Lạc Long Quân trở về

Bạn biết gì về thủy tổ Lạc Long Quân và thời đại những người con theo Cha Rồng xuống biển?

Năm Giáp Thìn 2024 đã qua, năm Ất Tỵ 2025 đã đến. Cha Rồng Lạc Long Quân lại hiện thân trở về với miền sông biển Việt Nam qua cuốn sách dày hơn 670 trang mang tên Kinh triều bảo lục – Sử tích Long Quân và các vị Thủy thần Lạc Thị do Nhóm Nghiên cứu Di sản Văn hóa Đền miếu Việt biên khảo.

Trong cuốn sách bạn sẽ biết Liễu Nghị – ông là ai? Việt Nam Lạc Thị là những vị quốc tổ nào? Vua cha Lạc Long Quân được thờ phụng dưới những tên gọi nào? Thần Chính khí Long Đỗ của Thăng Long có nguồn gốc ra sao?… Bạn cũng sẽ biết Thủy phủ công đồng trong Tam phủ, Tứ phủ gồm những ai. Động Đình Long Mẫu, Động Đình Đế Quân, Động Đình Bát Hải Long Vương, Ngũ vị Tôn quan, Hà Bá Thủy quan… là những vị tiên tổ nào của người Việt.

Những vị tiên thánh của thời kỳ Lạc Thị Hồng Bàng được khái quát và được định vị một cách độc đáo trong cuốn sách. Đó là Ngũ phương thiên đế ở khắp tứ hải trong Đạo Giáo từ khi Đạo mới hình thành. Đó là các vị thần Tứ trấn của các kinh đô Thăng Long, Hoa Lư. Đó là vị thần bất tử Chử Đạo Tổ của miền đầm nước Dạ Trạch. Những tín ngưỡng thờ thủy thần này xuất phát từ lịch sử đã ăn sâu vào tâm thức dân gian, trở thành nền tảng trong văn hóa Việt.

Ngay cả tín ngưỡng dân gian ở khu vực Thanh Oai, được biết với tên gọi Sa Môn giáo cũng được dẫn tư liệu gốc Bách Việt triệu tổ cổ lục (hay Cổ Lôi ngọc phả truyền thư). Đồng thời tư liệu này cũng được phân tích, đối sánh một cách xác đáng với lịch sử Việt thời Lạc Thị.

Cũng trong cuốn sách này bạn sẽ được tiếp cận với những tư liệu Hán Nôm đầy đủ về thời kỳ lập quốc 4.000 năm của người Việt. 10 bản ngọc phả thu thập từ nhiều nguồn khác nhau được giới thiệu nguyên văn và dịch nghĩa trong cuốn sách. Qua đó bạn có thể đọc những ghi chép gốc về Ngọc Nương Thánh Mẫu Thủy cung ở đền Tiên Cát, Việt Trì, Phú Thọ; về Vua cha Bát Hải ở đền Đồng Bằng, Quỳnh Phụ, Thái Bình; về Tam Lang Long hầu ở đình Đào Xá, Thanh Thủy, Phú Thọ; về Bạch Hạc Tam Giang ở đình Đa Chất, Phú Xuyên; về Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân, Hùng Vương trong vùng tín ngưỡng Việt Nam Lạc Thị ở Thuận Thành, Bắc Ninh; về Thủy phủ Phù Tang Cam Lâm Đại đế bên sông Hồng…

Không dừng lại ở đó, cuốn sách cung cấp cho bạn những hiểu biết và nhận thức một cách có hệ thống và khoa học về lịch sử các dân tộc. Đó là sử thi Mường Đẻ Đất Đẻ Nước với Dịt Dàng, Lang Cun Cần, Tòng Ín… Là sử Dao với Bàn Vương, thủy tổ 12 họ người Dao. Đặc biệt, cuốn sách công bố tư liệu điền dã trực tiếp rất chân thật về tín ngưỡng và lịch sử Lạc Việt của người Choang ở Quảng Tây. Đây là lần đầu tiên những tư liệu, những hiểu biết này được công bố rộng rãi tới công chúng.

Cuốn sách cũng đã tổng hợp các di tích thờ thủy thần của các tỉnh miền Bắc dọc theo lưu vực các con sông lớn, mà lớn nhất là dòng sông Hồng, vốn được tôn thờ trong tín ngưỡng dân gian là Tam Đầu Cửu Vĩ Long vương. Từ thượng nguồn ba sông Đà Lô Thao ở Yên Bái, Tuyên Quang, vùng đất Tổ ngã ba Việt Trì, Phú Thọ, qua vùng rốn rồng Thăng Long Hà Nội. Vùng lưu vực tả và hữu ngạn sông Hồng ở Hà Nam, Ninh Bình, Hưng Yên, Hải Dương. Vùng ven biển Thái Bình, Nam Định, Hải Phòng, Quảng Ninh thờ các vị Hải thần. Vùng trung du ở Bắc Giang, Vĩnh Phúc, Lạng Sơn, Thái Nguyên thờ các vị sơn thủy thần. Đến cả những nơi tưởng chừng không có liên quan tới thời Lạc Long Quân như Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, hóa ra lại là những nơi còn lưu những dấu tích cổ xưa nhất, nguyên sơ nhất về 4.000 năm dựng nước.

Thời kỳ Lạc Long Quân dựng nước bên bờ biển Đông tưởng chừng như đã chìm vào bị quên lãng, nay đã trở nên sống động, chân thực, với từng nhân vật, từng vùng đất, từng sự kiện trong cuốn sách. Năm Ất Tỵ 2025, các vị thủy thượng linh thần lại một lần nữa hiển hiện trên cõi Dương gian, đức Vua cha Lạc Long Quân lại trở về với nòi giống Việt, đem lại niềm tin cho con dân Việt với tiên tổ, với quá khứ vẻ vang và có sự phù trợ của tiền nhân mà vững bước trước tương lai.

Bạn đọc có thể đặt trước cuốn sách Kinh triều bảo lục – Sử tích Long Quân và các vị Thủy thần Lạc Thị theo đường dẫn dưới đây: https://forms.gle/RNn7snBCcg3N3YTEA

Những bạn đặt trước ngày 15/2/2025 sẽ có được cuốn sách quý này tận tay với giá 300.000 đ ngay khi nó được xuất bản, thay cho giá bìa là 500.000 đ.

Toàn bộ kinh phí thu được từ cuốn sách sẽ được Nhóm Nghiên cứu Di sản Văn hóa Đền miếu Việt sẽ sử dụng vào mục đích điền dã, thu thập tư liệu, biên soạn xuất bản những cuốn sách mới về cổ sử Việt.

Mọi liên hệ và trao đổi liên quan đến cuốn sách và đến thời kỳ Lạc Thị Hồng Bàng xin liên hệ với trang facebook Hùng Việt sử quán hoặc theo Zalo Đền miếu Việt số 0559551003.

Bách Việt trùng cửu Nguyễn Đức Tố Lưu

Tôi viết bài thơ đất nước tôi
Gian nan từ thuở mới ra đời
Ngọn gió Động Đình ru ta lớn
Trăng chiếu sông Đường nước đầy vơi
Trăm trứng Mẹ sinh dòng Bách Việt
Diệt quái Cha Rồng mở biển khơi
Lang Thang dân tiến chinh phương Bắc
Âu Lạc văn minh mãi rạng ngời.

Rắn thần trong văn hóa Việt

Trong văn hóa tín ngưỡng của người Việt, Rồng là loài vật huyền thoại, biểu tượng cho phần tinh thần, chỉ thấy đầu, không thấy đuôi, khó nắm bắt được. Còn Rắn lại là loài vật có thật, chỉ phần thân xác to lớn, mạnh mẽ, có thể nhận biết được. Những gì hiện hiển là Rắn, còn những gì u linh là Rồng. Lúc sinh ra là Rắn, lúc hóa đi thành Rồng. Quan hầu là Rắn, vua chúa là Rồng. 

Xem huyền sử Việt nhiều người cho đó chỉ là những chuyện “trâu ma, rắn thần”, đầy màu sắc thần thoại. Nhưng nếu đọc kỹ hơn, tìm hiểu sâu hơn trong những di sản văn hóa tín ngưỡng của cha ông người Việt để lại, chúng ta sẽ thấy chính những câu chuyện rắn thần đó mới phản ánh lịch sử thật sự của người Việt một cách rất sâu sắc, phản ánh nhân sinh quan, thế giới quan rất phong phú và lâu đời trong văn hóa Việt.

Những vị thủy thần từ thời Lạc Long Quân dựng nước

Dân gian người Việt thờ rất nhiều vị thủy thần trong hình thể loài rắn làm thành hoàng làng. Điển hình nhất là vị Linh Lang Đại vương với hàng trăm nơi thờ ở khắp vùng đồng bằng sông Hồng. Thần tích đình làng Tây Hồ, ở phường Tây Hồ, Hà Nội kể: Uy Linh Lang là thủy thần là con trưởng của Lạc Long Quân theo cha xuống biển trấn trị khai thác sông biển lãnh đạo muôn dân xây dựng cuộc sống phồn thịnh… Thời Lý thần nhân hóa thành Thái tử Hoàng Lang con vua Lý Thái Tông giúp vua đánh giặc Chiêm Thành. Sau đó Thái tử bị bệnh đậu mùa rồi hóa thành con rắn khổng lồ trườn xuống hồ Tây. Vị thần trấn Tây của kinh thành Thăng Long xưa chính là thần rắn xuất thế, có nguồn gốc từ thời vua cha Lạc Long Quân dựng nước ven theo dòng sông Cái ra tới biển.

Các thành hoàng là thần rắn thời Hùng Vương thường được kể sinh ra từ cùng một bọc trứng, nở thành 2, 3 hay 5 con rắn, lớn lên thành tài, bảo hộ cho cuộc sống của nhân dân, phù trợ quốc gia chống giặc ngoại xâm. Như ở đầu sông Cái bên ghềnh Ngọc Tháp, tại TX. Phú Thọ có sự tích về vị thần Linh Uyên Đại vương kể rằng: Bà Thái phi của vua sông Thao một hôm bỏ lốt rắn đi lên rừng chơi, chợt làm rơi một bọc trứng 5 quả ở đấy. Làng ấy có một ông già nhặt lấy 5 quả trứng đem về… Được 3 ngày, nở ra 5 con rắn… Một hôm ông già vô ý lấy con dao phát bờ khoắng một cái, đứt đuôi một con. 5 con rắn quấn quít lấy cái đuôi khóc mà nói rằng:  Chúng ta là giống rồng, trời định cho ta, mỗi người làm vua một phương… Thế là các con rắn chia nhau ra đi làm vua ở các nơi trên sông Thao, sông Lô.

Sự tích rắn thần cụt đuôi còn gặp ở nhiều nơi. Như ở làng Yên Phú (Thanh Trì, Hà Nội) kể về 2 vị thủy thần xuất thế là Trung Vũ và Đài Liệu. Hai vị đã có công cầu mưa cứu hạn, được nhân dân trong vùng Thanh Trì hết sức kính phục. Sự tích truyền khẩu ở Yên Phú còn kể, khi đê ở Giầy Kẻ bị sạt vỡ, 2 vị đã hóa thân thành 2 ông rắn nằm ngăn nước để dân đắp, hộ được đê. Lúc hộ đê một ông bị đứt một tí đuôi, nên có hèm là Cụt.

Chuyện kể tương tự về thần rắn hộ đê gặp ở thôn Văn Xá, xã Đức Lý, huyện Lý Nhân, Hà Nam. Thần phả kể rằng, vào đời vua Lý Thái Tổ có hai ông bà vớt được hai quả trứng trắng ngoài sông bèn đem về, 100 ngày sau nở ra 2 con rắn trắng, một con dưới bụng có chữ Câu Mang anh, một con có chữ Câu Mang em… Một năm trời làm dịch bệnh, hai ông Câu Mang làm mưa to gió lớn tẩy trừ dịch bệnh cho dân rồi làm ra một cái giếng sâu và đi mất… Cũng năm đó lũ to làm đê vỡ, hai ngài Bạch Xà từ giếng ra, đầu gối bên này, đuôi chạm bên kia nằm chắn khúc đê vỡ để ngăn dòng nước chảy, sau hai ngài lại ra sông đi mất. Quan sở tại tâu lên triều đình, nhà vua phong cho hai ngài là Nhị vị Thủy tề Long vương.

Những vị rắn thần được kể là những nhân vật lịch sử có thật nhờ có công hộ quốc cứu dân mà được tôn làm Long Vương. Như ở suối cá thần Cẩm Lương, Thanh Hóa có đền thờ chàng rắn của người Mường được phong là Tứ phủ Long Vương. Ở xã Thạch Trị huyện Thạch Hà, Hà Tĩnh có Miếu Ao, thờ Ông Cả Long vương. Sự tích ở miếu ghi: Đức Vương và Thánh Nữ thấy sao băng mà sinh được 3 quả trứng nối liền nhau thành 1 con Hoàng Xà, sau bị Đức Vương chẳng may xắn thành 3 khúc, trở thành 3 anh em.

Trong những câu chuyện trên, vị Đức Vương, hay Ông lão thực ra là vua Kinh Dương Vương trong sử Việt. Thánh Nữ, bà Thái phi, bà mẹ là bà Thần Long. Kinh Dương Vương lấy con gái Động Đình Đế Quân mà sinh ra Lạc Long Quân. Những người con rắn nở ra từ một bọc trứng ấy là những người anh em với Lạc Long Quân của thủy phủ. Do đó, các vị thủy thần thời này đều là những nhân thần thật sự, có công dựng nước cùng với vua Lạc Long Quân dọc dòng sông Hồng

Rắn thần trong Đạo mẫu Tứ phủ

Sự tích ở đền Đồng Bằng (xã An Lễ, Quỳnh Phụ, Thái Bình) kể rằng: Nàng Quý đi tắm ở sông Đào, cảm động với giao long mà có  thai, sinh được một bọc, nở ra 3 con Hoàng xà. 3 con rắn sau hóa thành 3 chàng trai giúp vua Hùng đánh giặc. Con Hoàng xà lớn trở thành Vĩnh Công Đại Vương Bát Hải Động Đình, tức là vị đức Vua cha Thoải phủ trong tín ngưỡng Tứ phủ. Người đứng đầu Thủy phủ thì không ai khác chính là vua cha Lạc Long Quân trong sử Việt.  

Trong thần điện Tứ phủ còn thờ những con rắn thực sự. Nhị vị Xà thần có tên gọi là Thanh Xà Tướng quân và Bạch Xà Tướng quân, chịu trách nhiệm canh gác đền phủ, trấn giữ đường âm, đường sông nước, trừ ma diệt quỷ. Tuy nhiên, việc thờ rắn làm thần khác với việc thờ thành hoàng là thủy thần trong lốt rắn. Những vị Quan Xà không có sự tích riêng, không có đền thờ riêng, không được sắc phong thờ là thành hoàng ở bất cứ nơi nào. 

Trong tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ Phủ còn có một hình tượng rắn thần đặc biệt khác, danh xưng Tam Đầu Cửu Vĩ. Đó là một thần rắn ba đầu chín đuôi, là thú cưỡi của một số vị Quan như Quan Lớn Đệ Tam, Quan Hoàng Cả… Khác với Thanh Xà và Bạch Xà, Tam đầu Cửu vĩ Long Vương là vị thần có được thờ cúng là thành hoàng ở một số nơi, như ở đình Nam Dư Hạ ở quận Hoàng Mai, Hà Nội. Tam Đầu Cửu Vĩ là hình tượng hóa của hệ thống sông ngòi cổ ở miền Bắc Việt, nơi 3 sông Đà Lô Thao hội tụ ở ngã ba Bạch Hạc rồi chia thành nhiều nhánh mà đổ ra biển. Rất lạ là trong Sơn Hải kinh, cuốn sách cổ của Trung Hoa từ thời trước Công nguyên cũng có nói đến một loài rắn chín đầu gọi là Tương Liễu thị, là bề tôi của thần nước Cung Công. Hình Tương Liễu thị chín đầu phối hợp với chim Kỳ Đồ ba đầu được thể hiện trên bức họa Ngoại quốc đồ thời Lê Trung Hưng, hiện lưu tại Bảo tàng lịch sử Việt Nam.

Lột xác rắn mà thành Tiên

Vương Sung, một nhà triết học Trung Hoa thời đầu Công nguyên nói: “Ve lột vỏ, rắn thay da, rùa bỏ mai, hươu rụng sừng, da vỏ tiêu hết, chỉ giữ lại xương cốt mới có thể thoát xác tái sinh”. Vì thế thân hình rắn ở thời này thể hiện cho các vị tu tiên đắc đạo. Trên các bức bích họa thời Hán, cặp thần tiên tối cổ Nữ Oa – Phục Hy được thể hiện dưới dạng hình người thân rắn, cuộn đuôi vào nhau. Tại khu mộ cổ khổng lồ Nghi Vệ ở Bắc Ninh được khai quật từ thời Pháp đã phát hiện có một chiếc gương thể hiện cặp thần tiên thân rắn. Hình tượng người rắn tương tự còn gặp trên những tấm lụa phủ liệm quan tài cùng thời kỳ.

Hình tiên thân rắn còn gặp trên bức chạm ở một ngôi đình nổi tiếng xứ Đoài Hà Tây xưa là đình Tây Đằng. Bên mé hữu của đình trên xà ngang có bức chạm 2 vị tiên cầm hoa sen với thân rắn dài, có vảy. Hai vị tiên này đứng chầu vào giữa, là nơi có 2 vị tiên khác, một đang ôm rắn và một đang ôm cá.

Trong Tiên đạo, rắn còn kết hợp với rùa tạo thành linh vật Huyền vũ, một trong tứ linh, trấn phương Bắc. Linh vật Huyền vũ thường được thể hiện trên các gương đồng từ thời Đông Hán. Cặp Rắn – Rùa là biểu tượng của Âm – Dương kết hợp trong Đạo giáo, gặp trong những nơi thờ thần Huyền Thiên Trấn Vũ như ở đền Quan Thánh (trấn Bắc của Thăng Long Hà Nội), hay ở đền Sái (Cổ Loa). Tượng thần Huyền Thiên được thể hiện tay cầm kiếm có Rắn quấn quanh và chống lên lưng Rùa. 

Rắn Naga giác ngộ và bảo hộ Phật đạo

Rắn thần trong Phật giáo được gọi là Rắn Naga, là vị Mãng xà vương đã che chở cho Đức Phật khi tu dưới gốc bồ đề trong mưa bão. Tượng Phật của người Khơ me thường được thể hiện ngồi trên thân rắn và được rắn thần 9 đầu che chở. Ở miền Bắc hình tượng này chuyển biến thành tượng Thích Ca sơ sinh có 9 con rồng đến phun nước tắm.

Ở thôn Bảo Tháp, xã Đông Cứu, huyện Gia Bình, Bắc Ninh đã phát hiện một bức tượng rắn bằng đá rất lạ, thể hiện hình ảnh ông Rắn đang tự cắn xé thân thể. Đây có thể là một biểu tượng trong Phật giáo, lấy từ điển tích rắn độc khi đã giác ngộ thì căm ghét thân hình xấu xa của mình, từ bỏ thân rắn mà được đắc lên cõi trời Đao Lợi hoặc thành A La Hán, tôn giả… 

Vua rắn Vương Kinh tử ở Giếng Việt

Ấn tượng về “Rắn thần” trong Lĩnh Nam chích quái là Truyện Giếng Việt. Giếng Việt ở miền Châu Sơn (Bắc Ninh), Thánh Dóng đánh thắng giặc Ân ở chân núi này. Vua Ân chết thành vua Địa phủ, có đền thờ trên núi. Đến cuối thời Tần, có người là Thôi Vĩ chạy lạc vào núi, rơi xuống hang sâu, gặp một con rắn trắng mình dài trăm trượng, mào vàng, miệng đỏ, râu đỏ, vảy trắng, trên trán có dòng chữ vàng đề “Vương Kinh Tử”. Thôi Vĩ dùng thuốc ngải chữa bệnh bướu cổ cho rắn, nên được rắn dẫn khỏi hang…. Ở Châu Sơn tới nay vẫn còn một bức tượng đá cổ, kích thước cao bằng người thật, thể hiện con vật thân như thân rồng rắn nhưng có mỏ và cánh như chim phượng, là dấu vết cổ xưa của một ngôi đền thời Tần Hán tại đây.

Câu chuyện về rắn thần từ thuở Lạc Thị Hồng Bàng qua thời Ân Thương tới thời Tần Hán, với những di vật bằng đá còn sống động nơi núi Châu Sơn, là minh chứng cho tín ngưỡng thờ Rắn thần không phải là mê tín dị đoan, mà chính là hình thức rất độc đáo lưu giữ lịch sử huy hoàng và lâu đời của người Việt. Trong tâm linh Việt, rắn thần là những người con đã theo cha Lạc Long Quân đi khai phá miền sông nước biển Đông, là tổ tiên của 50 họ người Việt. Sự thật về quá khứ người Việt vẫn còn ẩn mình trong hang tối như rắn thần Kinh Vương Tử nơi Giếng Việt xưa.

Bài đăng trên Tạp chí Năng lượng mới, số Xuân Ất Tỵ 2025.

Thần tích thôn Thượng xã Xối Đông, phần nhà Trần

Trích dịch từ bản thần tích lưu tại đền Tây thôn Thượng xã Trung Đông, Trực Ninh, Nam Định.

… Lại nói, từ đó về sau, trải qua Nhân Tông, Anh Tông, Cao Tông, Huệ Tông. Đến Huệ Tông không có con trai kế tự bèn nhường ngôi cho con gái thứ là tên là Công chúa Phật Kim. Phật Kim sau liền cải hiệu là Chiêu Hoàng. Chẳng bao lâu Chiêu Hoàng nhường ngôi cho Trần Thái Tông. Đang khi đó nước Việt ra ở thôn Thượng Lỗi xã Đông Mặc huyện Mỹ Lộc phủ Thiên Trường đạo Sơn Nam có một nhà họ Trần tên là Phác, lấy bà Cao Thị Mỹ thôn Hạ xã Xối Đông huyện Tây Chân làm vợ. Gia thế Trần công vốn làm quan lớn ở triều Lý. Tới ông Phác thì gia cảnh bần bách, không có kế sinh nhai. Vợ chồng bèn gói ghém gia tài trở về quê vợ cùng xin phụ lão cho được ở lại đó để dạy dỗ con trẻ. Nhân dân vui mừng đều đồng ý nhận, tạo một học đường mời ông về ở đó, dạy dỗ sĩ tử. Qua vài năm trong quận huyện nghe tiếng, cũng đều gửi con đến nhập học. Từ đó gia đình ông trở nên đầy đủ hơn.  Một hôm vợ chồng nói với nhau rằng:

  • Ta tuổi đã ngoài ba mươi mà điềm khăn nỏ còn chưa thấy ở cửa huyền. Chi bằng nay hãy tạo phúc gây công, biết đâu ngày nào đó sẽ được trùm ơn, cũng là để thỏa nguyện bình sinh vậy. Sách nói rằng “tích thiện sẽ gặp được thiện, cầu nhân từ sẽ được đắc lòng nhân”. Sao cứ phải khư khư giữ lấy tài vật cho được vậy.

Thế là bèn phát tán hết gia sản để giúp đỡ người nghèo, chu cấp cho người thiếu, đem tài đem lực để ban phát thập phương, xây dựng một ngôi chùa ở trong dân, tô vẽ tượng Phật. Ngày ngày tiến cúng hương hoa. Thời thời tụng niệm chân kinh. Hễ là cần giúp người độ vật đều cố hết sức mà làm. Khi đó trời nóng bức, bà Cao Thị đi ra tắm gội ở bến sông trở về. Đến đêm hôm đó mộng thấy một thần tướng khoác áo bào màu hồng, đeo thắt lưng châu ngọc, thân cưỡi giao long, hai tay ôm một đứa nhỏ đẹp đẽ, đường đường tiến đến trước mặt nàng. Đang trong mộng bà rất kinh sợ, hô gấp Trần công cùng đến xúm bái. Người đó đưa đứa trẻ cho bà Cao Thị nói rằng:

  • Nhà họ Trần phúc hậu, trời đã biết đến. Ta vâng thiên mệnh đem con của Long cung đến thác nhập làm con nhà họ Trần để sau giúp nước triều Trần. Cẩn thận, cẩn thận. Chớ lộ, chớ lộ.

Khi đó bà ôm được đứa trẻ, chưa kịp làm lễ bái yết, trong lòng rất vui mừng thì đột nhiên tỉnh giấc, mới biết là điềm lành, kể lại cho Trần công biết. Tối hôm đó Trần công cũng nằm mộng thấy có một người tặng cho một bài thơ rằng:

Trời định thủy thần cho họ Trần
Vạn cổ núi sông để tiếng thơm
Phúc dày biết tạo, Trời ban phúc
Thấm ơn hưởng lộc tới muôn năm. 

Đến khi ông nghe bà nói, liên tưởng đến giấc mộng, cho rằng đây tất là điềm mộng lành. Từ đó vợ chồng uyên ương chung gối, loan phượng thành bầy. Chẳng bao lâu sau quả nhiên thấy phu nhân có mang thai. Đến kỳ mãn nguyệt sinh hạ một người con trai (khi đó là mùng 2 tháng Mười hai), diện mạo đẹp đẽ, quả giống như hình đứa trẻ trong mộng. Nhân sinh ở nơi chùa nên đặt tên là ông Phạm. Ngày qua tháng lại trải đã ba năm đã biết đi biết nói. Ăn như gió, đi như mưa. Thường thường ra bến sông rẽ nước mà đi xuống. Qua 7 ngày mới trở về dương thế. Người người thấy đều sợ hãi, gọi là thủy thần xuất thế. Đến năm 12 tuổi không học mà tự biết. Phàm trên từ thiên văn, dưới tới địa lý, không có việc gì là không biết, không có thứ gì là không hiểu, lại thạo cung nỏ, giỏi đọc xem hết binh thư. Bạn bè ai cũng sợ phục. Từ đó tiếng vang xa gần đều biết tới tên.

Khi tên tuổi vang đến triều đình, Thái Tông liền sai sứ thần về thôn Hạ xã Xối Đông gọi Trần công vào triều. Công vâng mệnh vào chầu, dẫn theo người con là ông Phạm cùng vào bái yết Đế. Thái Tông thấy ông Phạm có thể mạo khác thường, thực đúng là bậc tuất kiệt. Vua hỏi về tài năng, ông Phạm ứng đối làm Vua rất hài lòng. Ngay hôm đó Vua bái ông Phạm làm Ngự sử Trung thừa. Nhân vì ông Phác là người có tài, lại là người cùng tông phái nhà Trần nên bái ông Phác là Phủ doãn phủ Thiên Trường. Tất cả binh lương, tô thuế đều cho thuộc quản (ông Phác sau hóa được phong là Từ nhân Tập phúc Dao huống Đại vương, hưởng cúng ở thôn Hạ xã Xối Đông, do có bản chép riêng cho này này nên không chép chung vào bản này).

Lại nói, khi đó thôn Thượng xã Xối Đông có một nhà thi thư xử thế, hiếu đễ truyền gia họ Bùi tên Chấn, vợ là người thôn Trung cùng xã tên Nguyễn Thị Ngoạn. Vợ chầm đẹp duyên cầm sắt, uyên ương cùng hợp, lại thường có lòng tạo phúc, cố gắng làm điều nhân, không hề có tới nửa điểm mưa hại người, một hào tư lợi cũng không có lòng tham. Người người ở địa phương đều gọi là một gia đình tốt đẹp. Một bữa vợ chồng ông nhàn rỗi ngồi chơi uống rượu vui vẻ. Khi rượu đã thấm, phu nhân dựa lan can mơ màng thiếp đi, thấy có hai con gấu mờ mờ ảo ảo nhảy múa trước sân, phút chốc hóa thành hai con chim yến trắng. Phu nhân nắm bắt được hai con bạch yến thì bỗng tỉnh lại. Từ đó trong thân có mang. Mang thai được 10 tháng sinh hạ một bầu, nở ra hai người con trai (ngày mùng 10 tháng Mười hai), đều là vẻ rồng hàm én, mắt phượng mày ngài, khác xa với người thường. Cha mẹ rất vui mừng đặt tên người con lớn là ông Khiết, người con thứ là ông Tuyết. Xuân sinh hạ trưởng, đã được 6 năm. Cha mẹ gửi nhập học với Hoa Đường tiên sinh. Học được mấy năm văn võ kiêm toàn, thông minh xuất chúng.

Đến năm 15 tuổi cha mẹ thay nhau mất. Hai ông làm lễ chôn cất cha mẹ, hương khói phụng sự như nghi thức. Khi ấy gia tài đều đã hết, sáng vay tối nợ, bữa đực bữa cái, bốn bức gió lùa, vườn không cọng cỏ. Lúc đó anh em nghe tiếng vợ chồng Trần công (tức ông Phác) tích đức làm việc thiện bèn cùng nhau đến thôn Hạ xin nương tựa làm con nuôi của Trần công. Trần công thấy hai người anh em đều là những nam nhi tốt, rất là yêu mến, tình tuy là con nuôi mà thân như con đẻ. Từ đó hai ông (tức là chỉ ông Khiết, ông Tuyết) tìm được nơi nương tựa, không lo đói khát, dốc lòng chăm học. Được mấy năm thì sử sách trăm nhà không chỗ nào không từng xem. Khi ấy Trần công đã 49 tuổi, bỗng nhiên không bệnh mà mất. Vua cho ông Phạm trở về chôn cất cha. Lúc ấy phu nhân Cao Thị lại do thương tâm mà thành bệnh rồi mất. Ông Phạm cùng với ông Khiết, ông Tuyết làm lễ chôn cất. Đến sau ba năm đạo hiếu đã tròn ông Phạm lại trở về triều nhận chức, để hai người em ở lại gìn giữ gia đường.

Lại nói, khi Thái Tông lên ngôi được 33 năm thì nhường ngôi lại cho Thánh Tông. Thánh Tông khi mới lên ngôi hạ chiếu cầu người hiền, lệnh các châu huyện cử những người hiếu liêm, hiền lương, chính trực, có tài văn võ thì lên kinh thành để ứng tuyển. Lúc đó ông Phạm tiến cử hai người em với Vua. Vua thấy hai người có diện mạo khác thường, trong lòng rất mừng nói:

  • Trời vì triều ta mà đã sinh người hiền phụ giúp, sao lại gặp được muộn vậy. 

Ngay hôm đó bái ông Khiết là Tả bộc xạ, ông Tuyết là Hữu bộc xạ. Nhân việc ông Phạm tiến cử người hiền liền bái ông Phạm là Tấu thư Bác sĩ. Từ đó va ông ở trong triều giữ chức, thiên hạ thanh bình. Đến khi Thánh Tông truyền ngôi cho Nhân Tông, lấy niên hiệu Trùng Hưng. Khi đó Thái tử nước Nguyên là Trấn Nam vương Thoát Hoan cùng đại tướng Hô Mã Nhi, Nguyễn Bá Linh dẫn quân mạnh ba mươi vạn đến xâm chiếm nước ta nhằm cướp lấy nước. Quân thanh chấn động, tiến đến bờ biển. Nhân Tông tập hợp trăm quan định kế đánh dẹp. Khi ấy Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn kiên quyết xin đánh. Trần Phạm, Trương Long, Bùi Khiết, Bùi Tuyết cũng ra sức xin đánh. Vua bèn bái Hưng Đạo Đại vương là Đại Nguyên soái kiêm Chưởng thủy bộ hai quân, nhận năm vạn quân mạnh trấn giữ ở đồn giữa. Lại bái Trần Phạm làm Tả tướng, Trương Long là Hữu tướng, ông Khiết, ông Tuyết làm Điệu bái binh lương cho các lộ. Các ông vâng mệnh nhận quân chia đạo tiến thẳng. Khi đó Hưng Đạo Vương dẫn quân về trang Vạn Kiếp, xây dựng đồn doanh ở trên đất trang Vạn Kiếp. Ông Phạm trấn cứ ở sông Bạch Đằng nối đến sông Lục Đầu, cùng với Hưng Đạo Vương cùng nghênh giặc.

Còn ông Khiết, ông Tuyết cùng Trương Long nhân quân trở về đạo Sơn Nam xây dựng đồn doanh để làm nơi giữ phòng. Khi ấy ba ông nhân quân về xã Xối Đông chia ra lập thành ba đồn. Lúc đó ông Khiết lập một đồn ở thôn Thượng, gọi là đồn Thượng. Ông Tuyết lập một đồn ở thôn Trung, gọi là đồn Trung. Trương Long lập một đồn ở thôn Hạ, gọi là đồn Hạ (sau đổi thôn Hạ thành thôn Phú Gia). Nếu có lập mưu thì các ông tất đều cùng làm với nhau. Trải qua sáu tháng không phân thắng bại. Sau Trương Long được thủy thần Tam Lang dạy, có thể đi dưới đáy nước, đục phá thuyền giặc. Thuyền bè của giặc mất quá nửa. Khi ấy Hưng Đạo Vương cùng với ông Phạm và các quân liên tiếp giao chiến. Quân Nguyên thạo đánh đường thủy nên các ông bèn lên đánh trên bờ. Bỗng có thần Bạch Mã đến giúp. Quân sĩ Nguyên đều chạy tán loạn. Các ông thừa thắng đuổi dài, chém hơn hai trăm đầu tì tướng giặc, vài ngàn quân lính, bắn sống Hô Mã nhi, Nguyễn Bá Linh dẫn về doanh trại. Trấn Nam Vương Thoát Hoan chạy về nước. Hưng Đạo Vương cùng với ông dẫn Bá Linh ra xử tội, chặt làm 3 đoạn thả xuống cửa sông. Quân Nguyên gửi thư xin hòa. Hưng Đạo Vương truyền đem Mã Nhi về nước Bắc, đền gần cửa sông thì giả bị lật thuyền. Mã Nhi bị chết. Từ đó quân Nguyên không dám xâm phạm đất ta. Lúc ấy Nhân Tông luận công ban thưởng các cấp khác nhau, bèn phong Hưng Đạo Vương kiêm Thượng đẳng thần, thực ấp vạn hộ. Phong ông Phạm làm Khuông quốc hầu Chương tấu Phạm Đại vương. Phong ông Khiết là Dực vận hầu Khiết ốc Đại vương. Cho hai ông về xã Xối Đông lập sinh từ để ngày sau có chỗ hương hỏa hưởng thờ (còn ông Tuyết, Trương Long cũng phong Đại vương, được ghi rõ ở bản riêng).

Khi đó ông Phạm, ông Khiết vâng mệnh trở về xã Xối Đông (do ông Phạm lập đồn ở ba nơi, nên đến sau khi hóa ba thôn đều phụng thờ). Khi hai ông đến thôn Thượng truyền xây dựng một nơi sinh từ ở trong đất gần dân. Nhân dân vâng mệnh, xây dựng hoàn thành. Khi ấy ông Phạm dân biểu tâu xin được đi du chơi thiên hạ, trải xem sông núi. Vua đồng ý. Ông bèn đi xe dạo chơi. Một hôm ông đến núi Kim Nhan ở Hoan Châu, bèn lên núi ngắm cảnh. Đến nơi lưng núi bỗng thấy trời đất mù mịt, hổ thét gào. Rồi không thấy ông đâu nữa (tức ông Trần Phạm). Chỉ có ở chỗ ông ngồi thấy mối mới xây thành một gò đất lớn (khi ấy là 15 tháng Tám).

Lúc đó gia thần quân lính thấy vậy, quay về báo với nhân dân. Do người thôn Thượng xã Xối Đông theo ông Phạm thấy ông Phạm đã hóa bèn quay trở về báo với ông Khiết. Khi đó ông Khiết đang đi xe nhàn chơi. Ông Khiết lại dừng ở đất thôn Thượng, dạy đạo cho nhân dân. Ông bèn dâng biểu tâu lên Vua. Vua nghe tin, rất thương xót công thần có công lớn với nước bèn tặng phong sắc chỉ là Dực thánh Khuông quốc Phù vận Triệu mưu Lậu khê Chương tấu Phạm Đại vương. Cho ông Khiết đón sắc về thôn Thượng phụng thờ. Thế là ông Khiết truyền nhân dân thôn Thượng sửa sang chốn cũ đồn doanh để làm đền thờ mà phụng thờ. Ông Khiết ở lại nơi đất thôn Thượng, lấy nhân nghĩa lễ trí tín để giảng dạy cho nhân dân. Trong vài tháng dân trở nên thuần hậu, phong tục tốt đẹp, đất đai trù phú, đều là nhờ công đức của ông vậy.

Lại nói, ông sống ở đất đó qua 6 tháng. Một hôm ông bỗng nhiên bị bệnh liệt, cầu thần không có hiệu quả, uống thuốc không thuyên giảm. Ông mất ở trong nhà (khi đó là mùng 10 tháng Hai). Nhân dân bèn làm lễ chôn cất ở chỗ bên sông. Chôn cất xong, nhân dân dâng biểu tâu lên triều đình. Vua nhớ công lao lớn của ông với nước nhà liền phong thêm sắc chỉ là Dực vận hầu Khiết Ốc Đại vương, lệnh sứ thần đón sắc về nơi hóa, truyền nhân dân viết thần hiệu phụng thờ. Từ đó về sau các chư vị Đại vương của thôn Thượng có linh thiêng âm phù giúp nước, dẹp nạn trừ tai, cầu mưa cầu tạnh có nhiều linh ứng nên có nhiều đế vương phong thêm mỹ tự, sắc chỉ, vạn cổ hưởng thờ, muôn năm hương hỏa mãi không dứt. Tốt thay!

Phong Dực thánh Khuông quốc Phù vận Triệu mưu Lậu khê Chương tấu Phạm Đại vương.
Phong Dực vận hầu Khiết Ốc Đại vương.
Cho phép xã Xối Đông huyện Tây Chân phủ Thiên Trường đạo Sơn Nam phụng thờ.

Ngày sinh thần các chư vị đại vương cùng với các tiết khánh hạ và chữ húy phải cấm vâng khai như sau.

Linh Lang Đại vương sinh thần ngày 15 tháng Giêng. Lễ dùng trên dâng mâm chay, dưới là thịt lợn, xôi. Vào ngày chính có cỗ trai, bánh dày, ca hát, đấu vật mười ngày thì dừng. Hóa thần ngày 15 tháng Mười hai. Lễ dùng dâng chính mâm chay, trà quả, dưới là thịt lợn một màu, xôi, rượu.

Phạm công sinh thần ngày mùng 2 tháng Mười hai. Lễ dùng thịt lợn, xôi, ca hát, đấu vật năm ngày thì dừng. Hóa thần ngày 15 tháng Tám. Lễ dùng trên dâng oản quả, mâm chay, dưới là thịt lợn, xôi, rượu.

Khiết công sinh thần ngày mùng 10 tháng Mười hai. Lễ dùng thịt lợn, xôi, ca hát ba ngày thì dừng. Hóa thần ngày mùng 10 tháng Hai. Lễ dùng trên dâng mâm chay, dưới là thịt lợn, xôi, ca hát ba ngày thì ngừng.

Đại khánh hạ là ngày 15 tháng Mười một. Lễ dùng cỗ trâu, ca hát, đấu vật năm ngày thì dừng.

Mỗi năm hai kỳ xuân thu cứ hai tháng cuối mùa làm lễ bày tế. Làm lễ vật tùy nghi.

Các chữ húy Lang 郎, Phạm 梵, Khiết 潔, Hiển 顯 là bốn chữ nhất thiết cấm.
Chữ húy của các thánh phụ là Khiết 潔, Chấn 振, Phác 樸.
Các chữ húy tên không được gọi, viết văn không được dùng, chữ đọc đều phải tránh âm.

Mỹ tự có chữ Linh, chữ Quý, chữ Minh, chữ Chương, chữ Tấu, chữ Ốc. Các mỹ tự tên không được gọi , đọc đều phải tránh âm.