Sách mới: Lạc Hùng chính thống Thánh tích ký truyền

Quá khứ không phải là điều đã qua và qua rồi là hết. Lịch sử một đất nước, một dân tộc như phần rễ cây chìm trong lòng đất, không nhìn thấy nhưng lại quyết định khả năng vươn cao của cây. Rễ có sâu, có to thì thân và cành lá mới xum xuê vững chãi. Nền văn minh chói ngời của cha ông một thời soi đường cho cả Thiên hạ là sức mạnh tinh thần to lớn thúc đẩy con cháu ngày nay xốc tới…
Không theo vết xe cũ mà nhiều người trước đã đi trong việc tìm hiểu quá khứ Việt, nhóm Hùng Việt sử quán đã mở ra hướng khảo cứu mới, tìm thông tin lịch sử Việt trong dân gian như: ngôn từ, ca dao tục ngữ, thần tích thần phả… Dòng sử dân gian này do không hay rất ít ảnh hưởng bởi tư liệu lịch sử Tàu nên chắc chắn là chân thực. Có chăng chỉ là một chút sai lạc do thời gian uốn nắn…
Văn nhân Nguyễn Quang Nhật

Cuốn sách Lạc Hùng chính thống Thánh tích ký truyền của nhóm tác giả Hùng Việt sử quán vừa xuất bản tháng 7 năm 2025 đã khắc họa lại lịch sử dựng nước của các vua Hùng một cách chân thật, hùng tráng dựa trên những khảo cứu, đúc kết của nhóm trong suốt hơn 10 năm qua. Cuốn sách tái hiện lịch sử thời đại Hùng Vương dưới hình thức dễ đọc, dễ hiểu, không đi vào khảo cứu mà giới thiệu các thông tin dưới dạng hình ảnh, phả đồ, bản đồ, giúp người đọc có thể nhanh chóng tiếp cận được nội dung nhưng cũng không kém phần cuốn hút bởi những câu chuyện lịch sử thực tế và những cảm xúc thăng trầm qua văn thơ trên con đường tìm về nguồn cội.

Cuốn sách mở đầu bằng phần LỊCH SỬ HÙNG VƯƠNG TÂN BIÊN, tái hiện lịch sử thời đại Hùng Vương thành một mạch xuyên suốt từ khi mở trời mở đất cho đến vị vua Hùng cuối cùng qua những sự kiện, những mốc phát triển chính. Từ thuở Hoàng Đế mở muôn nước, Kinh Dương Vương trị thủy thống nhất bốn phương, Lạc Long Quân cùng các vị Thủy thượng Linh thần khai phá miền sông biển, mẹ Âu Cơ Văn Lang cùng vua Hùng Lang Liêu thắng Trụ diệt Ân, đặt ra trăm quan, phong cho trăm họ mà sinh Bách Việt cho đến khi Triệu Vũ Hoàng Đế thống nhất đế quốc, Triệu Việt Vương lập nước Nam Việt, quang phục nền văn hóa Đông Sơn huy hoàng, Trưng Lữ Vương dựng cờ khởi nghĩa bên sông Hát và những vị Nam Giao học tổ hy sinh quên mình vì nước.

Lịch sử Hùng Vương tân biên không tham vọng khảo chứng lịch sử, mà là chia sẻ sự nhìn nhận có được qua việc tìm hiểu quá khứ từ những dữ kiện và góc nhìn khác nhau. Đó là việc đối chiếu các nguồn tư liệu thành văn của Hoa sử và Việt sử. Là những thông tin chắt lọc từ những sự tích thờ cúng, lễ hội cho những anh hùng, những nhân vật trong suốt chiều dài sử Việt. Là sự suy ngẫm trước những hiện vật khảo cổ biết nói đã được phát hiện không chỉ ở Việt Nam mà còn trong cõi trời Đông. Là góc nhìn địa văn hóa, sử văn hóa từ những dấu vết ngôn ngữ, triết học cổ.

Tiếp theo là phần NIÊN BIỂU VÀ THÁNH TÍCH 18 TRIỀU HÙNG VƯƠNG. 18 triều đại Hùng Vương được sắp xếp theo 4 giai đoạn phát triển của xã hội Việt là thời kỳ Thủ lĩnh cộng đồng, thời kỳ Thị tộc phụ đạo, thời kỳ Phong kiến phân quyền và thời kỳ Phong kiến tập quyền. Mỗi triều đại được ghi rõ tên gọi từ các nguồn tư liệu khác nhau, niên đại, kinh đô, dấu vết khảo cổ, các truyền thuyết và đặc biệt là thống kê đầy đủ các di tích lịch sử văn hóa liên quan đến mỗi triều đại này trên đất Việt. Kèm theo đó là hình ảnh màu thực tế của hàng trăm di tích và hiện vật được giới thiệu trong sách.

Cuốn sách cung cấp rất nhiều phả đồ xuyên suốt các thời kỳ Hùng Vương hoặc chuyên sâu cho mỗi giai đoạn quan trọng, giúp bạn đọc nhanh chóng nắm bắt được nội dung diễn biến chính của mỗi thời kỳ. Các phả đồ không chỉ chỉ rõ mối quan hệ giữa các nhân vật, các sự kiện lịch sử mà còn là sự đối sánh giữa các tư liệu của các góc nhìn lịch sử khác nhau. Phả đồ và lịch sử tân biên được xây dựng với quan niệm: Không có tư liệu sai, chỉ có sự nhìn nhận và hiểu biết của chúng ta còn chưa đủ, chưa phù hợp. Chính sự so chiếu này làm nên tính phổ quát của niên biểu. Phả đồ cùng với các di tích lịch sử, di chỉ khảo cổ và niên biểu tên gọi là bộ bản đồ dẫn đường cho mọi người Việt chúng ta trên con đường tìm về quá khứ và tổ tiên.

Lịch sử làm nên văn hóa của một xã hội, và ngược lại văn hóa là kết tinh của lịch sử. Mặc dù cuốn sách được biên soạn theo hình thức “sử ký”, tức là ghi chép lại các sự kiện lịch sử và giới thiệu các nguồn tư liệu, dấu tích, nhưng phần bàn luận về VĂN HÓA THỜI ĐẠI HÙNG VƯƠNG là những bài viết ngắn đi sâu khảo chứng cho những vấn đề, những chủ đề cụ thể. Đó là về quan niệm minh triết người Việt cổ, các hình tượng vật tổ, chữ viết của người Việt thời Hùng Vương, về các cuộc chiến thay đổi thời vận, về các gương hiếu của thời Hùng Vương, các vị tiên nữ, các vị thần bất tử, và một số nhân vật quan trọng như Na Tra Đổng Thiên Vương, Khương Thái Công Lã Vọng, Đức Thánh Chèm Lý Thân, An Dương Vương…

Trên bìa những cuốn lịch sử Hùng Vương xưa (ngọc phả Hùng Vương) được soạn bởi các bậc Hàn lâm Học sĩ đương thời có đề đôi câu đối:
Vấn lai dĩ sự tu vi sử
Tế nhận như đồ dục mệnh thi.
Tức là:
Hỏi kỹ chuyện qua mà chép sử
Thấy rành như vẽ mới làm thơ.

Xem kỹ những gì đã biết về các vua Hùng, thấy sự việc rõ rành thì tất có cái hứng để làm thơ, để ca ngợi công đức tiền nhân, để cảm sự nỗ lực của người Việt dựng nên nền tảng văn hóa xã hội ngàn đời cho con cháu. Sau phần biên diễn lịch sử là những bài thơ VỊNH SỬ LẠC HÙNG xuất phát từ những cảm hứng này.

18 vương triều Hùng bất diệt. 3.000 năm xã hội Việt phát triển qua 4 giai đoạn từ thấp đến cao. Không gian lịch sử bao trùm khắp phương Đông. Những vị anh hùng đã hóa thần trong sử Việt. Đó là những gì cuốn sách muốn gửi gắm đến các bạn đọc ngày hôm nay.

Hồn sông núi nước Nam còn mãi
Để hôm nay ta lại là ta
Xé mây trời sáng bao la
Anh linh tiên tổ, Hùng ca đời đời.

Thông tin liên hệ:

Thần tích Nại Tử xã – nơi Thi Sách tử trận

Dịch từ bản khai thần tích thần sắc làng Nại Tử xã, tổng Phương Quan, phủ Yên Lãng, tỉnh Phúc Yên

Xã Nại Tử vâng sao ngọc phả

Ngọc phả thời Bắc thuộc Đông Hán, do Thượng thư bộ Lễ triều Lê, quản giám tri điện, vâng sao ngọc bảo cổ truyền.

Hoàng đế bệ hạ vâng ban sắc văn, thần hiệu.

Sắc phong cho Đương cảnh Thành hoàng Quốc vương Thiên Tử Đại vương.

Sắc phong cho Đương cảnh Thành hoàng Ả Lữ [Lã] Nàng Đê Đại vương, Hoàng hậu Trưng đế Thánh nữ Phúc thần.

Sắc văn: Dực vận An dân Anh nghị Quả đoạn Chính trực Tuyệt hựu Hiển ứng Tông hưu Chi hoà Tuy hành Ý đức Tề hoà Trinh tĩnh Túy mỹ Diệu vận Kỳ nhẫn Đông Hán Đại vương Lĩnh châu Phúc thần.

Cho phép xã Nại Tử quận Tam Đới xứ Sơn Tây phụng thờ, để thần cùng bảo vệ cho dân ta. Vâng thay!

Xưa vào thời Quang Vũ triều Đông Hán có một người con gái Lạc tướng đất Mê Linh – Phong Châu. Lạc tướng tên là Trưng Nghĩa Dũng, tên chữ là Phúc Bố, vợ là bà Hồng Thị Đào. Vợ chồng đúng là những người tích thiện làm điều nhân đức, hương lửa tam sinh, một nhà thật là phong lưu có thừa vậy. Năm Lạc tướng 42 tuổi, bà phu nhân 43 tuổi mà vẫn chưa sinh con nuôi dưỡng. Vào ngày 12 tháng Giêng ông Trưng nói với phu nhân họ Hoàng rằng:

  • Không có sự giàu có bốn biển nào mà không đến lúc nghèo. Không có tuổi thọ như núi cao nào mà không đến lúc chết. Chỉ có là chưa có được con nối dõi thì thường buồn bã. Chi bằng hãy chia phát tài sản để cầu phúc, cầu cho được có con.   

Phu nhân vâng theo lời đó bèn phát chẩn cho người nghèo, sắm sửa lễ bái, khấn với sông núi thần kỳ, lập đàn bố thí. Đến ngày mồng 9 tháng Tư vợ chồng đi lên chùa Hương Tích trên núi lễ bái, rồi ngủ lại trong chùa. Nằm mộng thấy có thần nhân đến nói rằng:

  • Gia đình các người có lòng thành. Trời đã soi mệnh, cho viết vào sổ hồng, sau giáng bậc anh hùng quốc chủ, giúp nước an dân. Không phải người phàm ở trần gian vậy.

Vợ chồng nghe lời bỗng tỉnh dậy, trong lòng rất lấy làm vui mừng. Bái tạ rồi trở về nhà của ông Trưng. Từ đó bà có mang. Đến ngày mồng 9 tháng Tư vào giờ Tý ông Trưng thấy ánh sáng chiếu đầy nhà, tự nhiên mơ màng mà thiếp đi, nhìn xa thấy có một ông lão. Ông lão thân mặc áo vải vạn màu, đầu đội mũ hoa, lưng thắt đai vàng, chân đi giày, tay dẫn một người con gái, tự xưng là nữ Kim Tiên, đứng ở một bên giường, nói rằng:

  • Ta sịnh ra vào thời Hoàng Đế, du chơi nơi chốn không già, nhàn nhã ở đường suối bàn vậy. Nay vâng sắc lệnh Ngọc Hoàng đem nữ Kim Tiên cho nhà ngươi.

Ông Trưng nói: – Vâng.

Ông lão bay lên không mà đi. Ông Trưng cười lớn ở trong mộng, bỗng tỉnh lại thì bà vợ họ Hoàng đang thai đang chuyển động. Đến mùng 10 giờ Sửu sinh được một người con gái, phong tư tuấn chỉnh, cốt cách dị thường. Hình dáng tuy là nhi nữ nhưng tướng mạo lại như con trai. Mọi người đâu vui mừng, cho là điều lạ. Nhân theo trong mộng đã đứng ở một bên nên đặt tên húy là Trắc, tục gọi là Ả Lã (Lữ). Đến khi trưởng thành gọi là Nàng Đê. Mày cong trăng non, mắt tựa như làn thu thủy. Khi vừa tròn 16 tuổi vườn hồng đầy lá mà chưa có mối lương duyên.

Lúc đó có người Chu Diên, cũng con của Lạc tướng (cha tên Huề [Dương] Thái Bình, mẹ là Hồ Thị Nhữ), tên là Dương Thi Sách. Tuổi đã 29, sinh ngày 10 tháng 6. Nghe nói Ả Lã Nàng Đê có nhan sắc kiều diễm mà tư chất kiên trinh, bèn thưa với Lạc tướng. Lạc tướng nói rằng:

  •  Ta và Lạc tướng Phong Châu trước đã có nguyện ước. Nay con lại nghe danh nàng Ả, đó phải chăng là duyên trời định vậy.

Bèn đến hỏi cưới, đón về, tức ngày mồng mười tháng Mười một. Đất Chu Diên hai họ đều cùng vui mừng.

Bấy giờ có người phương Bắc là Tô Định giữ chức Thái thú Giao Chỉ, là người cai trị bạo ngược hà khắc, tạp dịch nặng nề, khiến người phương Nam lầm than oán thán. Tô Định lại ham mê tửu sắc vô độ.  Nghe nói có con gái của Lạc tướng đất Mê Linh là nàng Trưng là người có sắc đẹp phi thường. Hắn liền đem quân đến đóng ở bên sông, rồi xông vào Mê Linh hỏi Trưng công. Trưng công cứ thực mà báo lại, nói rằng:

  • Một người con gái há lại gả cho hai chồng?

Tô Định từ tạ rồi lập tức dẫn binh mã tiến thẳng đến Chu Diên, tới nhà Dương Thi để hỏi. Thi Sách tuy là xuất thân văn học song cũng nổi tiếng võ lược, bèn kháng cự lại. Đôi bên mắng rồi đánh nhau. Khi đó Tô Định lập mưu, dùng khí giới trước mà Dương Sách thì tay không. Thi Sách tuy có chí dũng song sao có thể lấy sức bọ ngựa để đánh lại với cỗ xe vạn thặng được. Đến Tử Khê thì Dương công đường cùng mà hóa (tức ngày 11 tháng 12).

Dương Công đã chết. Tô Định tìm giết hết họ tộc Dương. Trưng nữ vương chạy về đất Mê Linh, bàn bạc tình trạng của tên Thái thú. Lạc tướng Trưng công liền chiêu mộ binh sĩ tinh nhuệ làm quân tiên phong. Trưng nữ vương vì căm ghét Tô Định là kẻ tham tàn bạo ngược giết chồng mình nên đã dấy quân đuổi Tô Định. Đánh chiếm được 65 thành ở vùng Lĩnh Nam, tự lập là Vương, tôn phong cho chồng là Quốc vương Thiên tử Đông Hán Đại vương, còn mình thì tự xưng là Quốc [Vương] Thiên Tử, lấy tên Ả Lã Nàng Đê làm tên thụy. 

Nhà Đông Hán lệnh cho Mã Viện đến xâm chiếm, cùng với Vương đánh nhau ở Lãng Bạc. Đánh nhau với Mã Viện từ đầu đến cuối là hơn 150 hiệp. Vương biết tình thế không thể chống đỡ được, nên rút về giữ ở Tử Khê, đóng ở miếu thờ Dương công. Đến đêm nghe tiếng thần ngâm rằng:

  • Nam quốc sơn hà, vốn bãi bể thành nương dâu.

Trưng Vương cùng với em là Nhị đem quân rút về cửa khẩu sông Hát nên quân tướng đều đang lộn xộn. Chị em cùng tử chiến, trở nên rất linh thiêng ở cửa sông Hát. Từ Phong Châu đến cửa khẩu sông Hát cộng 72 ngôi đền thờ phụng.

Phường Nại Tử ở Tử Khê nguyên là nơi ông Dương Thi Sách thua trận, chạy đến bãi Thường Nghiêm trong địa phận Nại Tử thì ngã chết. Trưng nữ phục quốc lên ngôi, cho phép phường Nại Tử làm làng hộ nhị, cho miễn tô thuế, phu dịch. Phường Nại Tử ở Tử Khê dâng tấu lên triều đình xin quan cho mỹ tự để thờ. Quan trong triều phong cho ông Dương là Quốc Vương Thiên Tử, ở vào thời Đông Hán nên xưng là Đông Hán Đại vương. Sau lại dâng tấu xin mĩ tự tên thờ. Triều đình không dám đặt tên hiệu mới, nên xưng là Quốc Vương Thiên Tử Ả Lã Nàng Đê Lĩnh Nam Đại vương (yên định được 65 thành ở Lĩnh Nam nên xưng là Lĩnh Nam vương). Sau này trang phường nghe tin Trưng Vương tử trận, khóc như tang người thân, nhận ngày sinh hóa (sinh ngày mồng 9 và 10 tháng Tư, hóa ngày 11 tháng Sáu) mà làm nghi lễ tế tang, phụng thờ.

Kể rằng khi vua [Lê] Thánh Tông còn nhỏ ở chùa Long Khánh, thường được Trưng Vương hiển ứng giúp vận, ngăn hoạn trừ tai. Nên đến đời Hồng Đức tặng là Ý đức Tông hoà Trinh tĩnh Túy mỹ Cung phi Hoàng hậu Lĩnh châu Đại vương. Lệnh các nơi trang phường phụng thờ, không được thay đổi. Ngôi miếu thiêng ở trên song muôn năm được kính ngưỡng, tôn sùng. Vạn đời truyền tụng, hàng năm tiến lễ. Năm năm hương lửa, đời đời nối mãi. Tốt thay, lành thay! Mãi mãi không ngừng.

Tên húy thụy theo như trong tích này. Cùng các ngày khánh hạ tùy dùng, trên là mâm chay, dưới là đồ mặn nấu chín kỹ.

Cúng húy ông Sách – Thiên Tử Đại vương. Dùng lễ áo mã màu xanh thêu gấm.

Cúng húy bà Trắc – Lĩnh châu Đại vương (tức Vua Bà). Lễ mã dùng áo bào sắc ánh vàng.

Lý trưởng Lê Văn Quán thừa sao.

Minh văn trên chiếc chuông cổ thời Trần phát hiện tại Hưng Yên

Năm 2015 một chiếc chuông đồng cổ lớn đã phát hiện ở làng Nhân Vũ (Nguyễn Trãi, Ân Thi, Hưng Yên). Chuông cao hơn 1m, đường kính miệng 60cm. Trọng lượng chuông khoảng 200kg. Phần thân chuông chia là 4 mặt. 4 mặt phía trên có hình Phật ngồi tòa sen và minh văn. Phía dưới là ô vuông chạm hình các muông thú (rồng, voi, trâu, rùa) ẩn trong mây sóng nước. Phần chỉ dọc của 4 mặt chia thành đường, có khắc chữ. Quai chuông hình rồng hai đầu (Bồ lao). Đỉnh quai có hình búp sen (đặc điểm tương tự thấy trên các chuông cổ thời Trần khác). Miệng chuông loe có chạm khắc hình cánh sen.

Đây là một chiếc chuông lớn có 4 mặt đúc đầy chữ và 4 vành, mỗi vành gồm 3 cột cũng có chữ khắc. Tuy nhiên phần nửa trên của chuông đã bị phong hóa bào mòn nên mất gần hết chữ. Chỉ còn đọc được nửa dưới mỗi mặt. Tổng số những chữ còn có thể đọc được là trên 600 chữ.

Bài minh văn phần thân chuông bắt đầu bằng mô tả con đường làng nhỏ qua cầu có ngôi chùa… Chuông đồng là sắc giới nghiêm trang, mở âm thanh tịnh. Chuông là khí đánh vang, Phật thường hiện. Phật là vô tướng, đâu cần phải nhìn thấy, chạm vào mới cảm nhận được sự hiển linh của Phật. Do đó người Việt chốn thiền (sư?) đã mở đàn việt quyên góp các thí chủ để đúc chuông. Năm Nhâm Dần tháng đầu đông (tháng 10) ngày mùng 1 đúc chuông lớn. Quang cảnh chùa ở nơi hương thôn từ cổ xưa, có nhiều người tín Phật, khung cảnh yên tĩnh, là nơi cúng tế các việc sinh tử. Có tiếng ca hát, mênh mông nguy nga. Có đài cửa phẩm liên hoa rậm rạp. Phảng phất hình sông nước, gò đồi. Chùa mới như một Kỳ viên ngàn thôn. Có chuông là pháp khí. Dựng lầu trống, lầu chuông. Người thợ nhân cũng là người làng xóm gần đó mà làm bài minh ghi lại việc nhân nghĩa.

Bài minh rằng:

… chuông là sự hiển hiện của Phật, Phật lấy chuông làm thịnh

… âm kình phát ra quần long sinh gió

… treo ở lầu cao, tiếng kêu vang vang.

Phần chữ nhỏ ở cuối bài ghi lại đàn việt quyên góp và những người đã đóng góp đất đai, tiền để xây chùa.

Người viết bài minh là Lê Tịnh, hiệu Ba Lãng.

Phần chữ trên viền chỉ dọc chuông được khắc sau khi đúc chuông, nội dung ghi những người đã tiến thí (đóng góp) ruộng, tiền để xây dựng các công trình trong và quanh chùa. Các công trình này là để bổ sung tượng, đồ dùng cho tòa Tam bảo trong chùa, để làm con đường và cây cầu nổi đi vào chùa. Thời điểm khắc chữ ở phần viền chỉ là vào tháng 11 năm Nhâm Dần (tức là sau khi đúc chuông 1 tháng). 

Đặc biệt trên phần chữ ở viền chuông có nói đến các địa danh hành chính của người tiến thí cho chùa là ở lộ Khoái Châu xã Đãn Chàng và xã Dược thuộc động Yên Viên. Xã Đãn Chàng có thể nay là xã Đan Chàng, một xã cùng tổng Nhân Vũ với nơi phát hiện ra chiếc chuông thời Nguyễn. Còn xã Dược thuộc động Yên Viên gần đó có thể là nằm trong tổng Yên Canh thời Nguyễn với các khu vực cận kề thuộc xã Mão Cầu.

Đơn vị hành chính “lộ” ở nước ta bắt đầu từ thời Lý, phổ biến ở thời Trần và chấm dứt vào đầu thời Lê. Sau khi thống nhất đất nước, Lý Thái Tổ đã chia Đại Việt thành 24 lộ, thay thế cho 10 đạo thời Đinh – Lê. Nhà Trần tiếp tục duy trì đơn vị hành chính lộ, nhưng giảm số lượng xuống còn 12. Khi nhà Minh xâm chiếm nước ta đã áp dụng chế độ phân giới hành chính theo phủ, không còn đơn vị “lộ” nữa. Đến vua Lê Thái Tổ đã chia cả nước ban đầu thành các đạo.

Với địa danh “lộ Khoái Châu” được khắc trên chuông thì có thể xác định chắc chắn rằng đây là chiếc chuông thuộc về thời nhà Trần. Chuông được đúc vào năm Nhâm Dần, thì trong giai đoạn này có các năm sau:

  • Năm 1302 thời Trần Anh Tông
  • Năm 1362 thời Trần Dụ Tông

Rất khó xác quyết chiếc chuông này ở vào thời Trần Anh Tông hay Trần Dụ Tông. Nhưng với mối liên hệ của vùng đất này với Huyền Trân công chúa (em vua Trần Anh Tông) và loạn lạc thời kỳ cuối triều Trần Dụ Tông thì có thể nhận định rằng chuông được đúc vào năm Nhâm Dần 1302.

Nếu so sánh chiếc chuông Nhân Vũ với các chuông thời Trần đã biết là chuông chùa Bình Lâm (Hà Giang), chuông Vân Bản (Hải Phòng) và chuông chùa Rối (Hà Tĩnh) thì chuông Nhân Vũ có nhiều điểm nổi bật hơn. Đó là chuông còn nguyên vẹn, có chạm khắc không chỉ hoa văn mà còn hình Phật tọa thiền và các muông thú trong mây nước độc đáo. Về minh văn thì số chữ đúc và khắc trên chuông Nhân Vũ vượt xa số chữ tương ứng trên các chuông kia. Do đó chiếc chuông này xứng đáng được công nhận là Bảo vật quốc gia, như đã công nhận đối với những chiếc chuông thời Trần cùng thời.

Chuông thời Trần phát hiện ở Ân Thi, Hưng Yên.
Quai chuông hình bồ lao có núm búp sen.
Phật trên tòa sen.
Minh viết: Chung chi Phật hiển, Phật dĩ chung long…
Người viết bài minh: Ba Lãng Lê? Tịnh? thư.
Hình trâu trên mây nước
Dòng chữ: Tại Khoái Châu lộ…
Voi trên mây nước.