm đời đế vương nước Nam, ngự muôn năm thánh điện núi Hùng, đất tổ trời Nam là nền đất nước. Hoàng gia mãi tỏ, muôn năm còn lưu vạn đời. Mới lập cung điện, dòng dõi hoàng gia, con cháu tông phái, công thần lớn nhỏ hưởng phúc lộc ở các xứ phủ, huyện, xã dân, trang động, các tòa hương lửa sánh với trời đất không phai vậy. Về sau có thơ rằng:
Sơ khai Nam Việt tự Hùng Vương
Vạn cổ trường lưu lập kỷ cương
Nhất thống tương truyền thập bát thế
Nhị thiên dư tải ức niên hương,
? công kỷ tích thiên niên ?
Khẩu tụng phong truyền bách thế phương,
Đạo đối càn khôn giai bất lão
Hậu đồng nhật nguyệt tịnh dương dương.
Dịch là:
Nước Nam mới mở từ Hùng Vương
Muôn thuở lâu dài dựng kỷ cương
Mười tám đời truyền gương chính trị
Hai ngàn năm lẻ vạn năm hương
Công đầu ghi tích ngàn thu đó
Bia miệng người truyền khắp mọi phương
Đạo sánh đất trời không thể mất
Mãi cùng nhật nguyệt tỏ ánh dương.
Lại nói triều Kinh truyền 18 đời đến Tạo Vương ở ngôi, đóng đô ở Việt Trì bên sông Bạch Hạc, đặt tên nước là Văn Lang, tên kinh đô là thành Phong Châu. Tạo Vương lấy đức giáo hóa nhân dân, miễn giảm việc binh đao, noi gương tiên tổ mà trị vì, năm tháng nhàn du thời thái bình thịnh trị, là một bậc vua tốt đương thời vậy.
Nước Việt ta khi đó có một gia đình trưởng giả họ Nguyễn tên Hòa, lấy vợ là bà Cao Thị Huyền, người ở tại trang Tiên Lát, huyện Yên Việt, phủ Bắc Hà, xứ Bắc Kinh. Trang này (tức trang Tiên Lát) là nơi đất thiêng, có một ngọn núi đá cao chót vót, rừng tùng xum xuê. Có rồng đá, voi đá, rùa đá, chim đá, cờ đá đều cùng hướng chầu về khu trang ấp.
Lại nói, khi đó nơi ông Nguyễn ở trong khu dân cư có một miếng ao ở bên rìa trang ấp. Trong ao có một con đường nhỏ ở khu trước ao, không vuông mà thành một tấm dài. Sắc nước trong xanh. Ở giữa có một bàn đá lớn. Thật là một nơi tốt đẹp.
Khi ông Nguyễn tuổi đã cao, ngoài 60, vợ ông tuổi cũng quá 50. Vợ chồng cùng nhau tạo phúc, làm nhiều việc thiện nhưng phòng lan chưa thấy hoa nở, cành quế chưa từng đơm bông. Ông Nguyễn nghĩ đến việc hương lửa tông đường sau này lấy ai lo liệu, sớm tối thường lấy rượu làm vui cho khuây khỏa. Một hôm ông đi dạo chơi ở khu bàn đá, bỗng thấy có một con rắn hoa trắng dài hơn 10 trượng đang bò quanh trên nơi bàn đá. Rắn thấy ông bỗng nhiên bò xuống nước mà biến mất. Ông Nguyễn sau đó lòng tuy sợ hãi nhưng vẫn quyến luyến nơi đó nên thường ra đó ngồi chơi.
Một hôm ông Nguyễn đi chơi lên núi trên khu vách đá cao. Khi ấy, đất trang Tiên Lát có một khu núi đá, chia làm 3 ngọn. Ngọn cao nhất tên là núi Phượng Hoàng. Núi này là một ngọn núi có đá dựng, thông mọc um tùm. Ngọn núi thứ hai là núi Yên Ngự. Ngọn núi thứ ba là núi Kim Quy, đều có đá dựng, thông mọc ở đó. Lui bước lên núi đá, ngắm cảnh đỉnh đá, rừng thông trải năm tháng, một bầu rượu trắng tiêu giải đầu óc. Hôm đó ông đứng nhìn trên ngọn đá, rót rượu ngồi chơi trong đỉnh rừng thông. Đến khi say rượu, nằm ở trên đá, bỗng nhiên mơ màng như mộng, thấy một ông lão râu tóc bạc trắng, quần áo chỉnh tề, đường đường đi đến nơi bàn đá ông đang nằm. Ông Nguyễn hỏi:
- Lão ông ở đâu đến đây? Có gì xin được dạy bảo.
Lão ông nói:
- Tôi vốn là thần núi Nhạc phủ, thấy ông là người phúc hậu đến chơi ở đây. Vả lại thiên đình có việc định nên đến báo cho ông biết. Ngày mai có Chuyển Hùng giáng thế, đầu nhập vào mẹ đá thụ thai. Sau 3 năm 3 tháng thì tất sẽ đến định kỳ. Trời khai sinh thần tướng để báo phúc dày cho nhà ông đó.
Nói xong, ông Nguyễn lại hỏi:
- Đá ở đâu mà sinh ra được?
Lão ông ngâm rằng:
Công khả tri hề công khả tri
Công chi gia xứ thạch trung trì
Địa linh thạch mẫu toàn sinh thánh
Hộ quốc trừ Man báo đắc tri.
Dịch là:
Ông có biết không, có biết không
Giữa ao phiến đá nơi nhà ông
Đất thiêng mẹ đá rồi sinh thánh
Giúp nước trừ Man, báo cho ông.
Ông nghe lời ngâm bỗng nhiên tự tỉnh dậy, mới biết đó là nằm mơ. Ông nghĩ tới việc thần đã báo tin, trong lòng thấy yên tâm. Ông bèn đứng dậy trở về nhà. Lại đến đêm đó, thấy mưa gió nổi lên ở nơi ngoài ao. Nghe thấy tiếng người kêu rất thiêng, tiếng đàn hát cười nói véo von.
Ông Nguyễn đi ra bên bờ ao, chống gậy quan sát, thấy nơi bàn đá giữa ao nổi mây năm sắc, khí lành rạng rỡ. Trên không bốn phía vang tiếng hát các tiên tử, tiếng sáo trúc nhã nhặn ngàn đội ở trong đường mây. Trăm sao cùng phát ánh sáng rực rỡ cả một vùng. Tỏa màu đào hồng thắm tía, cẩm tú huy hoàng, xanh vàng rực rỡ. Khắp nơi tràn mùi hương thơm ngào ngạt. Ông đợi ở chỗ đó đến sáng để xem thế nào.
Đến sáng sớm, tức ngày mùng 10 tháng Giêng, nơi bàn đá có ánh mây mù bao phủ, trời đất mù mịt. Bỗng có một tiếng sấm rền như long trời lở đất. Mây mù tự tan, trời đất trong sáng. Nơi bàn đá bỗng tự nhiên vỡ ra, chia thành 3 mảnh. Lại thấy một có một người con trai có tướng mạo đường đường, phong tư lẫm liệt, thân hình to lớn, mặt như mặt trời mới mọc, mắt tựa sao trời chiếu sáng, ánh như sao Bắc Đẩu, tiếng vang như tiếng sấm rền đất, vang động trên cung trời dưới thủy phủ. Quả là sự thần kỳ, không phải như người thường trên đời vậy.
Ông Nguyễn đến thẳng chỗ bàn đá, bàng hoàng ôm lấy người con trai mang trở về nhà, tự mình chăm sóc nuôi nấng. Được quãng 7 tháng, mỗi ngày một lớn. Tính vốn trong sạch, thích ăn chay tịnh, không ăn thịt trâu lợn. Đến khi 7 tuổi đã cao lớn đường đường, thân cao 10 thước, sức có thể nhấc đỉnh, thế mạnh bạt núi. Đi như gió thổi mây bay, sấm hô mây chạy. Nhân dần đều sợ phục. Hổ báo về chầu. Ông Nguyễn bèn đặt tên là Thạc tướng công.
Tướng công tuổi đã qua 7 năm mà miệng không nói năng. Ông từ lúc 5 tuổi mỗi tháng 2 lần sóc vọng đều lên ngọn núi đá, ngồi ở trên bàn đá. Mây rồng 5 sắc, trăm thú đến chầu. Nhân dân thường sợ phục, thấy vậy đều kinh phục, gọi là thánh Nhạc phủ giáng trần.
Khi ấy Tạo Vương chỉ lấy đức hiền hòa trị dân, lại theo thói tửu sắc, vui chơi trai gái, không phòng bị chốn biên cương, nên từ đó sinh ra nạn giặc lớn. Lại nói, khi ấy có tù trưởng châu Thạch Lâm ở Cao Bằng tên là thần tướng Lục Đinh, nhờ sự trợ giúp của nước phương Bắc đem quân ngoài 50 vạn cùng với thần tướng Lục Đinh Thạch Lâm đến đánh Tạo Vương để chiếm lấy đất nước. Danh tướng trăm viên, voi ngựa nhiều không kể xiết. Thuyền bộ cùng tiến. Từ đất Cao Bằng đến Tuyên Quang, Hưng Hóa khắp nơi đều là đồn doanh của giặc. Nhân dân lầm than, binh lửa khắp trời.
Thư gửi từ biên thùy báo gấp, một ngày 5 lần. Vua vô cùng lo lắng. Liền cho triệu tập đại hội quần thần, thiếp lập đàn chay cầu đảo trời đất. Qua ba ngày bỗng thấy trời đất u ám, sấm sét ầm ì, mưa gió mù mịt, vang vang tới nơi tế đàn. Khắp chốn tối tăm như ban đêm. Chốc lát mây mù tan đi, bên trong đàn rạng rỡ, thấy có một lá cờ trắng dựng ở trên tế đàn. Trên lá cờ có viết một bài thơ rằng:
Huy khâm Thượng đế báo thần quân
Dục tảo bình Man tán tự vân
Tầm đáo Bắc Hà Yên Việt địa
Chuyển Hùng Thạch tướng tại Tiên nhân.
Dịch là:
Vâng mệnh Thượng đế báo nhà vua
Giặc Man muốn phá tan như mưa
Bắc Hà tìm đến đất Yên Việt
Chuyển Hùng Thạch tướng người Tiên xưa.
Vua cùng với quần thần đều thấy Hoàng thiên giáng phúc. Ngay hôm đó, mùng 10 tháng Tám, vua sai một viên quan triều đình cùng với 10 xá nhân đem tấm cờ lệnh của Hoàng thiên đến tìm ở huyện Yên Việt, phủ Bắc Hà xứ Bắc Kinh. Một ngày 12 tháng Tám đi đến trang Tiên Lát. Khi đó Thạch tướng còn nằm ở trên giường. Ông Nguyễn bỗng nghe rằng vua cử xá nhân đến tìm mộ người dẹp giặc. Ông Nguyễn bèn đi ra đường xem, thấy một cây cờ lệnh, quả nhiên có ghi tên của Thạch công. Ông Nguyễn vội vào nhà, lấy tay vỗ lên người tướng công mà nói:
- Thiên tướng vốn là mẹ đá thụ thai mà sinh. Nghĩa nuôi dưỡng ân sâu, cũng là con của nhà ta. Ngày nay đất nước có giặc lớn, vua sai sứ giả tìm đến. Sao không giúp nước báo ơn sâu, còn nằm ngủ vậy?
Tướng công nghe ông Nguyễn nói vậy mới trở người, mở miệng bất ngờ nói:
- Xin hãy gọi sứ giả tới.
Ông nói với sứ giả:
- Xin mau chóng trở về báo với vua làm một con voi đá cao mười trượng, đem đến đây cùng với cây cờ của Thiên Đế. Giặc Man tất sẽ được dẹp yên.
Sứ giả bái tạ rồi trở về báo lên vua. Vua nghe vậy rất vui mừng, bèn sai thợ đá làm một con voi đá cao hơn 10 trường. Vua lại tự thân ngự đến cùng trăm quan thị tòng theo giá, đem voi đá và cờ lệnh đến. Ngày hôm đó là mùng 3 tháng Tám nhân dân dựng một cung đình, vua ngự ở đó. Tới nay hiện vẫn còn tên gọi là “xứ Đình Ngự”. Nhân dân làm lễ bái mừng.
Khi đó, vua triệu Chuyển Hùng Thạch tướng đến để trao cho voi đá và cờ. Thạch tướng đường đường đi ra đến trước mặt vua, thân cao mười thước, mặt như mặt trời hồng mới mọc. Vua vui mừng đứng dậy. Trăm quan quỳ bái. Vua mới phán rằng:
- Thiên tướng giúp nước trừ giặc, về sau công đức phải báo đáp như thế nào cho xứng?
Thạch tướng đáp:
- Chức mệnh trên Thiên đình là quyền quản Nhạc phủ, được sai giáng trần giúp vua trừ giặc Man, tất là theo ý Thiên đình, đâu dám để vua phải báo ơn. Chỉ có mẹ đá thụ thai ở chốn ao, đã có dấu ấn ngón tay, xin được lưu làm nơi cúng tế, lập miếu phụng thờ. Lại có cha nuôi là ông Nguyễn, xin được vua báo đáp cho.
Nơi mẹ đá thụ thai sinh thánh ở bên chỗ dân cư hiện còn dấu ấn ngón tay của thánh.
Nói xong, Thạch tướng lên voi, tay cầm lá cờ, theo sau là quân sĩ đi dẹp giặc. Chẳng bao lâu tiến thẳng đến Cao Bằng, Tuyên Quang, Hưng Hóa. Các nơi giặc đóng quân thấy vậy đều tự bỏ chạy. Gió thổi mưa rơi, trời đất mù mịt. Tướng giặc kinh hồn đều thua chạy. Nghìn quân vạn ngựa truy đuổi, chém không kể xiết, đuổi bắt được thần tướng Lục Đinh, chém thành ba đoạn. Một trận dẹp yên toàn bộ giặc.
Thạch tướng cưỡi voi, tiếng rống như sấm, trở về thẳng nơi sinh ở trang Tiên Lát. Ông để lại voi ở bên trang, tới nay còn miếu đá ở đất trang Tiên Lát. Thạch tướng lên thẳng đỉnh đá núi Phượng Hoàng trên ngọn cao, bay lên trời mà đi, hóa sinh bất diệt. Ngày hôm đó là 12 tháng Chín. Nơi ngọn núi đá gió thổi thông reo, mây mù mờ mịt, trăm thú kêu chạy, là đại hội rồng mây ở trên đỉnh núi ngọn đá. Nhân dân đều kinh sợ.
Trong khoảnh khắc trời quang mây tạnh. Nhân dân, quân sĩ đều lên trên đỉnh đá xem, không thấy ai. Chỉ thấy còn áo mũ cởi ra để lại trên đá ở đỉnh núi. Nhân dân bèn làm biểu tâu lên vua. Vua nghe vậy bèn dẫn trăm quan trở về nơi hóa, tức Tiên Lát, làm lễ lập đền thờ ở nơi đỉnh núi đã hóa mà thờ phụng. Cho Tiên Lát làm làng nghĩa hương, xuân thu hai kỳ làm lễ quốc tế. Vua còn cấp ban cho ruộng đất để làm hương lửa phụng thờ. Lại phong cho mỹ tự, ban thêm áo mũ, vạn năm hưởng huyết thực, hương lửa vô cùng, cùng với đất nước vui yên, mãi là thức lệ. Thịnh thay!
Phong làm Chuyển Hùng Thạch tướng Đại vương. Trang Tiên Lát là nơi hộ nhi phụng thờ. Còn như những nơi Thạch tướng từ nhà tiến đi dẹp giặc, nhân dân đều làm lễ lập hành cung, cộng 41 nơi phụng thờ.
Lại nói, từ sau khi Thạch tướng hóa, vua cho vợ chồng ông Nguyễn về thành Phong Châu để hưởng sự chăm sóc của quốc gia. Qua 3 năm ngày mùng 10 tháng Mười một vợ chồng đều hóa. Vua truyền trăm quan làm lễ chôn cất ở nơi đất bên của Đông của thành nội.
Lại nói, qua thời Đông Hán, Ngô, Tấn, Tống, Tề, Lương trải 949 năm đến khi bốn họ nước Nam là Đinh, Lê, Lý, Trần mở lập cơ đồ, thường có giúp nước giúp dân có nhiều linh thiêng, nên các đời đế vương có truy phong mỹ tự, hương lửa không ngừng.
Lại nói, đến Lý Thánh Tông đi dẹp giặc, quân sĩ đi qua đền Tiên Lát của thần, thì voi ngựa đều gầm thét lên. Voi ngựa tự phục xuống, không thể đi được. Vua nhìn thấy ngôi đền ấy bèn cầu đảo tế rằng:
- Xin hãy âm phù cho nước nhà, cầu cho voi được thông hành. Sau này dẹp yên được giặc, Trẫm sẽ phong thêm mỹ tự, hương lửa không ngừng.
Cầu đảo xong thì voi ngựa đi lại bình thường. Vua Lý dẹp giặc được yên bình, bèn truy phong hai chữ Hiển ứng Linh thông, hương lửa không ngừng, cùng hưởng với quốc gia. Thịnh thay!
Người đời sau có thơ khen rằng:
Phẩm thị thiên thần bất thị nhân
Khâm thiên nhi giáng trợ hiền quân
Công đức tỷ đồng thiên địa đại
Nhật tân nhi kiến hựu nhật tân.
Dịch là:
Vốn thiên thần chẳng phải người phàm
Vua hiền, xuống giúp mệnh trời ban
Công đức sáng ngang trời với đất
Ngày mới lại theo ngày mới sang.
Các ngày sinh hóa cùng các ngày tiết khánh hạ và các chữ húy, màu áo phục được khai như sau:
– Ngày sinh là mùng 10 tháng Giêng. Khi làm lễ ngày hôm trước quét dọn từ trên đền thượng về tới khu dân cư. Một mâm cỗ chay, lợn đen tuyền, người phục vụ phải là gia đình vợ chồng đầy đủ, cùng với cỗ trâu nếu có thể, rượu ngọt, xôi các thứ. Làm lễ tế, ca hát ba ngày.
– Ngày hóa là 12 tháng Chín. Cỗ chay ba mâm. Thịt lợn, bánh dày, xôi, rượu các thứ. Trước một ngày thì tắm tượng ở ao nơi sinh.
– Lễ khánh hạ ngày 12 tháng Tám. Cỗ chay một mâm. Trước một ngày nghênh đón phải quét dọn bốn đường về. Xôi, gà, rượu, cơm, ca hát, đấu cờ ba ngày.
– Ngày hóa Thánh phụ, Thánh mẫu là mùng 10 tháng Mười một. Lợn, gà, xôi, rượu, cơm.
– Ngày mùng 10 tháng Năm và ngày 20 tháng Mười một là ngày khánh hạ.
– Ngày khánh hạ mở sắc là ngày 15 tháng Hai.
Nguyên tấm bia này là do tăng Tuệ Không hòa thượng ở chùa Tứ Ân Quan Âm núi Bổ Đà khắc mộc bản, nhân nhớ đến tích thánh, lại nghe nói ghi chép về thần đã bị mất, bèn cử người đi cầu tìm trong sách vở của nhà nước, trải qua gần một năm thì tìm được ghi chép ở xã Bình Đắng tỉnh Sơn Tây, có nhà đại quan của triều trước là chưởng quản điển tịch bách thần, đem về xem xét, thấy đúng như tích truyền miệng để lại, bèn cung kính vẽ tượng ngọc khắc vào bia để truyền đời lâu dài./.