Nọ thì ả Chức, chàng Ngưu
Đến trăng thu lại bắc cầu sang sông.
(Chinh phụ ngâm)
Câu chuyện Ngưu Lang, Chức Nữ bị thiên đình chia cách, mỗi năm chỉ được gặp nhau một lần vào ngày Thất tịch (mùng 7 tháng Bảy) nhờ đàn chim quạ bắc cầu trên sông Ngân Hà tưởng rằng là truyện thần thoại Trung Quốc, nhưng mấy ai biết rằng ông Ngâu, bà Ngâu chính là hai vị Sơn Tinh, Thủy Tinh trong truyền thuyết Việt.
Làng Ngâu (nay là thôn Yên Ngưu, xã Đại Thanh, Hà Nội) có 2 ngôi miếu cổ có từ thời Lý thờ Ngưu Lang và Chức Nữ. Đó là miếu Mục Đồng thờ đức Tổ Nam Dương, tức ông Ngâu, và miếu Diệu Linh thờ Hương Từ Thanh Vân Thần Nữ, còn gọi là Tổ Mẫu Ngâu. Theo truyền thuyết, miếu Diệu Linh được hoàng hậu của vua Lý Thần Tông là Lệ Thiên tôn tạo và đặt tên chùa Hưng Quốc để thờ Phật. Ngày nay chùa Ngâu vẫn có lối thờ Tam phủ và có tượng Tổ Mẫu Ngâu cầm cành trúc trên tay (Trúc = Chức nữ?). Còn miếu Mục Đồng có tượng Thánh Tổ Yên Ngưu (Ngưu Lang) tay cầm gậy và đang ngồi trên con trâu vàng.
Vị Thánh Tổ Nam Dương cầm gậy thần và cưỡi trâu thì là Nam Thiên Thánh Tổ Tản Viên Sơn với cây gậy đầu sinh đầu tử. Nam Thiên Thánh Tổ cũng là Kinh Dương Vương, người đã vâng mệnh vua cha Đế Minh làm vua ở phương Nam. Bà mẫu trồng dâu dệt vải tương ứng như bà Tang Ma bên bãi Trường Sa Động Đình là Mẫu Thần Long, vị mẫu của Thủy phủ (Mẫu Thoải). Thì ra mối tình Ngưu Lang – Chức Nữ chính là sự kiện Kinh Dương Vương gặp mẫu Thần Long Động Đình trong sử Việt. Đây cũng là chuyện giữa Sơn Tinh (Tản Viên Sơn Thánh) và Thủy Tinh (Mẫu Thoải), dẫn đến mâu thuẫn mà hàng năm vào mùa mưa Ngâu tháng 7 lại dâng nước lên gây lũ lụt ở đồng bằng sông Hồng.
Chùa Yên Ngưu (Miếu Diệu Linh xưa) có lối thờ Tam Phủ là Thiên, Địa, Thoải nhưng khác với lối thờ của các đền phủ khác. Cung Vua cha Động Đình thay thế cho cung Chúa Sơn Trang. Cung thứ 2 thờ chính giữa Quan lớn Đệ Nhất Tôn Ông. Cùng với Tổ Mẫu Ngâu được thờ ở đây thì lối thờ này rõ ràng nhấn mạnh vào dòng Thủy phủ, trong đó Vua cha Thủy phủ ở đây là Động Đình Đế Quân, Tổ Mẫu Ngâu là Thần Long Động Đình, Quan lớn Đệ Nhất là Lạc Long Quân theo Truyện họ Hồng Bàng.
Miếu Mục Đồng ngoài thờ chính là Tổ Yên Ngưu còn có thờ Tản Viên Sơn Thánh, Cao Sơn Đại Vương. Điều này cho thấy, đối lập với miếu Diệu Linh (chùa Yên Ngưu), miếu Mục Đồng nhấn mạnh việc thờ dòng lên núi (Nhạc phủ). Đặc biệt nhất là miếu Mục Đồng lại thờ 10 vị quan lớn của Thủy phủ nhưng dưới tên gọi là 10 vị Kim ô (quạ vàng). Kim ô là hình ảnh con quạ ba chân, biểu tượng của mặt trời, như gặp trên các bức lụa hay tranh tường từ thời Hán. Đàn quạ bắc cầu Ô Thước thì ra chính là 10 vị quan lớn, được biết là những người con của Kinh Dương Vương và mẫu Thần Long. Kim ô hay mặt trời là cách gọi từ góc độ của dòng lên núi (nằm trong miếu Mục Đồng – nơi thờ dòng lên núi) đối với các vị quan lớn Thủy phủ.

Theo Sơn hải kinh: ở ngoài Đông Nam Hải, giữa sông Cam Thủy, có một quốc gia gọi là Hy Hòa. Ở nước Hy Hòa có nàng Hy Hòa là vợ của Đế Tuấn, sinh ra mười con trai là mười con kim ô, tức Mặt Trời. Hàng ngày, Hy Hòa tắm cho Mặt Trời ở Cam Uyên. Có truyền thuyết khác kể rằng mười con Kim ô đậu trên cây Phù Tang.
Như vậy nàng Hy Hòa chính là Động Đình Thánh Mẫu hay Đông Quang Thánh Mẫu (Nhật), tức Mẫu Thần Long. Bà lấy Kinh Dương Vương Tản Viên. Sơn hải kinh ghi bà lấy Đế Tuấn là đúng vị Sơn Tinh Nguyễn Tuấn. Hy Hòa là tên gọi theo vị tổ phương Đông là Phục Hy hay theo vị quan Hy Trọng được Đế Nghiêu cử đến phương Đông quan sát mặt trời, xây dựng lịch pháp. Cây dâu Phù Tang cũng chỉ rõ đây là hướng Đông và liên quan đến việc trồng dâu dệt vải của Chức Nữ. Phù Tang và Cam Lâm còn được nhắc tới trong tên gọi của vị thần phương Đông (Đông Vương Công) là Thủy phủ Phù Tang Cam Lâm Đại Đế.
Các vị quan lớn của Thủy phủ là những vị thủ lĩnh được Lạc Long Quân (vua Hạ) phân chia trấn trị các phương. Điều này được hình tượng hóa thành 10 mặt trời chiếu sáng khi đó. Truyền thuyết kể thời Đế Nghiêu, mười mặt trời chiếu nắng cháy bỏng. Đế Nghiêu sai thần tiễn thủ Hậu Nghệ bắn rụng 9 mặt trời. Chỉ còn lại 1 mặt trời (Kim ô) sợ quá lẩn trốn mất. Truyền thuyết này diễn tả lại sự kiện lịch sử là Hậu Nghệ – một chư hầu ở phương Bắc xưa của chính dòng Đế Nghiêu – đã đánh diệt các thủ lĩnh của nhà Hạ ở 9 phương, chỉ còn lại 1 phương, sau này trở thành nhà Hạ Trung hưng.
Còn trong thần tích Việt thì đây là câu chuyện ông Nhăng mà lấy bà Nhăng, sinh ra con rắn thằn lằn cụt đuôi. Ông Nhăng bà Nhăng là ông Ngâu, bà Ngâu. Con rắn cụt là vị thủ lĩnh còn lại của nhà Hạ đã bị Chử Đồng Tử – Hậu Nghệ chặn, đuổi lên phương Nam xưa, thể hiện trong chuyện Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh bị đi đày ở Kỳ Cùng (Lạng Sơn).
Như vậy, câu chuyện lễ Thất tịch là lịch sử khởi dựng nước Xích Quỷ (Thủy quốc) được kể từ góc độ của dòng lên núi (Nhạc phủ). Ngưu Lang Sơn Thánh lấy Mẫu Ngâu Thần Long trồng dâu dệt vải bên bãi sông Động Đình, sinh ra 10 con Kim ô, là các thủ lĩnh nhà Hạ, đứng đầu là Hạ Khải Lạc Long Quân. Lạc Long Quân khởi (khải) lập quốc là nhà Hạ, phân cho những người anh em trấn ở các phương, là những vị tôn quan. Hạ Khải mất, một chư hầu của chính dòng Đế Nghiêu là Hậu Nghệ Chử Đồng Tử đã đoạt ngôi chủ thiên hạ (trong hình ảnh công chúa Tiên Dung), dẹp các tôn thất nhà Hạ (các Kim ô) ở 9 phương. Duy nhất còn lại một con Kim ô (con rắn cụt đuôi) chạy lên miền Nam xưa (Bắc nay), rồi sau đó trung hưng lại cơ nghiệp nhà Hạ.
Dòng lên núi của cha Tiên Tản Viên Sơn Thánh (Ngưu Lang) kết hợp với dòng xuống biển của mẹ Rồng Thần Long (Chức Nữ) mà làm nên dòng giống Việt, lưu truyền ngàn đời. Chính sự vận động đối lập lên rừng – xuống biển của 2 dòng người mới đem lại sự phát triển của xã hội người Việt vào thời lập quốc.






