1. THÔNG TIN CHUNG
Tên gọi: Đình Mật Ninh
Tên khác: Đình Cả (gọi theo tên thôn Đình Cả, nơi di tích tọa lạc)
Địa chỉ cụ thể: thôn Đình Cả, phường Quảng Minh (nay thuộc tổ dân phố Đình Cả, phường Vân Hà, tỉnh Bắc Ninh)
Vị trí địa lý và không gian cảnh quan:
Mô tả vị trí: Đình Mật Ninh nằm ở trung tâm làng Mật Ninh cổ (nay gồm 3 tổ dân phố: Đình Cả, Đông Long và Kẻ)
Yếu tố phong thủy: Đình tạo lạc tại khuôn viên đẹp, thoáng đãng, quay về hướng Nam, phía trước là hồ nước rộng, nhìn xa xa là núi Kẻ như một án tiền tạo điểm nhấn cho bức tranh thiên nhiên nơi đây. Câu đối ở cột biểu nghi môn của đình:
Chung Sơn hướng hậu dâng khang Mật
Đức thủy bao tiền địa trạch Ninh.
Dịch nghĩa:
Núi Chung Sơn cao giữ phía sau, dân Mật yên vui đông đúc
Sông Nguyệt Đức uốn vòng phía trước, đất Ninh thấm nhuần ơn sâu.
Câu đối ở mặt trong bức bình phong ngoài đình:
Cao sơn long hội, địa linh sinh vượng khí
Tú thủy loan hồi, nhân kiệt xuất anh khoa.
Nghĩa là:
Núi cao rồng hội, đất thiêng sinh khí vượng
Sông đẹp loan về, người tài xuất khoa danh.
Niên đại khởi dựng và các lần trùng tu:
Chưa có tư liệu xác định chính xác về năm khởi dựng xây dựng đình Mật Ninh, nhưng căn cứ vào tấm bia “Hành huệ lưu phúc chi bia” niên hiệu Vĩnh Thọ thứ 2 (1659) và dòng chữ Hán: “Đề hình giám sát ngự sử Chu Danh Tể công đức thiết lâm trung đình nhị trụ” (Quan Đề hình giám sát ngự sử là Chung Danh Tể công đức hai cột cái bằng gỗ lim ở giữa đình) có thể xác định niên đại đình được xây dựng vào thế kỷ XVIII vì Chu Danh Tể là người làng Mật Ninh, đỗ Tiến sĩ khoa thi năm Bính Thìn (1676) niên hiệu Vĩnh Trị đời vua Lê Hy Tông.
Qua thời gian, ngôi đình được quan tâm tu bổ, tôn tạo nhiều lần, gần đây là vào các năm 1996, 2016 với việc nâng cột đình, đắp đao đình, xây bình phong, tạc voi đá, đỉnh hương… Tuy qua nhiều lần tu sửa nhưng ngôi đình vẫn giữ được dáng vẻ ban đầu.
2. GIÁ TRỊ LỊCH SỬ
Nhân vật được thờ:
Đình Mật Ninh thờ đức thánh Cao Sơn Đại vương, một vị tướng thời Hùng Vương thứ 18, có công giúp dân đánh giặc, dẹp loạn, đem lại sự bình yên cho đất nước.
Sự kiện lịch sử, văn hóa gắn liền với di tích:
Các tư liệu ở đình Mật Ninh chép rằng:
Đời vua Hùng Vương thứ 18 có gia đình ông Nguyễn Hành và vợ là bà Đầu Thị Loan quê ở động Lăng Xương, huyện Thanh Châu, phủ Gia Hưng, đạo Sơn Tây; hai người ăn ở nhân đức nhưng hiềm một nỗi tuổi đã cao mà chưa có con. Họ đi nhiều nơi cầu khấn trời đất, thần Phật để mong có được mụn con; một đêm họ nằm mộng thấy Thượng đế sai sứ giả đến báo cho biết sẽ có một vị thần giáng sinh xuống làm con của họ. Sau đó người vợ có mang rồi sinh ra một người con trai tướng mạo phi phàm đặt tên là Cao Sơn. Vì là thần giáng sinh nên từ nhỏ Cao Sơn đã thông minh, trí dũng hơn người; đến khi trưởng thành đã là người tinh thông võ nghệ, am tường binh thư.
Bấy giờ đất nước có giặc Thục kéo sang xâm lược, thế lực rất lớn; vua Hùng Duệ Vương sai sứ giả đi khắp nơi tìm kiếm người tài giỏi, hiền đức ra giúp nước. Lúc ấy, Cao Sơn biết tin đã xin phép cha mẹ để về triều ứng tuyển và được trọng dụng, vua cho ông làm phó tướng phụ tá cho Tản Viên Sơn Thánh, được Tản Viên phong làm Tiền đạo Thượng tướng quân, lệnh mang quân đi đánh giặc ở miền Đông Bắc.
Khi Cao Sơn tướng quân đi đến vùng Kinh Bắc thì trời vừa xẩm tối, ông bèn cho quân dừng lại đóng trại nghỉ ngơi, sau đó thiết lập đồn lũy. Người dân địa phương đã hết lòng giúp đỡ, lại nhờ có thần nhân âm phù trợ giúp nên công việc chẳng mấy chốc đã hoàn thành. Cao Sơn đã chỉ huy quân lính đánh bại quân Thục. Dẹp xong giặc, Cao Sơn trở lại nơi đóng đồn lũy cũ để cảm tạ, báo đáp dân làng sau đó mới trở lại triều đình. Ghi công của ông, vua Hùng đã ban thưởng lớn, lại cho ông thực ấp ở Ái Châu (Thanh Hóa). Về sau Cao Sơn “hóa”, triều đình đã phong sắc làm Thượng đẳng phúc thần, lệnh cho dân các thôn làng trước kia đã từng trợ giúp Cao Sơn tướng quân đánh giặc phải lập đền thờ phụng mãi mãi, trải các triều đại đều gia phong mỹ tự cho ông.
3. KIẾN TRÚC VÀ NGHỆ THUẬT
Bố cục mặt bằng tổng thể và các hạng mục chính:
Mô tả bố cục: Đình bố cục chữ Công, gồm nghi môn, tòa đại đình, tòa ống muống 2 gian và 01 hậu cung gian ở phía sau. Phía trước là nhà đại đình, hai bên sân đình có tả vu và hữu vu. Nếu đi từ ngoài vào qua Nghi môn cổng chính theo đường nhất chính đạo qua sân đình rồi đến Đại đình, tiếp đó là tòa ống muống. nối Đại đình với hậu cung.
Mô tả từng hạng mục: Tòa đại đình có 3 gian 2 chái, 4 mái bên ngoài là mai mặt chính và 2 mặt mái lợp mũi hài. Nghệ thuật chạm khắc ở ngôi đại đình mang dấu ấn nghệ thuật thời Hậu Lê và Nguyễn
Tòa ống muống nối Đại đình với hậu cung, tòa ống này có 02 gian kết cấu kiểu con chồng đấu kê, vì nóc giáp hậu cung kết cấu kiểu ván mê.
Tòa hậu cung gồm 01 gian 2 chái 4 mái, mái lợp ngói mũi hài, bờ nóc xây gạch, 4 góc đao tạo hình cong vút mềm mại.
Nghệ thuật trang trí, điêu khắc:
Chạm khắc: Nghệ thuật trang trí tại đình Mật Ninh chủ yếu là đắp vữa và điêu khắc gỗ; trong tòa đại đình bờ nóc đắp nổi đề tài lưỡng long chầu nhật, đầu kìm; con xô có tạo hình nghê chầu, đầu đao cong hình đầu phượng, bên dưới đắp nổi ly chầu; các gian hồi trước Đại đình trang trí gạch hình hoa chanh.
Trên các cấu kiện kiến trúc của đình hiện còn bảo lưu được nhiều mảng chạm khắc tinh xảo với kỹ thuật chạm lộng, chạm kênh bong, chạm nổi kết hợp với nhau tinh tế và điêu luyện cùng nhiều đề tài trang trí phong phú và độc đáo mang phong cách thời Lê và Nguyễn.
Nổi bật là nghệ thuật chạm khắc gỗ tại đình, rất đa dạng, thấy rõ ở vì nóc, vì nách với các mảng chạm tứ linh, hoa lá cách điệu, rồng ổ, đao mác, vân mây… Phần cửa võng được sơn thếp, chạm khắc lưỡng long chầu nguyệt, hoa cúc, tứ linh… mang nét nghệ thuật thời Lê – Nguyễn, chắc khỏe, cổ kính.
Tòa ống muống cũng chạm khắc các đề tài tương tự nhưng đa dạng hơn với các tích rồng hý thủy, cá chép, hoa sen, sóng nước… Tòa hậu cung bờ nóc đắp lưỡng long chầu nhật, bờ nóc đắp đầu kìm, nghê chầu, các đầu đao đều trang trí đề tài tứ linh, các cửa sổ trang trí gạch hoa chanh.
Kiến trúc: Đình Mật Ninh là một tổng thể kiến trúc cổ mang nét kiến trúc truyền thống đặc trưng thời Hậu Lê thế kỷ XVIII, qua thời gian đình được trùng tu nhiều lần vì vậy hiện nay có một số bộ phận kiến trúc mang phong cách triều Nguyễn. Sự kết hợp giữa kiến trúc thời Hậu Lê – Nguyễn tạo sự độc đáo, có tính chất tiếp dẫn qua các thời kỳ với hệ thống mảng đắp, mảng đục chạm tinh xảo, thể hiện tài nghệ của người thợ dân gian, yếu tố thẩm mỹ các giai đoạn lịch sử nhưng vẫn đồng nhất, tạo sự uy nghiêm nhưng gần gũi, là nơi sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng của người dân bao đời nay, là nuôi dưỡng tình yêu quê hương, tri ân những bậc anh hùng có công lao với đất nước với nhân dân.
4. GIÁ TRỊ HIỆN VẬT
Bài trí thờ tự: Hậu cung là trung tâm thờ tự của ngôi đình, chính giữa có 01 án thờ gỗ có 02 cột chống đỡ ở phía trước, trên là khám thờ bưng kín bằng 04 cánh cửa, bên trong đặt ngai thờ đức thánh Cao Sơn đại vương. Bên ngoài bày giá đài, đài, đèn nến, bát hương; hai bên là ban thờ hậu, ban bên trái thờ ông Hoàng Nhuận, ban bên phải thờ hai ông Chu Khắc Minh và Chu Danh Tể.
Hoành phi trước hậu cung: “Như tại” (Như vẫn còn). Câu đối hai bên cột của hậu cung:
Cung miếu nhất phiên hoa đống vũ
Chưng thường vạn tự tập y quan.
Dịch nghĩa:
Cung miếu một toà cột mái đẹp
Xuân thu vạn tế áo mũ về.
Hai bên gian tiền tế có bộ ngựa trắng, ngựa đỏ kích thước lớn, hạc chầu, cây hương đá, trống, chiêng… Đặc biệt là có 2 cỗ kiệu cổ, trong đó có một cỗ kiệu bát cống lớn sơn son thiếp vàng, chạm khắc tinh xảo rất đẹp và 1 cỗ kiệu song hành. Đồ thờ tự cổ còn có hương án, bát hương, bát bửu, chấp kích, quán tẩy, giá văn, ngai thờ, sập thờ …
Di sản Hán Nôm quan trọng:
Trong đại đình Mật Ninh hiện còn lưu giữ nhiều hoành phi, câu đối cổ sơn son thếp vàng, nội dung ca ngợi công đức của đức thánh Cao Sơn đại vương cũng như cảnh đẹp của vùng đất Mật Ninh. Thí dụ như bức hoành phi ở tiền tế: “Trạc quyết linh” (Rực rỡ linh thiêng), hoành phi ở trung cung: “Ngưỡng chỉ” (Nơi kính ngưỡng),
Hệ thống câu đối trong đình còn khá phong phú, ca ngợi cảnh sắc đất Mật Ninh và công lao, sự linh thiêng của thần Cao Sơn. Câu đối trong tiền tế:
Quốc vượng hùng kỳ, văn đức chiếu minh đồng nhật nguyệt
Dân khang hỷ lạc, võ công uy liệt định sơn hà.
Nghĩa là:
Nước thịnh mạnh mẽ, đức văn chiếu sáng cùng nhật nguyệt
Dân khỏe vui vẻ, công võ oai trùm định núi sông.
Câu đối ở cột hai bên tiền tế:
Đình vũ trùng tu, hương hỏa huy hoàng Mật Ninh địa
Hùng anh tất tập, hiển linh hách diệc Quảng Minh thiên.
Dịch nghĩa:
Mái đình trùng tu, hương lửa ngời ngời đất Ninh Mật
Anh hùng tất đến, linh thiêng rờ rỡ trời Quảng Minh.
Câu đối ở gian giữa:
Thần công quốc tích lưu thiên cổ
Dân thịnh bang bình vạn thế ca.
Nghĩa là:
Công của thần lớn lao, được lưu truyền từ ngàn xưa
Dân thịnh vượng, nước bình yên, muôn đời ca tụng.
Ngoài ra, ở bình phong bên ngoài, trụ biểu và một số khu vực trong di tích cũng có câu đối ca tụng thần, ca tụng đất Mật Ninh. Câu đối ở mặt ngoài bức bình phong bên ngoài:
Sinh vi tướng phù dân bình thiên hạ
Tử vi thần linh ngự trị tại đình trung.
Nghĩa là:
Sinh làm tướng giúp dân yên thiên hạ
Chết làm thần thiêng ngự trị tại trong đình.
Câu đối ở cột giữa nghi môn:
Linh nhạc giáng thần, Bắc địa sơn hà chung tú khí
Như Nguyệt thanh phong, Nam thiên thảo mộc cộng phu vinh.
Nghĩa là:
Núi thiêng giáng thần, đất Bắc non sông đúc khí đẹp
Như Nguyệt gió mát, trời Nam cây cỏ góp vinh hoa.
Tại đình còn lưu giữ được 02 tấm bia đá, một tấm bia mặt trước đề Hành huệ lưu phúc chi bi, mặt sau đề Hậu thần bi ký. Bia làm năm Vĩnh Thọ thứ 2 (1659) nói về việc bầu hậu, thờ phụng ông Hoàng Nhuận ở bên trái ban thờ chính trong đình. Tấm bia có trang trí rồng chầu ở trán bia, xung quanh hình chim thú rất đẹp. Bia số 2 niên đại 1941 ghi việc một người phụ nữ họ Nguyễn hiến ruộng, gửi giỗ vào đình.
Đình còn có 1 cây hương đặt ở gian tiền tế trước hương án. Cây hương cổ chỉ còn lại phần đế, phía trên là cây hương mới làm lại có chữ đề: Cao Sơn Thượng đẳng thần.
5. LỄ HỘI VÀ PHONG TỤC VĂN HÓA
Lễ hội chính:
Lễ hội làng Mật Ninh là một trong những lễ hội đặc sắc trong vùng. Hội lệ được tổ chức chính vào ngày 09 tháng Giêng âm lịch. Trong hội có nghi thức rước kiệu từ đình Mật Ninh lên nghè Cả, chùa Mang ở núi Kẻ sau đó vòng về đình Mang ở phía Đông Nam của làng rồi mới rước kiệu trở lại đình.
Theo lệ cũ, xưa kia làng Mật Ninh có 8 giáp, mỗi giáp một họ là giáp Chu, giáp Hoàng, giáp Nguyễn, giáp Phan Hữu, giáp Phan Văn, giáp Chu Thế, giáp Chu Đình và giáp Hàng Thôn (thuộc xóm Đình Mang). Khi chuẩn bị vào hội, các giáp họp bàn bầu ra ông Cai đám và 10 ông trương tuần theo lệ “thôn lần xã lượt”. Giáp phải lo cho Cai đám, Trương tuần ấy gọi là giáp Dương cai. Ông Cai đám của giáp Dương cai là người phải có trách nhiệm tổ chức lễ hội cùng với các Lý dịch trong làng. Người được cử làm Trương tuần phải là người không có “bụi bám” tức là không tang trở, vợ chồng, cha mẹ, con cái song toàn,… Làng Mật Ninh không có Thủ từ nên ông Cai cũng là người thay chân ông Từ, hàng ngày có trách nhiệm đèn hương ở đình, đến và chỉ có ông mới là người được đưa lễ từ ngoài vào trong Thánh cung mỗi khi tế lễ, hội hè.
Để tổ chức hội lễ, làng Mật Ninh mời các quan viên của hội Tư văn họp và bầu ra một ban tế. Ông Chủ tế do ban tế bầu ra. Tiêu chuẩn của Chủ tế cũng phải không bụi bám, biết Hán ngữ, biết tế và trưởng mạo trong ngoài phải oai phong.
Trước tế lễ, giáp Dương cai cho mọi người dâng cây đu, tổ chức ăn đám chơi đu ngày tết. Giáp phải lo sắm sửa đầy đủ lễ vật, như: lợn đen, tổ tôm điểm sẩm, đèn nhang, hương hoa, … cho đến việc chuẩn bị lợn thờ, xôi, thịt làm hội và chuẩn bị tổ chức các trò chơi. Chiều ngày mồng 8, dân làng cho lắp kiệu ra sân đình, lau chùi sạch sẽ, đóng sẵn ở cửa đình, sau đó cho bày các đồ nghi trượng, bát bửu, gươm trường, siêu dao, chùy, côn, phủ việt, lệnh bài uy nghi trước kiệu. Lại cho đặt tàn, lọng, quạt và hai bên kiệu thánh. Giữa đôi bên bát bửu đặt nhang án để rước nhị hương ở đó chờ ngày mồng 9 rước đi. Trong đêm mồng 8, từ tối đến 00 giờ đêm có tổ chức hát Ca trù vào đám..
Sáng ngày 09 tháng Giêng, dân 8 giáp và dân làng tề tựu ở cửa đình để tổ chức cuộc rước. Làng chọn lấy trung nam tuổi từ 18 trở lên đến 30 cho vào đội rước. Các trung nam đi rước phải có vóc dáng đẹp, khỏe mạnh. Tất cả đều mặc áo nâu đỏ, quần trắng, chân quấn xà cạp, lung thắt bao đỏ bỏ mũi bên trái, trái, đầu chít khăn đỏ. Mỗi người cầm một đồ nghi trượng hoặc khiêng chiêng, trống, hương án, kiệu, tàn, lọng,…
Mật Ninh cũng có tục rước nước. Lệ quy định 5 năm hoặc 10 năm thì rước nước một lần. Rước nước cũng như rước thờ Thánh hoàng nhưng đến núi Kẻ phải đi thẳng qua Ninh Sơn rồi qua đoạn Cống Dống ở bờ sông Cầu. Ở đó đoàn rước hạ kiệu, chở các quan viên đem choé lên thuyền, bơi thuyền ra giữa sông múc nước cho vào choé đem về thờ ở đình. Sau cuộc rước kiệu về đình, làng tổ chức tế lễ. Lễ vật dâng tế có lợn đen, hương hoa, nước, rượu và trầu cau.
Phần hội xưa có nhiều trò chơi dân gian như đấu vật, chọi gà, đánh đu, nhảy phỗng, bắt vịt, tổ tôm điếm, tam cúc điếm… Diễn xướng dân gian có tuồng, chèo, hát ca trù… Trong hội làng còn có làm cỗ hương ẩm, các trai tráng từ 18 tuổi trở lên đều được ra đình ăn cỗ…
Hội làng Mật Ninh ngày nay vẫn duy trì theo lệ cũ, năm nào được mùa thì mở hội to nhưng theo định kỳ 3 đến 5 năm một lần. Hội ngày nay vẫn duy trì lễ rước nhưng không còn lễ rước nước vào các năm chẵn. Phần hội cũng có nhiều thay đổi, ngoài các trò chơi dân gian mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc như: chơi đu, đấu vật, chọi gà,… còn tổ chức hát quan họ dưới thuyền, và giao lưu câu lạc bộ thơ ca làng Mật Ninh thu hút được đông đảo người dân tham gia và hưởng ứng. Đời sống kinh tế của nhân dân khá giả hơn nên việc ăn cỗ ở đình không câu nệ như xưa nữa mà chỉ duy trì hình thức tôn trọng các cụ cao tuổi, vì thế mà tình làng nghĩa xóm ở Mật Ninh vẫn được bền chặt.
6. KẾT LUẬN
Văn bản công nhận di tích: Đình Mật Ninh đã được xếp hạng là Di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia theo Quyết định số 188 QĐ/BT của Bộ Văn hóa thông tin ngày 13 tháng 02 năm 1995.

Đình Cả Mật Ninh

Hoành phi và bình phong tiền tế

Kiệu bát cống

Hoành phi Ngưỡng chỉ






Các bức chạm kiến trúc ngoài tiền tế.

Nóc trước hậu cung với hoành phi Như tại

Bát bửu

Ngai thờ hậu thần Hoàng Nhuận

Chấp kích

Ngai thờ Cao Sơn Đại vương

Bia năm Vĩnh Thọ thứ 2 (1659)