ĐÌNH HỮU NGHI – DI TÍCH NGHỆ THUẬT QUỐC GIA

1. THÔNG TIN CHUNG

Tên gọi: Đình Hữu Nghi

Tên khác: Đình Hữu Lân (tên gọi từ thời Hậu Lê trở về trước) 

Địa chỉ cụ thể: Tổ dân phố Hữu Nghi, phường Vân Hà, tỉnh Bắc Ninh

Vị trí địa lý và không gian cảnh quan:

Mô tả vị trí:  Đình nằm kề bên dòng sông Nguyệt Đức (sông Cầu), phía Bắc đường làng và hồ ao tổ dân phố Hữu Nghi, phía Đông, phía Tây, phía Nam giáp khu dân cư tổ dân phố Hữu Nghi. Thời xưa Hữu Nghi gọi là Hữu Lân, thuộc tổng Quang Biểu, huyện Việt Yên, phủ Bắc Hà.

Yếu tố phong thủy: đình Hữu Nghi nhìn theo hướng Nam – ra sông Cầu thơ mộng. Địa điểm đình nằm ở rìa trước làng Hữu Nghi, xung quanh 3 phía giáp với nhà dân, đằng sau còn có ngôi chùa cổ kính, đằng trước là hồ ao trong mát.

Niên đại khởi dựng và các lần trùng tu:

Thông qua kết quả khảo sát về hiện trạng di tích các tài liệu hiện vật ở đây, quan trọng nhất là hệ thống bia đá (hậu thần), có thể xác định đình Hữu Nghị là công trình tín ngưỡng văn hoá được xây dựng từ thời hậu Lê (thế kỷ XVIII). Hiện tại ở đây còn hai tấm bia cổ ghi niên hiệu Vĩnh Thịnh (từ năm 1706 đến 1719) đời vua Lê Dụ Tông.

Trải qua bao bước thăng trầm của lịch sử quê hương và đất nước, đình làng Hữu Nghi đã trùng tu sửa chữa nhiều lần vào triều Nguyễn. Qua nội dung các tấm bia đá và hiện trạng công trình đã cho ta thấy điều đó; hiện nay đình vẫn còn vững chắc, được nhân dân địa phương quan tâm bảo vệ chu đáo.

2. GIÁ TRỊ LỊCH SỬ

Nhân vật được thờ: 

Đình Hữu Nghi là công trình tín ngưỡng văn hoá tiêu biểu của dân thôn thờ phụng thành hoàng là đức thánh Tam Giang. Đây là một trong số hơn 300 làng thờ đức thánh Tam Giang dọc hai bờ sông Cầu (Nguyệt Đức) từ Ngã Ba Xà đến Lục Đầu Giang.

Sự kiện lịch sử, văn hóa gắn liền với di tích:

Sự tích về đức thánh Tam Giang được ghi lại trong bản khai của chức dịch địa phương vào năm 1938 như sau: 

Thánh mẫu là người họ Trương, người ở làng Vân Mẫu, huyện Quế Dương, sau là huyện Võ Giàng, tỉnh Bắc Ninh. Năm 18 tuổi nhan sắc xinh đẹp; đến năm 22 tuổi bà nằm mộng thấy thần nhân giao cảm, từ đó mang thai 13 tháng rồi sinh được một bọc 4 người con trai, 1 người con gái, đặt tên thứ tự là Trương Hống, Trương Hát, Trương Lừng, Trương Lẫy và Trương Thị Đạm Nương.

​Khi lớn lên anh em họ Trương tài lực hơn người, sau ra giúp vua Triệu Đà đánh giặc có công. Vua phong cho là Đại tướng quân. Khi nhà Triệu mất nước, Ngài về ở ẩn tại núi Vũ Ninh, đến khi nhà Lý làm vua có triệu Ngài ra làm quan, nhưng Ngài không ra, mấy anh em xuống một chiếc thuyền, giả làm thuyền buôn, đi đến Ngã Ba sông Nguyệt Đức, một đàng đi về Sóc Sơn, một đàng về Tam Kỳ, Ngài đã đục thuyền để tự thác, tức là ngày mùng 8 tháng tư. 

Đến đời vua Triệu Quang Phục làm vua, nhà Lương bên Tàu có sai tướng Dương Sàn đem quân sang xâm lấn nước ta. Nhà vua đem quân ra chống cự không được. Ngài âm phù, đánh tan được quân Tàu, đuổi được quân Dương Sàn về. Vua Triệu Quang Phục phong cho Ngài là Tam Giang thượng đẳng thần.

Sau đến đời vua Lê Đại Hành, vua Tống Thái Tổ bên Tàu sai tướng Nhân Bảo, Tồn Phúc sang xâm lấn nước ta, vua Lê phải đem quân ra đất Phù Lan chống giữ. Vua có mộng thấy hai người thần đến tâu rằng: 

– Hai anh em chúng tôi là họ Trương, trước có giúp vua Triệu bình giặc Lương, nay xin giúp nhà vua đánh giặc để yên nước Nam.

Đến nửa đêm quả thấy khí trời mờ ám, mưa to gió lớn và văng vẳng trên không có tiếng ngâm thơ, rồi quân nhà Tống vỡ tan. Dẹp giặc yên, vua Lê phong thưởng cho Ngài là Khước địch Đại tướng, sai các làng ở bên bờ sông Nguyệt Đức phụng thờ.

3. KIẾN TRÚC VÀ NGHỆ THUẬT

Bố cục mặt bằng tổng thể và các hạng mục chính:

Mô tả bố cục: Đình có bố cục kiến trúc kiểu chữ Đinh gồm tòa tiền đình 03 gian, 02 chái và tòa hậu cung  02 gian.

Mô tả từng hạng mục:

Đình Hữu Nghị là công trình kiến trúc nghệ thuật cổ kính, trải qua nhiều lần tu bổ đến nay công trình kiến trúc này vẫn giữ được giá trị cơ bản của mình. Mái đình thấp là đặc điểm kiến trúc của các ngôi đình thời hậu Lê, nhưng nó được tạo dáng thanh thoát nhẹ nhàng bởi các đầu đao cong mái lượn. Chính giữa bờ nóc đình có đắp lưỡng long chầu nguyệt.  Sân đình hẹp bởi đằng trước là đường làng và hồ ao, hai bên là ngõ xóm.

Toàn bộ cấu trúc khung mái toà đại đình tuy không đồ sộ như một số đình khác nhưng kiểu dáng kiến trúc ở đây đẹp phù hợp với khung cảnh thiên nhiên. Các cấu kiện kiến trúc đều bằng gỗ lim chắc khỏe nay đã nhuốm màu thời gian. Tòa hậu cung hình chuôi vồ nối với đại đình, được kiến trúc xây dựng sau (thời Nguyễn), theo lối thượng con chồng rường, hạ xà nách.

Kết cấu chiếu ngang, liên kết các vì kèo của đình Hữu Nghị là hệ thống xà dọc, xà thượng và xà hạ. Không thấy các vết rãnh trên thân xà, chứng tỏ rằng nguyên thuỷ đình cũng không có ván nong. Hệ thống bảy ở đình là các đầu kẻ tràng chạy suốt từ trên các đầu xuống đỡ mái tàu, đây là thành phần kiến trúc quan trọng tạo nên giá trị nghệ thuật cho ngôi đình này.

Bốn đầu dao đại đình đều được xây cột gạch đỡ bên dưới vừa để tạo dáng kiến trúc vừa cho thêm phần chắc chắn. Ba mặt còn lại của đại đình được xây dựng tường gạch, mặt ngoài để trơn không trát và trang trí gì ngoài các ô lỗ song gạch nhỏ để thông thoáng khí. Hai đầu hồi toà đại đình được đắp vát mặt hộ phủ trông dữ tợn, che lấp phần cấu trúc gỗ bên trong khỏi bị mưa nắng hắt vào. Kết cấu bên trong tòa đại đình theo kiểu truyền thống thời hậu Lê kẻ tràng cánh ác, thượng như chính đình, bao gồm 5 gian hai dĩ. Cấu trúc gỗ phần mái được phân bố trên 44 cột lớn nhỏ, các góc đình được kết cấu bằng 4 cột con ngoài tạo thành hình tứ diện. Các cột này nối với nhau 4 cột ngoài cao hơn qua một hệ kẻ tràng chạy suốt lên tận trên. Kết cấu chiều dọc từ góc đình vào gian cạnh là hệ thống xà cộc, con chồng kẻ đấu vững chắc.

​Toàn hoành dui làm bằng gỗ lim bào trơn đóng bén vuông thành sắc cạnh. Các kẻ tràng đều một đầu trên cho qua cột cái chừng 40cm để gánh đỡ đầu cẩu thực sự chịu lực chứ không như đầu dơ. Đó là đặc điểm kiến trúc ở công trình di tích này. Đầu dưới của các kẻ tràng lao thẳng tận hiên đỡ tàu mái. Riêng gian giữa ở phía trong thì không phải kẻ tràng mà là các cột con nối xuống tường chạy dọc vào hậu cung chuôi vồ.

Bên trong tòa hậu cung được kết cấu hai gian, theo lối thượng con chồng, hạ xà nách. Bệ thờ xây gạch trát kín không đắp vẽ gì. Bên trên đặt ngai thờ thánh nhưng không có bài vị. Phần hậu cung chuôi vồ khắc với đình các nơi là nó không nối liền với toà đại đình mà nó là hai gian nhà có tường hồi gắn áp vào tường hậu gian giữa toà đại đình, được kiến trúc xây dựng sau (thời Nguyễn).

Nghệ thuật trang trí, điêu khắc: 

Chạm khắc gỗ: 

Nghệ thuật chạm khắc ở đây chủ yếu tập trung ở các mảng thuộc gian giữa toà đại đình, đề tài chủ yếu là hình tứ linh (long, ly, quy, phượng), tứ quý (tùng, trúc, cúc, mai) xen lẫn các hình hoa lá cách điệu, rồng hóa trúc, phương múa… đây là đề tài thường gặp ở các ngôi đình có niên đại tương đương.

Cửa võng là thành phần chạm khắc nghệ thuật thuộc loại hình di tích kiến trúc- nghệ thuật, nối liền hai cột bên trong gian giữa với nhau làm rực rỡ hơn lên không gian trong đình. Tầng trên là hình lưỡng long chầu vào nhau, hàng thứ hai chia thành 5 ô: ô giữa hình chữ nhật khắc ở trong 3 chữ Hán “Tối linh từ” sơn son thếp vàng rực rỡ, các ô kia hình vuông bên trong chạm hình phượng múa và hoa lá cách điệu. Hai hàng bên dưới cũng phân thành các ô hình học phát triển theo chiều ngang của đình, bên trong chạm lộng các hình tứ linh và hoa lá cách điệu. Hai bên diềm cửa võng chạm khắc đôi rồng hoá rực đăng tự thế lao xuống, cùng với phần râu chấn bên trên tạo thành hình lưỡng mãng ôm che các ô trang trí bên trên cửa võng. Dọc theo diềm hai bên cửa võng có hai ô dài chạy thẳng từ trên xuống cách chân cột 0,7cm, tạo thành đôi câu đối chữ Hán thếp vàng, nền sơn son rực rỡ nội dung ca ngợi đức thánh được thờ ở trong đình Đầu dưới hai câu đối có hai ô vuông như bên trên, ở trong chạm hai con ly liễn rất sinh động.

​Cửa hậu cung đình có 4 cột gỗ tạo thành 3 ô cửa, hai cửa cạnh khung tranh, cánh ác kín không chạm trổ, ở giữa là cửa hình vuông để thông vào hậu cung (cửa cấm) có 4 cánh ghép lại, không phải để đi lại, mà là để thánh cung nhìn ra ngoài đại đình.

So với các di tích khác, hệ thống chạm khắc gỗ của đình Hữu Nghi giữ lại không nhiều nhưng phần nào vẫn tạo cho di tích sự cổ kính, có giá trị nghiên cứu lịch sử, mỹ thuật, kiến trúc.

Đắp vữa, ghép mảnh: Với các đề tài lưỡng long chầu nguyệt trên mái đình, tứ linh, hoa văn… phong cách nghệ thuật thời Nguyễn thể hiện ở các cấu kiện bên ngoài như mái đình, cột trụ cổng đình.

4. GIÁ TRỊ HIỆN VẬT

Bài trí thờ tự: Nơi quan trọng và linh thiêng nhất của đình là gian hậu cung. Tại đình Hữu Nghi hiện nay, trong hậu cung bài trí đơn giản, chính giữa có một ngai thờ cổ sơn son thiếp vàng đặt ở vị trí cao nhất; bên dưới có bát hương, lọ hoa. Hệ thống kèo cột ở đây không có chạm khắc, sơn thiếp, không có hoành phi, câu đối. 

Bên ngoài, tại tiền tế có một án thờ bày bát hương, chân nến, lọ hoa, mâm bồng và hệ thống nghi trượng gồm bát bửu, chấp kích, tán lọng, hai bên có đôi ngựa gỗ to như ngựa thật: một ngựa sơn màu đỏ mận, một ngựa sơn màu trắng, cạnh đó đặt chiêng, trống, kiệu bát cống… Nhìn chung trải qua thời gian với nhiều biến động, những hiện vật cổ tại đình Hữu Nghi không còn nhiều, việc bày biện hiện nay đơn giản, phần lớn là đồ thờ tự mới. 

Di sản Hán Nôm quan trọng: 

Đình Hữu Nghi không còn giữ được các tài liệu cổ như sắc phong, thần phả, văn tế… Tra cứu hồ sơ lưu trữ tại Viện thông tin khoa học xã hội, vào năm 1938 theo bản kê khai thần tích, thần sắc của làng thì vào thời điểm đó tại đình có 04 đạo sắc phong đời vua Thiệu Trị (năm 1846), 03 đạo sắc phong đời vua Tự Đức (các năm 1850 và 1879), 01 đạo sắc đời vua Đồng Khánh (năm 1887), 01 đạo sắc đời vua Duy Tân (năm 1909), 01 đạo sắc đời vua Khải Định (năm 1924).

Về hoành phi, câu đối cổ tại đình còn giữ được ít câu đối, như trên có bộ cửa võng gỗ cổ trước tiền tế có bức hoành phi “Tối linh từ” (Linh thiêng nhất), hai bên có câu đối:

Giang gian chiến hạm trung huynh đệ
Thiên thượng ngâm thi tiệt Bắc Nam.

Dịch là:

Giữa sông thuyền đắm, tỏ lòng trung hai anh em
Trên trời ngâm thơ, phân rạch rõ Nam Bắc.

Một câu khác có nội dung như sau:

Phúc dân khả bái tam công tước
Thọ thánh năng hô vạn tuế thanh.

Dịch là:

Phúc dân có thể bái tước Tam công
Chúc thánh có thể hô tiếng Vạn tuế.

Về bia đá, tại đình Hữu Nghi còn giữ được 02 tấm bia đá cổ, dạng bia tứ diện (04 mặt), một bia là “Lưu trạch bi văn, vĩnh thùy phụng sự” ghi công đức và lập hậu thần vào niên hiệu Vĩnh Thịnh của vua Lê Dụ Tông năm Nhâm Thìn (1712) và một bia “Hậu thần bi ký” là bia lập hậu thần vào thời nhà Nguyễn niên hiệu Tự Đức năm Quý Dậu (1873) ngày 12 tháng Giêng.

5. LỄ HỘI VÀ PHONG TỤC VĂN HÓA

Lễ hội chính: 

Hằng năm, hội lệ đình Hữu Nghi được tổ chức vào ngày mồng 07 tháng Giêng âm lịch, đây là lễ hội truyền thống của đình. Trong ngày lễ hội có phần nghi thức rước và tế thành hoàng được tổ chức long trọng với các nghi lễ tế Thánh, dâng hương, rước kiệu.

Về phần hội, sau phần lễ sẽ  là phần hội với nhiều hoạt động văn hóa, văn nghệ với những trò chơi dân gian mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc thu hút đông đảo người dân tham gia  như cờ người, đánh đu, đấu vật, chọi gà, hát quan họ, hát nhà tơ trước cửa đình… 

Theo lệ xưa, vào ngày 12 tháng 8 âm lịch tại đình còn tổ chức vào đám kỳ phúc, lễ vật không thể thiếu dâng lên cúng thánh là rượu hoàng tửu và chuối; những năm được mùa có thêm thịt lợn dâng cúng. Vì làng Hữu Nghi có giao hiếu với làng Cao Lôi nên vào lễ kỳ phúc, người dân Cao Lôi cử đại diện mang lễ vật đến cúng Thành hoàng làng Hữu Nghi, ngược lại khi làng Cao Lôi làm lễ hội, dân làng Hữu Nghi cũng cử đại diện mang đồ lễ đến cúng tế. 

Ngoài các hoạt động lễ hội nói trên, xưa kia làng Hữu Nghi còn kết chạ với làng quan họ Hữu Chấp (Bắc Ninh) nên vào dịp Tết Nguyên đán, lễ hội tháng Giêng cho hết tháng 4 âm lịch, những lúc nông nhàn, Quan họ của làng sẽ đi hát ở các nơi trong vùng như hát ở Quang Biểu, Giá Sơn, Mai Vũ, Nội Ninh, Sen Hồ (Bắc Giang) và Hữu Chấp (Bắc Ninh).

6. KẾT LUẬN

Văn bản công nhận di tích:

Với những giá trị về mặt nghệ thuật, đình Hữu Nghi đã được Bộ Văn hóa xếp hạng là di tích nghệ thuật cấp Quốc gia theo quyết định số 1568/QĐBT, ngày 20 tháng 4 năm 1995. 

Bia Lưu trạch bi văn Vĩnh thùy phụng sự năm Vĩnh Thịnh (1712)Bia Hậu thần bi ký niên hiệu Tự Đức (1873)

Đình Hữu Nghi

Cửa võng và câu đối đình Hữu Nghi.

Leave a comment