Chép theo bản khai Thần tích thần sắc số 4419
Đời vua Tiền Lý Nam Đế có bà thánh mẫu tên hiệu là Từ Nhan, người làng Vân Mẫu, huyện Quế Dương, quận Vũ Ninh. Khi bà 18 tuổi sắc đẹp hơn người, nết na thuần thục. Đêm hôm rằm tháng Một năm Canh Thìn nằm chiêm bao tắm ở sông Lục Đầu, thấy thần long quấn vào mình mà có thai. Được 14 tháng đến mùng 6 tháng Giêng năm Nhâm Ngọ lên chùa lễ Phật trở về đến giữa đường là xứ Cửa Cữu, sinh ra 1 cái bọc 5 con, 4 con trai 1 con gái, đem về nuôi dạy. Mặt mũi khôi ngô, xem giáng có đủ tài văn võ. Con trai đặt tên là: Hống, Hát, Lẫy và Lừng. Con gái gọi là Đậu nương. Đến rằm tháng 4 năm Kỷ Hợi ngày 15 tháng Tư đức thánh mẫu cõi trần lánh bước. Đêm hôm ấy có ông thần gọi bảo rằng:
- Đưa mẫu thân đem ra táng ở bên gò lớn chỗ đồng chiêm gần cạnh làng, tức phương Nam có giếng, đấy là ngôi đất tốt!
Anh em nghe lời thần, sau được quả nhiên.
Anh em đức thánh Tam Giang sinh ra ở làng Vân Mẫu, khi còn bé chơi cùng lũ trẻ hay bầy ra nhiều chước lạ lùng. Sau theo học ông Lữ tiên sinh tập đọc binh thư, lầu thông văn võ. Nhân khi hỏi mẹ rằng sao có mẹ mà không thấy cha?
Mẹ thuật chuyện Thần long khi trước, ấy là giống Thủy thần, dòng dõi họ Trương mọi lẽ. Từ đấy các ông xin theo họ Trương. Trong mười mấy năm nhà tuy bần bách nhưng đọc sách hầu mẹ không hề lỗi đạo. Tới khi mẹ chết, an táng xong rồi thương khóc mà than rằng:
- Cây muốn lặng mà gió chẳng đừng. Con muốn hầu mẹ mà mẹ sớm mất.
Đêm thường ra thăm mả mẹ, trở về đến xứ Bãi Cả thấy quỷ sứ đón đường. Hai ông cùng chúng quỷ vật nhau mấy khắc. Quỷ thua cả, biết hai ông có tài lược hơn người, đều cùng la bái mà thưa rằng:
- Chúng tôi đây là chúa quỷ cai Xích y quỷ bộ và Bạch y quỷ bộ. Thấy hai ông là vực anh tài, xin có 2 bức tiên bào dâng 2 ông để làm bảo bối. Xin theo hầu để làm đệ tử.
Hai ông nhận lấy tiên bào rồi cám ơn chúng quỷ. Từ đấy hiếu nghĩa thờ mẹ trọn ven 3 năm, chẳng ngày nào sơ suất. Mãn tang rồi tuổi đã 20, gặp khi trong nước có loạn là nhà Lương Đại Đồng bên Tầu sai danh tướng là Trần Bá Tiên và Dương Phiêu đem quân sang đánh nước Nam ta, làm nhiễu muôn dân, đau lòng trăm họ.
Đức Tiền Lý Nam Đế cùng 3 viên đại tướng là: ông Triệu Túc làm chức Thái phó, người Tinh Thiều và Phạm Tu làm văn võ tướng đem binh ra đánh. Nhưng quân Lương thế mạnh chống không nổi, mấy ủy quyền cho ông Triệu Quang Phục là con quan Thái phó làm Tả tướng quân, cầm lấy quân của cha là Triệu Túc đứng lại mà đánh, để người Lý Thiên bảo và Lý Phật Tử đem vua chạy vào động Khuất Liêu, tạm an quân sĩ.
Trần Bá Tiên đang khi cường thịnh, Triệu chống không nổi, phải đem quân về Dạ Trạch (là Khoái Châu tỉnh Hưng Yên ngày nay). Quân Lương đuổi theo vây bọc xung quanh, định làm cho Triệu tận lương vô kế, không phải đánh mà chết.
Quân Triệu tình thế đã nguy, ngày thì phải tắt khói lửa, đêm thì đem quân đánh trộm, cho người đi trao truyền hịch bá cáo muôn dân, ai là người có tài ra giúp nước thưởng công không nhỏ.
Khi ấy các ông anh em đức thánh Tam Giang nghe thấy nhà vua có lệnh chiêu tài, anh em bàn nhau tính kế lập thân, mộ quân để đi giúp nước. Khi đi đến huyện Kim Hoa (tức là Kim Anh) vào làng Tiên Tạo, phủ Đa Phúc. Ông Triệu Quang Phục nghe biết tin sai người đến đón mà phong cho ông Cả làm quan Thượng tướng quân. Ông Hai làm Phó tướng quân. Ông Ba, ông Tư đều làm tùy tướng cả. Hội đồng trù toán binh cơ, trẩy đi đánh giặc.
Khi ấy tháng Tư trời mưa to. Đường xá lầy lội, cây cối rậm rạp. Người và ngựa không đi được. Hai ông dâng thư lên cùng Triệu Quang Phục rằng:
- Chúng tôi xin tận lực lấy gỗ đục làm thuyền, chia binh lập trận, 4 mặt cùng đánh thì quân giặc phải tan.
Ông Triệu Quang Phục y lời.
Các ông truyền lệnh mưu cơ, khởi quân tiến chặn, xung đột tung hoành. Quân binh đại bại chạy về nước Tầu.
Dẹp giặc xong rồi, khải hoàn tấu điệp, khao thưởng quân sĩ. Ông Triệu Quang Phục kéo quân về đóng đô ở thành Long Biên. Bấy giờ mới xưng là Triệu Việt Vương. Phong cho ông Cả thực ấp Kinh Bắc (là Bắc Ninh), ông Hai thực ấp Đông Ngàn (là làng Tam Lư).
Dân Tiên Tạo, dân Tam Lư đến bái yết mà xưng tụng rằng:
- Chư ông sống làm tướng mạnh, thác làm thần thiêng. Dân chúng tôi được nhờ ơn công đức, của nhà bình yên, không biết lấy gì đền báo. Vậy xin chốn quân đóng đồn lập lên đền thờ, mai sau ức niên hương hỏa.
Chư ông y lời, rồi cho dân Tiên Tạo 50 nén vàng, dân Tam Lư 30 nén vàng, đem về nuôi kẻ già, cứu kẻ nghèo, mua ruộng để làm hương hỏa.
Khi nước ta bình rồi thì đức Tiền Lý Nam Đế và ông Lý Thiên Bảo đã thác ở động Khuất Liêu rồi. Còn ông Lý Phật Tử chạy vào Giã Năng động ở nước Ai Lao xưng làm Đào Lang Vương. Biết tin nước nhà đã bình rồi, kéo quân Xiêm, quân Lào về đánh. Có tin báo rằng:
- Ông Lý Phật Tử là con cháu nhà Lý, đem hơn 60 vạn quân Xiêm Lào về đánh nước.
Ông Triệu Việt Vương sai quan Trương tả hữu tướng quân đem quân ra đánh. Lý Phật Tử địch không nổi phải chạy lui về Ô Diên, rồi đưa thư xin cầu hòa để cho ở yên một xứ. Vua Triệu nghĩa rằng:
- Ông Phật Tử là con cháu nhà Tiền Lý có lẽ nào ta quên được cái ơn đức Tiên quân.
Nhận lời hòa mà nhượng đất cho ở một xứ. Hai ông Trương tướng quân can ngăn rằng:
- Việc ấy không nên.
Vua Triệu không nghe, chia cõi Quân Thần ở Thượng Cát xã, Hạ Cát xã, thuộc huyện Từ Liêm bên Đông về nhà Triệu, Tây về nhà Lý. Thế là nhất quốc lưỡng vương.
Từ đấy ông Lý Phật Tử lại xưng là Hậu Lý Nam Đế. Sau ông dụng tình bất trắc, mượn kế cầu thân cho con trai là Nhã Lang vào làm rể, lấy con gái ông Triệu Việt Vương là Cảo Nương. Hai ông Trương tướng quân lại hết lòng can gián mà nói rằng:
- Sự tích Trọng Thủy, Mỵ Châu gần đó chưa lâu. Ngài chắng nhớ ru? Nếu chẳng nghĩ trước thì về sau hối sao cho kịp?
Vua không nghe cứ lấy những sự ấy là hay, và như thế lại càng yên nước. Hai ông can mà không nổi, bảo nhau nạp chức từ quan vào rừng Phù Long ở, thuộc tỉnh Sơn Tây, huyện Phúc Thọ, Phù Long xã (trước gọi là Phù Long sơn trang), mười mấy năm trời canh nông vi nghiệp.
Ông Triệu Việt Vương đã trúng kế ông Phật Tử cho con vào làm rể, ăn ở hầu hạ, cha tin con, vợ yêu chồng, vui vẻ đêm ngày, một nhà sum họp. Lý Nhã Lang nhân khi nhàn hỏi vợ rằng:
- Sự đánh giặc quan hệ là tướng giỏi, Trần Bá Tiên và Dương Phiêu là tướng đại tài của nhà Lương, không phải người hèn mà sao đánh đuổi được? Thế tướng nào đánh trận ấy hay là có bảo bối chi!
Cảo Nương đáp rằng:
- Khi đánh được giặc Lương ấy là có anh em ông Trương tả hữu tướng quân, văn võ toàn tài và có long trảo đâu mâu ấy là bảo bối.
Lại hỏi rằng:
- Những viên tướng ấy ở đâu mà từ khi tôi về đây không thấy bao giờ, mà long trảo đâu mâu tôi cũng chưa từng trông thấy bao giờ.
Vợ thuật chuyện 2 viên tướng ấy từ khi can vua không nghe, sau 2 viên tướng ấy từ chức đi đâu không biết. Còn long trảo đâu mâu thì đưa cho chồng xem.
Nhã Lang được xem rồi, lưu tâm nhận lấy hình dáng long trảo, đợi khi nhà vắng, lấy miếng xương khác thay vào, lấy long trảo dấu đi, rồi xin về vấn an, tâu vua Triệu rằng:
- Ơn trời từ khi 2 nước hòa hảo cho chúng tôi cũng được sum vầy cùng nhau nay đã lâu ngày. Chúng tôi tấm lòng thần hôn chạnh nhớ. Xin vương phụ lượng xét cho tôi về vấn an cho phải đạo.
Vua Triệu y lời. Nhã Lang bái biệt, chỉ gót vó câu, chẳng bao lâu về đến Ô Diên thành, vào tâu vua Lý:
- Các chuyện bên Triệu trước kia sự chinh chiến, binh cơ bách chiến bách thắng là vì có anh em Trương tướng quân văn võ toàn tài, và long trảo đâu mâu thần cho để làm bảo bối, cho nên đánh đâu được đấy. Từ khi Lý Triệu hòa hảo lại 2 nhà thông gia cùng nhau, 2 viên tướng ấy can ngăn mà vua Triệu không nghe. Sau 2 viên ấy nạp chức từ quan, rồi đi đâu không biết, mà long trảo lấy được đây.
Vua Lý nghe nói đầu đuôi, thương nghị văn bõ đè quân sang đánh Triệu ngay.
Quan canh vào báo có giặc kéo đến đánh thành, quân đông như kiến, tình thế nguy cấp. Vua cười mà nói rằng:
- Có sợ gì giặc. Đã có bảo bối thần cho, giặc nào địch nổi.
Vội vàng vào lấy đâu mâu đội lên, giục quân ra đánh. Đâu mâu không thấy công hiệu, giặc càng đánh sấn vào thành. Thế chống không lại, vội vàng bế con gái là Cảo Nương lên ngựa lui ra cửa Nam, chạy xuống Đại Nha hải khẩu. Giặc đuổi đến sau lưng, không chạy đi đâu được nữa. Ngửa mặt lên kêu trời: Cùng đường mất rồi! Gieo mình xuống bể tự tận.
Có câu than rằng:
Lòng trung báo đáp tiền quân
Ngờ đâu Phật Tử bội ân thấy này
Họ Trương can gián đêm ngày
Chẳng nghe lời phải, tớ thầy bèn xa.
Tin con mắc kế gian tà
Đâu mâu long trảo lại ra tay người
Giang sơn phó giả mặc trời
Đại Nha hải khẩu thảnh thơi suối vàng.
Ông Lý Phật Tử đã diệt được Triệu rồi, biết anh em Trương tướng quân là bực có tài, muốn mua chuộc lòng người cho yên thiên hạ, sai người đi tìm đón 2 vị Trương tướng quân ra làm quan giúp mình. Phái nhân khi đi tìm thấy ở đâu mời bằng được. Đi đến rừng Phù Lang thấy các ông ở đây, vào thưa rằng:
- Tôi tuân lệnh vua Lý cho đến mời 2 ông về làm quan giúp nhà Lý.
Hai ông đáp rằng:
- Chúng tôi trước đã làm tôi nhà Triệu, vì lòng chung đem lời can gián mà vua chẳng nghe. Chúng tôi có tài năng gì mà ra làm quan với nhà Lý nữa.
Phái nhân về tâu vua Lý:
- Tôi tìm thấy 2 ông ở rừng Phù Lang. Mời thế nào các ông cũng không chịu ra.
Vua lại sai đi lại nói rằng mời 2 ông về cho làm chức Thứ sử. Phái nhân vâng lệnh ra đi vào rừng Phù Lang, cũng thưa như lời vua Lý dặn.
Hai ông nghe nói nổi giận lôi đình, thét mắng om xòm, bảo rằng:
- Trung thần bất sự nhị quân, có lẽ nào thờ người điên đảo hại chúa. Lập tức ra mau.
Phái nhân phải cút ngay về tâu vua Lý. Vua Lý tức giận hạ lệnh rằng:
- Ai bắt được anh em họ Trương đem nộp, sẽ thưởng nghìn vàng, lại phong cho quyền tước nữa.
Các ông nghe thấy tin vua Lý hạ lệnh bắt, anh em bàn nhau rằng:
- Đã thế ta khởi quân đánh, báo thù cho Triệu.
Ông Cả can rằng:
- Chẳng qua là ngôi trời đã định cho nên vua Triệu không nghe lời anh em ta can gián mà phải mắc kế gian mưu. Thôi! Nay anh em ta có khởi quân đánh chăng nữa, chỉ là tàn dân hại vật! Chứ vua Triệu không sống lại được nữa. Ta nên thoái thác cho yên trăm họ. Hoặc là lánh đi nơi khác, hoặc là uống thuốc độc mà chết cho toàn lấy chữ Trung là hơn.
Cả nhà nghe nói xin cùng sống thác một ngày có nhau. Bảo nhau cùng xuống thuyền giả làm thuyền buôn xuôi về quê tảo mộ. Khi chèo thuyền vào đến sông Vũ Bình, Ngã ba Xà, thấy chốn ấy giang sơn tú khí, phong thủy hữu tình, chèo thuyền ra giữa sông đánh đắm thuyền mà tự vẫn cả nhà (tức sông Nguyệt Đức thuộc Phương La xã, Yên Phong huyện tỉnh Bắc Giang). Thuyền ông Hai trôi xuống Ngã ba Nhãn, thấy phong cảnh chung linh, cũng đánh đắm thuyền cùng cả nhà tự vẫn, là ngày mồng mười tháng 4 chết cả (tức là Phượng Nhãn xã, Phượng Nhãn huyện, Bắc Giang tỉnh).
Khi xuống thuyền con 2 cô cháu đem nhau đi ra rừng chơi, không kịp đi theo phải ở lại Phù Long, là bà Mỹ Đạm, cháu là Trương Kiều là con thứ 4 ông Cả mới có 2 tuổi.
Ông Lý Phật Tử sau nghe tin rằng anh em họ Trương đã tự vẫn cả rồi, nghĩ hối lại mà cảm tình là một nhà trung nghĩa như thế mà là không được gặp. Sau lại có người tâu rằng:
- Dòng dõi họ Trương còn 1 người tên gọi Trương Kiều, khi trước cha chú đi thì còn bé không kịp đi theo phải ở lại Phù Long.
Ông Lý Phật Tử cả mừng sai người đi đón ông Kiều về cho làm quan Thứ sử. Người đến đón cũng nói như lời vua Lý. Ông Kiều nghe nói cảm động tấm lòng cha chú là một nhà hiếu nghĩa, lại không chịu nhận chức Thứ sử, rồi chạy trốn đi theo cha chú cho tròn hiếu đạo.
Khi đi thơ thẩn đến Vũ Bình giang, ngã ba Xà, tự nhiên động lòng ai oán. Hỏi dò la nhân dân ở đấy kể chuyện rằng:
- Chốn sông nay những năm trước có anh em quan Trương tả hữu tướng quân vì đánh đắm thuyền tự vẫn cả nhà ở đấy.
Ông Kiều nghe nói căm gan nổi giận, khóc mà than rằng:
Trời cao soi xét lòng trung,
Sắt son vì nước , thủy chung một nhà
Sống mà thẹn mấy sơn hà
Cũng xin theo xuống mẹ cha sông này.
Than xong gieo mình xuống sông mà chết, là ngày mồng 2 tháng 2. Nay có đền thờ ở làng Mai Thượng huyện Hiệp Hòa tỉnh Bắc Giang, gọi là Đức thánh Hậu. Bà cô thì giả làm nhà chùa về làng Vân Mẫu tảo mộ, ở lại 1 tháng, nhớ đến trung nghĩa cả nhà, lại ra gò Con Cá ở giữa đầm chiêm tự vẫn. Đấy gọi là Cây Sồng, địa phận làng Chu Mẫu, hiện có miếu thờ ở gần Cổng Muối.
Ông Phật Tử vẫn tìm dòng dõi họ Trương là 1 nhà trung nghĩa, sau nghe không còn ai nữa, thương tiếc hối lại bởi vì mình vội nóng quá, hạ lệnh bắt anh em nhà ông cảm khái mà đi tự vẫn cả nhà, ái tình phong ông Cả là: Vũ Lâm Lang Quả nghị Linh ứng Thượng tướng quân. Phong cho ông Hai là: Đại thụ tướng quân. Truyền cho xã Bảo Vệ, xã Phù Long ở huyện Phúc Thọ, tỉnh Sơn Tây phải lập đền thờ, ức niên hương hỏa (trước gọi là Phù Long sơn trang).
Trước khi đánh đắm thuyền tự vẫn có bưng 1 bộ Táo quân để lên bờ sông rồi thuyền mới đánh đắm. Thấy rồng rắn cá nhảy lên ầm ầm. Bệ Táo quân cũng cảm tình mà nhảy xuống. Hiện đền làng Phương La có thờ 1 tòa tượng Táo quân.
Chư công sinh vi tướng trung nghĩa vị thần, tử vị thần khí phách vị tán, vị Việt Nam âm phù bảo hộ. Kim thỉnh kế kỳ sự cấp lệnh tặng phong mà luận.
Đến đời nhà Hậu Ngô ông Văn Xương xưng là Nam Tấn Vương đánh giặc Lý Huy ở núi Côn Luân đưa quân vào đóng ở rừng Phù Long, đêm nằm thấy 2 ông cùng đến trước mặt mà thưa rằng:
- Chúng tôi xin giúp vua để đánh giặc.
Vua giật mình mà hỏi rằng:
- Các người la ai, trẫm chưa từng được biết.
2 ông thưa rằng:
- Chúng tôi ở Phù Long trang, tên tôi là Trương Hống, em tôi là Trương Hát. Trước khi làm quan theo phù đức Triệu Việt Vương. Sau khi nhà Lý dùng mưu gian diệt Triệu rồi nhà Lý có gọi anh em tôi ra làm quan. Chúng tôi nghĩ rằng, trung thất bất sự nhị quân, có lẽ nào thờ người điên đảo hại chúa. Cho nên chúng tôi cả nhà cùng xuống thuyền đánh đắm mà tự vẫn cả cho toàn trung nghĩa. Thượng đế thương chúng tôi là 1 nhà trung nghĩa, phong cho tôi làm Than Hà Long Vương, phong cho em tôi làm Chi Mạn Nguyên đầu Tuần đô Phó sứ. Cai quản cả sông Vũ Bình giang và sông Lạng Bình giang. Đức tiên chúa khi trước phá được nhà Nam Hán bắt được người Hoàng Thao ở sông Bạch Đằng cũng là có anh em chúng tôi hết lòng âm trợ. Tuy đạo âm dương bị cách biệt, nhưng đạo vua tôi coi như là một.
Vua tỉnh ra mấy biết là mình chiêm bao, truyền lấy trầu rượu mà làm lễ khấn rằng:
- Xin hết lòng âm trợ dẹp được xong rồi sai lập miếu thờ, ức niên hương hỏa.
Hôm sau ông Nam Tấn đem quân đi đánh vây ở núi Côn Luân, ai ai đều trông thấy giặc đóng ở trên đỉnh núi cao chót vót. Đêm hôm ấy thấy 2 ông hội quân ở rừng Phù Long để đi đánh giặc. Ông anh đem quân sang Vũ Bình giang vào Phú Lương giang (tức Thái Nguyên). Ông em đem quân sang Nam Bình giang, kéo đến Côn Luân trợ chiến.
Đức Nam Tấn Vương biết truyền các quan tả hữu rằng:
- Trận này đánh giặc quyết tam, có thần linh âm phù ta đó.
Dẹp giặc yên rồi sai sứ đi truyền các làng ở 2 bên bờ sông Vũ Bình giang và Phú Lương giang phải lập đền thờ cả. Phong cho ông anh Đại Đương giang Hộ quốc Thần vương. Truyền tổng Vân Mẫu làm đền thờ bà thánh mẫu, phong đức thánh mẫu là Thượng đẳng Phúc thần.
Đời Lê Đại Hành năm thứ 2 bên Tầu nhà Tống sai người hầu Nhân Bảo đem quân sang đánh nước ta, đã vào đến sông Đại Than rồi. Vua cùng quan võ là Phạm Cự Lưỡng đem 20 vạn quân đi đánh. Khi đến làng Tam Lư huyện Đông Ngàn trời đã tối phải tạm đóng quân ở đấy. Vua truyền sửa lễ cầu thần âm trợ. Thấy đến canh ba trong cung có tiếng ngâm thơ rằng:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Hoàng thiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhất trận phong vận tận tảo trừ.
Vua thấy thần ngâm thơ ứng trợ sáng hôm sau kéo quân lên Đồ Lỗ lập trận. Đến đêm hôm ấy vua nằm lại thấy 2 ông thần đứng ở bờ sông vái mà thưa rằng:
- Chúng tôi là Tam Giang thần thấy quân Tầu sang phá hại nước Nam ta. Chúng tôi giúp vua đánh giặc cứu lấy nước Nam ta khỏi vòng tai nạn.
Vua tỉnh dậy truyền sửa lễ tam sinh và voi, ngựa vàng mã, quần áo làm lễ rồi hóa đi. Quả nhiên trận ấy ông Lê Đại Hành thắng trận bắt được không biết bao nhiêu quân giặc.
Vua lại truyền 2 bên sông Nguyệt Đức, sông Nam Bình phải lập miếu thờ. Lại phong cho ông anh là Khước địch Đại vương, phong cho ông em là Uy địch Đại vương.
Đến đời ông Lý Nhân Tôn lại phong cho ông anh là Sảng bang Khước địch Đại vương Thượng đẳng thần. Ông em là Hiển thắng Uy địch Đại vương Thượng đẳng thần.
Lại có câu rằng, một nhà trung nghĩa sao khéo bảo nhau cùng tuẫn tiết cả, thực là chưa có hai.
Gia phong cho ông thứ 3 là Lân Nhĩ Đại vương, ông thứ 4 là Lã Sậu Đại vương, bà em gái là Lương Mỹ Đạm Tam Giang Công chúa. Người cháu tên là Trương Kiều phong là Thác Sơn Bình Đảng Phúc thần.
Đời nhà Lý Nhân Tôn bên Tầu sai quân sang đánh nước ta. Đức Nhân Tôn sai ông Lý Thường Kiệt đem quân đi đánh giặc đến làng Phương La sửa lễ cầu thần trợ chiến, bỗng nghe tiếng ở trên không ngâm thơ rằng:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phậm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
Tiếng ngâm như sấm sét, quân nhà Tống nhe thấy tự nhiên hồn xiêu phách lạc, chạy cả về Tầu.
Ông Lý Thường Kiệt làm sớ tấu vua có âm phù mọi nhẽ. Vua lại truyền hai bên bờ sông Vũ Bình và Nam Bình lập miếu thờ.
Đời vua Trần Nhân Tôn niên hiệu Trùng Hưng thứ 1 có bài thơ cho rằng:
Bá Di sinh bất thần Chu, Ninh nhự sơn trung chi khuyết
Chư Cát tử năng tẩu Ngụy, Lãng ngâm thiên thượng chi chương.
Đến năm Trùng Hưng thứ 4 bên Tầu lại sai Nguyên Khương đem quân sang đánh nước ta. Vua sai ông Trần Quốc Tuấn đem quân đi đánh giặc, vào làng Tiên Tạo có đền thờ, sửa lễ khấn rằng:
- Xin chư linh giúp công đánh giặc.
Quả nhiên sau bình được giặc Ô Mã nhi, ông Quốc Tuấn làm sớ tâu rằng:
- Thần làng Tiên Tạo âm phù đánh giặc.
Vua Nhân Tôn gia phong ông cả là Tam Giang Khước địch Linh ứng Đại vương Thượng đẳng thần.
Năm ấy lại phong ông Cả là Khước địch Đại vương, gia phong Khương hựu Thượng đẳng phúc thần. Ông Hai là Uy địch Đại vương, gia phong Dũng cảm phúc thần,
Đến năm Hưng Long thứ 21 lại gia phong ông Cả Trợ thuận nhị tự, ông Hai là Hiển thắng nhị tự.
Đời nhà Hậu Lê thứ 1 trong nước có loạn, vua truyền cầu đảo các bách linh âm phù thảo mạc. Trận ấy đại thắng giặc tan rồi vua truyền 2 ông Nhĩ Quận công và ông Trịnh Ngô Dụng cứ ngày kỳ tháng 4 phải đến đền làm lễ và làm 1 bài văn rằng:
Lĩnh Nam danh tướng giang Bắc phúc thần
Trương trung liệt cự tiễu hung chi kiếm
Khước địch chi thi vạn lý sơn hà
Khoát tinh trung thiêu nhật nguyệt.
Tuy linh dị ư hộ quốc công, an dân chi lạc, ức niên hương hỏa, ngật như căng địa thái băng, sùng luân ký trước ư giản bàn, hiển hiện nghi kê ư sách điểm. Khâm tai.
Đời Hậu Lê niên hiệu Cảnh Hưng và Chiêu Thống gia phong ông Cả ông Hai là Thượng đẳng Phúc thần. Ông Bà ông Tư là Trung đẳng Phúc thần.
Đời nhà Nguyễn niên hiệu Tự Đức năm thứ 26 có giặc gọi là Đại Trận, vua sai ông Tôn Thất Thuyết đem quân đi đánh giặc, đóng quân ở làng Phù Cầu, huyện An Phong có đền thờ đức thánh Tam Giang. Ông Tôn truyền sửa lễ cầu âm trợ.
Giặc đóng ở làng Đông Lỗ huyện Hiệp Hòa, quả nhiên đánh trận ấy giặc tan. Ông Tôn khải hoàn tấu điệp xin để gia phong, việc đó sau vô hiệu (ông Tôn ngộ loạn).
Có 1 bài văn tả ở đình làng Phù Cầu rằng:
Xuân giang nhất dạ chúc siêu hoa
Chiến lũy thần từ nhân bất sá
Tháp khởi canh thâm tư mạo trợ
Đinh y lộ trác trọng kim qua
Lâu đài vạn cổ duyên do họa
Hồng nhạn tam binh trận phả ca
Dân thiết tư am hoàn dị sử
Quan sơn mạc yếm khứ lai xa.
Bức biểu ấy còn tại đền Cả xã Phù Cầu.

































