Động Đình Long Quân ký

Biên chép về thời kỳ Long Quân Lạc Thị qua tổng hợp từ Truyện họ Hồng Bàng và các di tích, thần tích tín ngưỡng thủy thần trên đất Việt.

Xưa, cháu ba đời của Viêm Đế thuộc họ Thần Nông là Đế Minh, Đế Minh sinh ra Đế Nghi. Một lần đi tuần thú phương Nam đến núi Ngũ Lĩnh gặp được nàng Vụ Tiên, lấy làm vợ, sinh ra Lộc Tục, dung mạo đoan chính, thông minh, sớm trưởng thành. Đế Minh bèn lập Đế Nghi cai quản đất Bắc, phong Lộc Tục trị vì phương Nam.

Đế Minh được tôn là đời Hùng Vương đầu tiên với tên thờ là Hùng Vương Sơn Nguyên Thánh Tổ Đột Ngột Cao Sơn. Bà Vụ Tiên lấy vua Hùng ở Ngũ Lĩnh là Tây Thiên Quốc mẫu, đã gặp Đế Minh ở ngọn núi Phù Nghĩa trên dãy Tam Đảo. Đế Nghi là người kế tục Đế Minh, được tôn là đời Hùng Vương thứ hai với tên là Viễn Sơn Thánh Tổ, cai quản vùng đất Hồng Lĩnh ở phương Bắc xưa gần Xích đạo.

Lộc Tục nối tiếp ngôi vua, đóng ở vùng đất phương Nam xưa, tức vùng đất Lạc trên miền Bắc Việt ngày nay. Lộc Tục được tôn là Ất Sơn Thánh Tổ, là đời Hùng Vương thứ ba. Đế Minh, Đế Nghi và Lộc Tục là 3 vị Hùng Vương Thánh Tổ được người Việt tôn thờ ngàn đời trên núi Hùng ở miền đất tổ Phong Châu.

Kế ngôi vị của Ất Sơn Thánh Tổ theo lối truyền hiền (truyền cho con rể) là Tản Viên Sơn Thánh, nhờ có công lớn trong quá trình trị thủy thời Đường Nghiêu, khi nước lũ ngập ngang trời. Sơn Thánh lên ngôi gọi là Kinh Dương Vương. Kinh Dương Vương trị vì phương Nam, lấy hiệu là nước Xích Quỷ, tức là Thủy quốc. Người Mường gọi Sơn Thánh là Lang Cun Cần, lưu truyền ngàn đời trong sử thi Đẻ đất Đẻ nước về sự kiện Kinh Dương Vương khởi đầu lịch sử người Việt với hai dòng sơn thủy. Hùng Vương Ngọc phả gọi ông là Hùng Việt Vương, đời Hùng Vương thứ tư trong Cổ Việt Hùng Thị Thập bát thế. Lịch sử Trung Hoa gọi ông là vua Đại Vũ trị thủy bên bờ Long Môn tại Thác Bờ (Hòa Bình).

Kinh Dương Vương thường dạo chơi dưới Thủy phủ, sau lấy con gái Động Đình Quân Long Vương. Long Vương Động Đình Đế Quân cũng là Long Đỗ hay Thủy phủ Phù Tang Cam Lâm Đại Đế, là người mở đầu của Thủy quốc Động Đình ở vùng ven sông biển. Kinh Dương Vương được dòng Thủy phủ gọi là Long cung Liễu Nghị, người đã kết duyên cùng Xích Lân Long Nữ của Thoải phủ. Kinh Dương Vương theo đó còn được gọi là Bột Hải Long vương.

Hai người sinh ra Lạc Long Quân bên bờ hồ Động Đình. Lạc Long Quân được kể là hoàng tử Linh Lang ở hồ Dâm Đàm, vốn là nơi rốn rồng của Thủy quốc Động Đình.

Lúc ấy, ở vùng đất Hồng Lĩnh phương Bắc xưa Đế Nghi đã truyền ngôi cho con là Đế Lai. Khi Kinh Dương Vương mất, Đế Lai muốn nhòm ngó nước Xích Quỷ nên đã xâm nhiễu phương Nam xưa, người dân địa phương không được yên. Dân chẳng thể làm ngơ liền dắt nhau gọi Long Quân rằng:

– Bố ơi! Chúa xứ Bắc quấy nhiễu nhân dân khổ lắm!

Long Quân vội đến, có thần thuật ẩn hiện biến hóa ra muôn trạng, yêu tinh quỷ mị, rồng rắn, tê giác, voi. Những kẻ tìm đến đều sợ hãi không dám tiếp tục. Đế Lai đành phải bỏ về.

Đế Lai được dòng Lạc thị kể là quân Thục tấn công đất nước của Hùng Vương. Linh Lang cùng với Lục bộ Thủy phủ dâng nước đánh đuổi quân Thục, chiếm được vị trí chủ thiên hạ, đóng đô nơi hồ Dâm Đàm, đất Thăng Long.

Lạc Long Quân lên ngôi, là Vua cha của Thủy phủ, tức Bát Hải Động Đình Long Vương trong tín ngưỡng Tam tứ phủ. Lạc Long Quân lập quốc lấy tên là Đào Hoa trang hay Hoa Hạ, lấy màu đỏ tượng trưng cho vùng đất ở gần miền Xích Đạo. Hùng Vương Ngọc phả gọi Lạc Long Quân là Hùng Hoa Vương, đời Hùng Vương thứ năm trong 18 đời vua họ Hùng.

Trong cuộc chiến này Lạc Long Quân được sự giúp đỡ của cả bên dòng Lạc của cha (Kinh Dương Vương) và dòng Long của mẹ (Thần Long Động Đình), nên khi lên ngôi vua lấy danh xưng là Lạc – Long Quân, tức là thủ lĩnh của cả 2 tộc người Lạc và Long.

Thủy quốc do Lạc Long Quân cai quản là khu vực các tộc người sinh sống dọc các nhánh của hệ thống sông Hồng và ven biển Đông thời cách nay trên 4.000 năm. Tên gọi Động Đình do đó gặp từ ngọn nguồn ba sông Đà Lô Thao, hợp lưu tại ngã Ba Hạc Việt Trì, rồi chia 9 nhánh theo cha Lạc Long về biển. Biểu tượng của Thủy quốc Động Đình là Long vương Tam Đầu Cửu Vĩ, hình tượng của dòng sông Hồng trên đất Việt cổ.

Trong cuộc chiến lập quốc của Lạc Long Quân, đứng đầu bên dòng Kinh Dương Vương – Tản Viên Sơn Thánh là người chú Quý Minh đã cùng cháu đánh giặc và yên dân ở khắp nơi. Còn đứng đầu các bộ Thủy phủ Long cung là những người anh em sinh cùng bọc (cùng mẹ) của Lạc Long Quân. Do nước của Lạc Long Quân là Đào Hoa nên các vị Thủy quan này thường được chép mang họ Đào.

Trong số những vị Long hầu này vị có quyền hành lớn nhất là Thổ Lệnh Trưởng, quyền chưởng Trung Hoa Quốc tể, được gọi là Quan lớn Đệ Tam trong tín ngưỡng Tam tứ phủ. Người anh em có quyền lực thứ hai là Thạch Khanh, được gọi là Quan lớn Đệ Ngũ. Hai vị “sinh Bạch Hạc”, nên được gọi là các thần Bạch Hạc Tam Giang. Còn nơi thực ấp của Trung Thành Thổ Lệnh là ở vùng ngã ba Lảnh (Thường Tín – Hà Nam – Hưng Yên). Thạch Khanh hay Quan Tuần Tranh ban đầu tuần thú ở vùng sông Tranh (Hải Dương), sau bị dời lên miền sơn cước Lạng Sơn bên sông Kỳ Cùng.

Lạc Long Quân dạy dân cấy lúa trồng dâu, định tôn ti thứ bậc vua tôi, vợ chồng cha con theo đạo luân thường, khi về nơi sông nước, trăm họ sống vui vẻ tự nhiên, gặp việc cất tiếng gọi Long Quân bằng bố (tục phương Nam gọi cha là bố):

– Bố ơi! Ở đâu sao không ở đây sống với chúng con?

Tức thì Long Quân đến, dáng vẻ uy linh, cảm ứng khó lường.

Bắt đầu từ Lạc Long Quân, ngôi vị thủ lĩnh thiên hạ được định đoạt theo dòng phụ đạo, tức là cha truyền con nối. Vì vậy Lạc Long Quân được gọi là “Bố”, hay đức Vua cha của Thủy quốc.

Lại đặt tướng văn là Lạc hầu, tướng võ là Lạc tướng; con trai Vương là Quan lang, con gái Vương gọi là Mỵ nương; các ty gọi là Bồ chính, đầy tớ gọi là Xảo xứng. Đời đời cha truyền con nối gọi là Phụ đạo, chủ tướng tương truyền đều lấy hiệu là Hùng Vương mà không đổi.

Đất nước được chia thành nhiều vùng, mỗi vùng do một vị Long hầu phụ trách cai quản như lời Lạc Long Quân nói:

– Nay ta chia ra năm mươi người con quay về Thủy phủ mà chia trị các nơi, năm mươi người con theo nàng lên núi chia nước mà trị vì, lên non xuống biển có việc nghe được cùng giúp đỡ lẫn nhau, chớ được quên hẹn ước.

Bấy giờ, người ở trong rừng, chân núi đi bắt cá dưới nước thường bị giao long làm hại, liền nói với Vương bảo:

– Người Man ở núi với Thủy tộc khác biệt nhau, có kẻ xấu người tốt cho nên xâm hại lẫn nhau.

Vương liền lệnh cho thích mực vào người các hình trạng Long Quân, thủy quái thì giao long không dám cắn. Vì vậy, người Bách Việt có tục xăm mình.

Những vị thủy quan phụ trách cai quản các xứ do đó được thể hiện là những vị thần rắn hay Long vương. Suốt chiều dài thời gian của Lạc triều gần ngàn năm đã có nhiều vị thủy quan ở các khu vực. Tên tuổi, công nghiệp của họ do đó thường được gắn với sự tích sinh ra cùng bọc trứng, trưởng thành có khí chất như rồng như rắn, đánh giặc, trị thủy. Lúc hóa được tôn thờ là các vị thủy thần.

Thủa sơ khai, dân làm không đủ ăn nên lấy vỏ cây làm áo, dệt cỏ làm chiếu, lấy cây quan lang đồ lên ăn, bắt chim thú, cá tôm làm chất mặn, củ gừng làm chất cay, lấy dao, lửa canh tác (tức là đốt nương làm rẫy), phần lớn là lúa nếp, lấy ống tre bắn chim, gỗ làm nhà tránh thú dữ, cắt tóc để tiện đi vào núi rừng, sinh con thì bọc bằng lá chuối, chết thì lấy dùi đánh mõ làm hiệu, làng xóm nghe thấy chạy đến giúp. Nam nữ lấy chồng, lấy vợ trước tiên phải có gói trầu cau, rồi sau mới giết bò, dê làm lễ, lấy cơm nếp cùng nhau ăn cho hết mới thành thân. Về sau đường lối thông suốt. Trăm người con trai chính là thủy tổ của Bách Việt vậy.

Dưới triều đại Lạc Thị, người Việt phát triển nghề nông tang, trồng lúa, trồng khoai, săn bắt chim thú, đánh cá ở sông biển, chăn nuôi bò dê, làm nhà gỗ, sống thành làng xóm, kết hôn lập gia đình, hình thành phong tục, lễ nghi, đường lối thông suốt. Lạc Long Quân cùng các vị Lạc hầu, Lạc tướng trở thành những vị thần tổ phù hộ người dân an cư lạc nghiệp ở miền đồng bằng.

Vào giữa thời Lạc triều, một vị quan Hầu đến từ vùng xứ Nghệ là Chử Đồng Tử đã tiếm ngôi dòng Lạc Thị, chặn đường Lạc Vương ở bãi Tự Nhiên bên bờ sông Hồng. Chử Đồng Tử lập nước riêng, gọi là Trạch quốc, đóng đô ở Khoái Châu (Hưng Yên), có nhiều quan quân theo về. Chử Đồng Tử xây dựng lâu đài, phát triển giao thương đường thủy, kết nối hai vùng đất Hồng và Lạc của thiên hạ. Chử Đồng Tử cũng phát huy lý thuyết Âm dương Ngũ hành, tròn vuông từ thời Tản Viên Kinh Dương Vương, học Tiên đạo từ vùng đất phía Tây (Tây Vương Mẫu – Tây Thiên Quốc mẫu) chữa bệnh, chữa lành cho nhân dân. Tuy nhiên, Chử Đồng Tử “một đêm về trời”. Nước Đào Hoa Hạ dòng Lạc Thị lại trung hưng.

Lạc quốc không chỉ phát triển ra phía Đông ven biển mà còn lên phía Nam xưa (tức phương Bắc nay) sang vùng đất Quảng Tây, Quảng Đông. Người Choang ở vùng này là dòng dõi Lạc Thị, tới giờ vẫn làm lễ tôn thờ Lạc Vương và Long Mẫu. Người Choang cùng nhóm dân tộc với người Tày Nùng ở miền Bắc Việt, nên việc thờ thần Rồng và Long Mẫu vẫn còn in đậm trong bản sắc những dân tộc này cho tới ngày nay. Thủ lĩnh Lạc Vương ở thời này đóng đô ở Dương thành tại Phiên Ngung (Quảng Đông). Giai đoạn Lạc thị Trung Hưng Hoa Hạ, mở nước về phía Đông Nam xưa được Hùng Vương Ngọc phả gọi là thời Hùng Uy Vương, triều đại Hùng Vương thứ sáu theo phả đồ.

Nhà Hạ Trung Hưng được thay thế bằng Bàn Vương trong tích Long Khuyển Bàn Hồ của người Dao. Nhóm tộc Miêu Dao là một trong những tộc người Bách Việt ở phương Nam đã làm nên nhà Thương trong lịch sử Trung Hoa. Trung tâm của giai đoạn này là vùng đất Kinh, tức là vùng Hồ Nam, phía Nam sông Dương Tử. Bàn Vương được Hùng Vương Ngọc phả gọi là Hùng Huy Vương, tức là đời Hùng Vương thứ bảy theo phả đồ.

Một trong những vị Bàn Vương là vua Bàn Canh, đã thực hiện việc di dời dân chúng, tiến xa hơn về phía Nam xưa, vượt qua sông Trường Giang, lập nên nhà Thương thứ hai, gọi là nhà Ân. Các vua nhà Ân được Hùng Vương Ngọc phả gọi là Hùng Duệ Vương, chỉ thời kỳ cuối của giai đoạn Lạc Thị theo cha xuống biển.

Vào thời Hùng Duệ Vương, trên miền Bắc Việt là đất Lạc cổ xưa, có các Lạc hầu, Lạc tướng làm chủ. Sử cũ còn ghi thời kỳ này xảy ra cuộc đụng độ giữa dòng Lạc họ Hùng và dòng Thục đến từ phía Tây. Sự tranh đấu giữa 2 nhánh lên núi – xuống biển, Hùng – Thục, Âu – Lạc này bắt đầu từ thời Lạc Long Quân dựng nước, kéo dài suốt giai đoạn Lạc Thị cho tới Hùng Duệ Vương. Các sự tích ở miền Bắc Việt ghi nhận là những vị Long hầu đất Lạc đã nhiều lần chống lại các cuộc tấn công của quân Thục. Kết quả cuối cùng là vua Hùng nhường ngôi cho Thục chủ, chấm dứt thời kỳ Lạc Thị theo cha khai phá miền biển, mở ra giai đoạn lịch sử mới khi 2 dòng Âu và Lạc tái hợp và sự lên ngôi của người con theo mẹ Âu Cơ ở Phong Châu là Hùng Quốc Vương. Qua bốn ngàn năm lịch sử từ cha Rồng xuất thế nơi Đào Động, 50 người con chia trị Ngũ phương, miền sông nước Động Đình đã vươn xa hơn ra biển. Thủy quốc Long Quân còn in đậm trong tín ngưỡng Tam tứ phủ, trong tục thờ thành hoàng ở hàng trăm, hàng ngàn ngôi làng ở Bắc Bộ, trong những bản thần tích, những bài sử thi dẫn đường cho linh hồn con cháu về với tổ tiên của người Kinh, Mường, người Tày, người Dao… Lịch sử cha ông không thể nào quên. Hỡi ôi, tiền nhân bất vong!

Ngọc phả thôn Thượng, làng Xối Đông, Trực Ninh, Nam Định

Bản chính bộ Lễ quốc triều, thủy thần và nhân thần cùng bộ

Xưa vào thời Lý Thái Tông. Khi ấy nước ta ở trang Bồng Lai huyện Từ Liêm phủ Quốc Oai đạo Sơn Tây có một người con gái họ Dương, tên là Thái nương. Năm lên ba tuổi cha mẹ đều mất. Nương sống nhờ người cậu ruột là Trần Công Tiệp ở phường Thị Trại. Đến năm lên 16 má đỏ môi hồng, mày ngài mắt phượng. Tuy lối xóm truyền nhau cầu phượng, nhưng chọn tuyển màn loan còn chưa có ai. Cho nên thơ Đào yêu vẫn chưa được ngâm đàn vậy.

Vào mùa xuân trời đẹp, Thánh Tông loan giá đi chơi ngoài thành. Người người cùng xem, kéo đến đông như nêm, không biết bao nhiêu mà kể. Khi đó Thái nương cùng với người cậu cũng cùng đến xem. Thánh Tông thấy Nương có nhan sắc đầy đặn, không kém tiên khách Bồng Doanh. Vua trong lòng rất thích, bèn dẫn về cung, lập làm Đệ tam Cung phi. Ngày ngày hầu ở bên không rời. Qua được bốn năm không thấy có việc sinh đẻ. Vua bèn lập riêng một cung ở phường Thị Trại, cho Cung phi ở đó. Từ đó Cung phi về ở nơi cung sở, luyện tập nữ công.

Một hôm mùa hè trời nóng bức. Cung phi đi ra hồ Tây giặt lụa. Đang khi ấy bỗng thấy có một con Giao long thân dày hơn mười thước, đầu đội mũ hoa, vảy giáp đỏ trắng, từ giữa hồ nổi lên đến quấn thân Nương ba vòng. Nương bàng hoàng sợ hãi, muốn chạy nhưng không được, ngã thân nằm như mất tri giác, không biết mê hay tỉnh. Được một lúc thì Giao long tự biến đi. Nương dần dần tỉnh lại, quay về cung sở, tâu lên Vua, kể về sự việc xảy ra. Vua nghe nói rất tức giận, muốn định triệu tập trăm quan viết thư bắn xuống hồ để vạch tội thủy cung. Vua bỗng nhiên thấy tinh thần lơ mơ, mơ màng như mộng, thấy một người thân khoác áo hồng, tay cầm cờ hồng, từ phương Nam đi đến, tự xưng là Thiên sư, nói với Vua rằng:

  • Ba năm sau thiên hạ có giặc Trinh Vĩnh đến xâm phạm, nên Thiên đình mệnh thủy thần xuất thế, đầu nhập làm con của hoàng gia để giúp nước dẹp giặc. Bệ hà xin chớ oán trách.

Nói xong Vua bỗng tỉnh lại, biết là mộng lành. Từ đó Cung phi cảm mà có mang thai. Đến ngày 15 tháng Giêng mùa Xuân năm Nhâm Dần sinh hạ được một người con trai. Đang khi sinh có khí lành bay khắp, hương thơm ngào ngạt. Sinh được trăm ngày Cung phi bế hoàng tử vào triều. Vua thấy vậy rất vui mừng, đặt tên là Hoàng Lang, lại cho Cung phi cùng với hoàng tử về cung Thị Trại để ở.

Qua ba năm thì có giặc Trinh Vĩnh dẫn quân đến xâm chiếm. Thiên hạ chia ba phần thì đã bị mất quá nửa. Triều đình nhiều phen giao chiến đều chịu thiệt hại. Vua bèn sai sứ thần đi chiêu mô người dân các chư huyện phủ xã trong thiên hạ, ai có anh tài, trí dùng dẹp yên được giặc thì sẽ ban cho chức trọng trong thiên hạ. Một hôm sứ thần đi chiêu mộ thiên hạ đến lúc về đi đến phường Thị Trại. Hoàng Lang lúc này tuổi mới lên ba, mới biết ăn uống, còn chưa biết nói năng. Đến khi nghe sứ giả chiêu mộ tới nơi, bỗng hỏi mẹ rằng:

  • Sứ giả chiêu mộ gì vậy?

Cung phi nói:

  • Nay có giặc Trinh Vĩnh đến xâm chiếm. Việc thiên hạ an nguy hệ trọng trong sớm tối. Hoàng tử miệng còn hôi sữa, sao có thể dẹp giặc mà hỏi làm gì?

Hoàng Lang nói:

  • Mẹ gọi sứ giả lại đây.

Cung phi bèn gọi sứ giả vào gặp. Hoàng Lang nói với sứ giả:

  • Ngươi hãy mau trở về tâu với Vua cha cho ta một con voi khỏe cùng một lá cờ lớn, tất cả đều phải dùng bằng đồ sắt, mau chóng đem đến. Quân giặc kia sẽ sớm được dẹp yên.

Sứ giả vâng mệnh về triều, dâng tấu lên Vua. Vua nhanh chóng truyền đúc một con voi sắc, tạo cùng đó một lá cờ lớn, đem đến cung Thị Trại. Khi đó Hoàng Lang thở mạnh một tiếng, bỗng thấy thân dài ra một trượng, tay cầm cờ lớn, nhảy lên voi khỏe, hô to một tiếng rằng:

  • Ta chính là Thiên tướng.

Voi chạy như bay. Voi khỏe rống lên một tiếng, trong miệng có lửa bay ra. Trong chốc lát đã đến thẳng đồn giặc. Hoàng Lang tay cầm cờ lớn chỉ vào doanh trại giặc, hô rằng:

  • Ta vâng sắc mệnh Hoàng thiên đến giúp nước dẹp giặc. Lũ giặc sẽ chết không còn một tên.

Nói xong bỗng thấy doanh trại giặc bốc lửa, trong khoảnh khắc cháy rụi. Lũ giặc đều chết cháy. Hoàng Lang quay trở về bái yết vua.

Thế rồi Hoàng Lang bỗng nhiên bị mắc bệnh đậu mùa. Sau ba tháng mà bệnh không thuyên giảm. Vua thân đến tận nơi thăm hỏi, nhân đó nói với Hoàng Lang:

  • Khanh là con của ta thì chứng đậu mùa này tất sẽ khỏi.

Hoàng Lang cúi mình khóc rằng:

  • Thần vốn là con ở thủy cung, không phải con của bệ hạ. Trước thần vâng theo mệnh Thượng đế xuất thế dẹp giặc. Ba năm đã hết hạn, phải quay trở về nhậm chức ở thủy cung.

Vua nghe vậy bèn nói rằng:

  • Khanh có công lao to lớn với nước nhà, mà chưa được báo đáp. Khanh muốn được như thế nào thì ta cũng sẽ đồng ý.

Hoàng Lang tâu rằng:

  • Thần xin Bệ hạ đem thần ra chỗ bàn đá bên hồ Tây, cùng với con voi chiến và lá cờ lớn mang đến đó. Thần xin được cầm cơ ném lên trên trời. Cờ bay đến nơi nào, xin Bệ hạ cho nơi đó là nơi thần được lưu danh ngàn đời. Thế là thần đã mãn nguyện rồi.

Khi đó Vua truyền quân lính đón Hoàng Lang cùng với voi và cờ đến thẳng trên bàn đá bên bờ hồ Tây. Vua thân đến tiễn, hai bên có các quan đi theo, phía sau là các tùy tùng. Đến chỗ bàn đá, Hoàng Lang tay cầm lá cờ lớn ném lên trên trời. Bỗng thấy trời đất

Mờ mịt, sông nước sóng dân cuồn cuộn. Giao long, ba ba trùng trùng vạn hàng nổi trên nước. Cá kình, cá sấu lớp lớp cuộn ngàn ánh sóng. Hoàng Lang bỗng hóa thành một con giao long trườn thẳng xuống hồ Tây mà hóa. Khi đó là ngày 15 tháng Hai. Con voi cũng phục xuống ở phía trái của bàn thạch bên hồ Tây. Được năm ngày sau lá cờ lớn bay trở về dừng ở bên phải. Vua thấy lá cờ lớn đó rất anh linh bèn phong tặng là Linh Lang Đại vương, cho lập miếu ở nơi bàn đá làm đền chính để hương lửa phụng thờ.

Việc xong Vua ban chiếu truyền thần dân thiên hạ nơi nào ngày trước lá cờ lớn hoặc có bay tới địa phương đó thì đều về kinh thành nghênh đón sắc mang về phụng thờ trong dân.

Khi ấy ở hai thôn Thượng và Trung xã Xối Đông huyện Tây Chân phủ Thiên Trường đạo Sơn Nam là cờ lớn cũng có bay tới, chỉ vào nơi trong dân. Từ đó nhân dân thấy bị động, vật nuôi không yên, nhân dân gặp nhiều thiệt hại. Đến khi nghe thấy chiếu truyền đến người thôn Thượng đã làm lễ lên kinh thành nghênh đón sắc Hoàng Lang về phụng thờ cùng với Quý Minh Đại vương ở cùng một nơi. Từ đó nhân dân được an khang, no đủ, vật nuôi yên ổn, đều là nhờ ơn đức lớn của Hoàng Lang. Trải các đời sau đều có nhiều linh ứng giúp nước giúp dân, nên có nhiều đế vương đều có phong thêm các mỹ tự, sắc chỉ, vạn năm hưởng huyết thực, hương lửa không dứt vậy.

Phong Linh Lang Đại vương. Cho phép thôn Thượng xã Xối Đông huyện Tây Chân phủ Thiên Trường đạo Sơn Nam phụng thờ…

(Phần sau là thần tích 3 vị thần khác, không dịch)

Các vị thủy thần ở Hà Tĩnh

Hà Tĩnh là vùng dải núi Trường Sơn chạy ven biển từ cửa Hội đến Đèo Ngang. Vùng hữu ngạn sông Lam lẽ ra phải có nhiều nơi thờ Thủy phủ như ở phía tả ngạn thuộc Nghệ An nhưng nay lại không thấy có di tích nào thờ Thủy thần. Thay vào đó là lưu vực sông Nghèn đổ ra biển ở núi Nam Giới lại là nơi phổ biến tín ngưỡng thờ Tam Lang Long vương, là 3 vị thần rắn hiển linh thời vua Lê. Dày đặc nhất của việc thờ Tam Lang Long Vương là ở huyện Thạch Hà, với những di tích thờ riêng rẽ từng vị Ông Cả, Ông Hai, Ông Ba Long vương, hay thờ tập trung ở các đền lớn tại Thạch Trị như Miếu Ao, Miếu Ngu, đền Sắc Thạch Lạc.

Tín ngưỡng Tam Lang Long vương ở Hà Tĩnh còn phân bố ở một số nơi trên miền núi như ở đền Thái Yên của huyện Đức Thọ, đền Voi ngựa của huyện Can Lộc. Có chỗ như ở đền Ích Hậu huyện Lộc Hà sự tích có chút thay đổi, thay là 3 chàng Rắn là 3 chàng Vịt nở ra từ trứng. Tín ngưỡng Tam Lang Long vương còn thấy ở tận phía Nam của tỉnh vùng La Sơn (Cẩm Xuyên).

Vị thủy thần quan trọng thứ hai ở Hà Tĩnh là thần Cao Các với tên gọi khác nhau ở một số nơi như Cao Các Trà Sơn, Cao Các Mạc Sơn, Cao Sơn Cao Các. Thần Cao Các được thờ cả ở vùng ven biển (Thạch Hà) cũng như vùng núi (Can Lộc). Lối thờ tương tự như bên Nghệ An, nhưng sự tích thường không rõ ràng.

Trong số các thần Thủy phủ thì ở Thạch Hà còn thấy rải rác thờ Hà Bá Thủy quan. Ở vạn chài Lạc Thủy cũng của huyện Thạch Hà có thờ thêm Long Vương, với tên gọi cũng như sự tích không rõ ràng.

Trong số các Hải thần ở Hà Tĩnh duy nhất gặp làng Cương Gián của huyện Nghi Xuân thờ Đông Hải Đại vương Nguyễn Phục, tương tự như bên Nghệ An. Còn lại những nơi khác thường là thờ Đại Càn Nam Hải hoặc Sát Hải Hoàng Tá Thốn.

Tín ngưỡng thờ Linh Lang và Thủy Tinh không thấy có ở Hà Tĩnh. Ở Hà Tĩnh không có di tích thờ Chử Đồng Tử như lại có ngọn núi Nam Giới tại Thạch Hà tương truyền là đất Quỳnh Lâm, nơi Chử Đồng Tử gặp Tiên học đạo. Trên đỉnh núi có bàn cờ tiên như chứng tích cho sự kiện này.

Các vị thủy thần xứ Nghệ

Tín ngưỡng thờ thủy thần gắn với sông biển, nên phân bố và đối tượng tín ngưỡng tất nhiên có mối quan hệ chặt chẽ với điều kiện thủy văn của một vùng nhất định. Nghệ An là tỉnh có diện tích khá lớn, phía Đông là biển, phía Tây là dải Bắc Trường Sơn, nơi cư trú của các nhóm người dân tộc. Do đó trước hết tín ngưỡng thờ thủy thần sẽ tập trung ở vùng đồng bằng và trung du ven biển và ven các con sông. Vùng miền núi tuy không phải không có tín ngưỡng thờ thủy thần, nhưng do đặc điểm văn hóa dân tộc, ở đây không có những di tích tín ngưỡng như ở người Kinh.

Nghệ An được ngăn cách với Thanh Hóa bằng dãy núi chạy từ Quỳ Châu (Tây Nghệ An) ra tận biển, phần núi lớn giáp biển ở Quỳnh Lưu là hệ thống núi Xước. Do đó vùng đất xứ Nghệ hoàn toàn cách biệt với lưu vực của sông Mã và sông Hồng. Điều này lý giải sự vắng mặt của các thủy thần sông Hồng ở Nghệ An như Linh Lang, Bạch Hạc Tam Giang hay Chử Đồng Tử.

Bản thân tỉnh Nghệ An được chia thành 2 lưu vực bởi dải núi cắt ngang, kết thúc ở núi Mộ Dạ phân tách giữa Diễn Châu và Nghi Lộc. Các vùng thờ thủy thần ở xứ Nghệ do đó cũng chia thành 2 khu vực. Một là khu vực phía Bắc gồm các huyện Diễn Châu, Quỳnh Lưu ở ven biển và Tân Kỳ, Đô Lương ở trung du. Khu vực phía Bắc tỉnh chủ yếu là đồi núi, với các con suối, dòng sông nhỏ và ngắn. Trong khi đó ở phía Nam của tỉnh là tả ngạn của sông Lam, dòng sông bắt nguồn từ bên Lào chảy qua các tỉnh miền núi của Nghệ An như Kỳ Sơn, Tương Dương, Con Cuông, qua Anh Sơn, Thanh Chương, Nam Đàn, Hưng Nguyên rồi đổ ra biển ở vùng huyện Nghi Lộc.

Với đặc điểm đồi núi ven biển nhiều, vị thần phổ biến nhất thờ ở Nghệ An là vị “sơn thủy thần” Cao Sơn Cao Các. Vị thần này gặp ở cả phía Bắc và phía Nam của tỉnh, cả ở ven biển lẫn ở vùng rừng núi. Ở Nghệ An không còn gặp thần Quý Minh như ở Thanh Hóa nữa, thay vào đó có tới 166 nơi thờ Cao Sơn Cao Các. Riêng ở đền Tân Long xã Quỳnh Châu, Quỳnh Lưu thờ Cao Sơn Cao Các với tên Cao Sơn Cao Các Quý Minh Sơn thánh, cho thấy thực chất Cao Sơn Cao Các là tên thờ khác của vị thượng đẳng thần Quý Minh của vùng Bắc Bộ.

Ở vùng phía Bắc Nghệ An (Diễn Châu, Quỳnh Lưu) khá phổ biến sự tích thờ Rắn thần, với tên gọi Thánh Lành Thánh Cụt. Thậm chí thần rắn ở đây còn được phong tên hiệu là Càn Bí Đế vương Võ Sơn Long xà. Trong khi đó ở vùng phía Nam của tỉnh dọc sông Lam lại phổ biến hơn bộ các thủy quan trấn phương là Ngũ phương Ngũ đế hay Thủy phủ Ngũ vị Hoàng tử, thường phối với các thần khác trong Thủy phủ Công đồng.

Rất hiếm các vị Hải thần được thờ ở Nghệ An, có vẻ như thần Cao Sơn Cao Các đã chiếm vị trí này ở các vùng ven biển. Cá biệt có thần Long Hà Tây Hải Đại vương ở miếu Tây xã Quỳnh Nghĩa, Quỳnh Lưu và thần Đông Hải Đại vương ở Phúc Thọ, Nghi Lộc. Những “hậu thân” của Hải thần như Đoàn Thượng, Phạm Tử Nghi, Nguyễn Phục không thấy xuất hiện ở Nghệ An. Duy có thấy trường hợp của Sát Hải Đại vương Hoàng Tá Thốn xuất hiện với đặc trưng của Hải thần. Ngoài ra, đáng kể ở Nghệ An là sự phổ biến của tín ngưỡng thờ Đại Càn Quốc gia Nam Hải Tứ vị Hồng Nương, một dạng thần thuộc hệ văn hóa phương Nam.

Nổi bật ở Nghệ An là tín ngưỡng thờ Tam phủ, tức là Thủy phủ Công đồng. Các di tích lớn nhất nằm trên dòng sông Lam là đình Thanh Liệt xã Hưng Long của huyện Hưng Nguyên. Ở đây thờ 3 vị Thủy phủ chính thần rất rõ rệt là:

  • Thủy phủ Phù Tang Cam Lâm Đại đế
  • Thủy quốc Động Đình quân
  • Hà Bá Thủy phủ Động Đình quân

Đền Vạn chài Nghĩa Sơn xã Hưng Lam, Hưng Nguyên thì thay vào chỗ “Thủy quốc Động Đình quân” lại là thần Liễu Nghị, cho thấy thực chất 3 vị Thủy phủ này là:

  • Long Đỗ Động Đình Đế quân
  • Kinh Dương Vương
  • Lạc Long Quân

Đây là 3 vị vua đầu của dòng Động Đình xuống biển của người Việt. Sự xuất hiện của dòng Thủy phủ Động Đình ở Nghệ An cho thấy mối liên hệ giữa 2 vùng Nam – Bắc, Lạc – Hồng, Bắc Bộ – Trung Bộ thời lập quốc cách nay trên 4.000 năm.

Ở một số nơi tại Nghệ An có thờ vị thủy thần là Đức ông sông nước, thường cùng với Hà Bá Thủy quan. Có chỗ như nghè Giáp Tam xã Quỳnh Lập, Quỳnh Lưu cho biết Đức ông sông nước là Long vương. Như vậy có thể nhận định Đức ông sông nước là Kinh Dương Vương (Liễu Nghị) trong chính sử họ Hồng Bàng.

Duy nhất ở đền Cờn ngoài thờ Đại Càn Nam Hải có tượng thờ Bát Hải Long vương. Có lẽ đây là sự ảnh hưởng của tục thờ Bát Hải của miền Bắc. Còn Lạc Long Quân – Bát Hải Động Đình ở Nghệ An đã nằm trong bộ Thủy phủ Công đồng là Hà Bá Thủy phủ Động Đình quân. Tín ngưỡng Thủy phủ công đồng ở Nghệ An còn giữ đậm nét không chỉ trong các di tích mà còn trong các tư liệu sắc phong và văn cúng tại đậy.

Cuối cùng là về Thủy Tinh Thánh mẫu, thường được thờ cùng trong bộ Thủy phủ Công đồng trên dòng sông Lam, nhất là khi tại đây thờ thần Liễu Nghị (Thủy phủ Đại đức Long cung). Rải rác có những đền thờ Mẫu Thoải, tức là một dạng muộn hơn của Thủy Tinh Thánh mẫu khi đã đi vào trong Đạo Mẫu Tứ phủ.

Các vị thủy thần xứ Thanh

Dòng sông chính chảy qua Thanh Hóa là sông Mã với 2 nhánh, một chính nhánh chảy từ Quan Hóa, Bá Thước qua Cẩm Thủy, Vĩnh Lộc. Một nhánh ngắn hơn là sông Chu bắt nguồn từ hồ Cửa Đạt ở Thường Xuân, chảy tới Ngã ba Đầu gần núi Đọ, Hoằng Hóa thì hợp với nhánh chính của sông Mã, rồi đổ ra biển tại Sầm Sơn. Lưu vực sông Mã là nơi tập trung chính các di tích tín ngưỡng thờ Thủy thần của xứ Thanh.

Bên cạnh đó, còn 2 khu vực thờ thủy thần nữa ở xứ Thanh với quy mô nhỏ hơn. Một là vùng núi đá vôi ven biển ở Nga Sơn, Bỉm Sơn. Hai là vùng phía Nam sông Yến thuộc Tĩnh Gia (nay là Nghi Sơn).

Chính dòng thủy thần Linh Lang Đại vương gặp rải rác ở 8 nơi dọc theo sông Mã và vùng Nga Sơn. Đáng kể là ở đình Bồng Thôn và đình Bồng Hạ xã Vĩnh Minh, Vĩnh Lộc có sự tích là hoàng tử Linh Lang thời Lý. Ở làng Vĩnh Ngọc, xã Đông Lĩnh, TP. Thanh Hóa có thần tích Linh Lang thời Lý được chép chung với Trung Thành Đại vương trong bộ nhất bào ngũ tử thời Hùng Vương.

Nhóm “sơn thủy thần” Quý Minh ở Thanh Hóa cũng chỉ gặp ở vùng sông Mã và Nga Sơn với số lượng khá nhiều. Đặc biệt ở vùng này bắt đầu xuất hiện tín ngưỡng thờ thần Cao Các, dường như nối tiếp cách thờ Cao Các Quý Minh từ vùng cửa Thần Phù (Ninh Bình). Thống kê trong Thanh Hóa chư thần lục có 10 nơi thờ Quý Minh và có tới hơn 40 nơi thờ thần Cao Các ở xứ Thanh.

Tín ngưỡng thờ các vị Thủy thần cùng bọc ở Thanh Hóa không nhiều, có 8 di tích dọc theo hệ thống sông Mã và sông Chu và 2 di tích ở vùng Tĩnh Gia. Trong số đó ngoài thờ Bạch Hạc Trung Thành Đại vương, còn thường là thờ hai anh em thần rắn ông Dài ông Cụt, nhất là ở vùng thượng nguồn sông Mã, trong khu vực người Mường. Cá biệt ở đình Đệ Nhị, xã Thiệu Tiến, Thiệu Hóa có thờ Câu Mang Đại vương.

Khác với các vị thủy thần cùng bọc, ở ven biển xứ Thanh rất phổ biến thờ các Hải thần. Tuy nhiên ở đây thường gắn sự tích vào các nhân thần thời sau như có tới hơn 70 nơi thờ Đông Hải Nguyễn Phục ở cả 3 vùng của xứ Thanh. Có khoảng 9 nơi thờ Đông Hải Đoàn Thượng ở 2 khu ven biển là Nga Sơn và Tĩnh Gia. Rải rác ở vùng núi phía Bắc của tỉnh có thờ Nam Hải Long vương, Đông Hải Long vương.

Trong bộ Thủy phủ công đồng tập trung nhất vẫn là ở vùng sông Chu – sông Mã. Phổ biến ở đây là các “Long thần” như Long Cung Thủy thần, Thủy quan Long vương, Long Uyên tôn thần, Long Uyên Đĩnh tú, Đậu uyên Long vương (chữ Uyên chỉ nơi nước sâu, thường là thủy thần các vực), Tỉnh tuyền Long vương (thần giếng).

Nhiều làng chài dọc sông Mã của thành phố Thanh Hóa, gọi là Thủy Cơ, có tính ngưỡng thờ Thủy phủ Công đồng gồm Hà Bá, Thủy quan Long vương, Thủy quan tôn thần, Thủy tộc tôn thần. Ở khu vực Hoằng Hóa có nơi thờ thần thuồng luồng là Ngu giang tôn thần. Ở Tiên Bạn, Thọ Xuân lại có thờ thần Quảng Tế Long Đỗ hiển linh giúp Lê Lợi. Khu vực sông Yến, Tĩnh Gia có vài nơi thờ Hà Bá và Thủy quan.

Các vị Thủy phủ Hải thần ở Thanh Hóa nổi bật là Bát Hải Long vương ở vùng núi phía Bắc, mà đền Bát Hải ở TX. Bỉm Sơn là được biết đến nhiều nhất. Trong sâu đất liền ở Xuân Phổ, Thọ Xuân lại có tục thờ Đại Hải Long vương, gắn với trò Xuân Phả nổi tiếng ở đây. Ở Hoằng Hóa có thờ thần Hải Giác Long vương, với sự tích về một tấm gỗ thiêng trên biển. Không thấy ở phía Nam của tỉnh có thờ Thủy phủ Hải thần.

Trong dòng Lạc thị ở xứ Thanh có vài nơi thờ những người con của Lạc Long Quân đi khai phá miền biển. Được biết nhiều là ở Hổ Bái tại xã Yên Bái, Yên Định, là người con thứ 11 theo cha xuống biển. Ở An Hóa, Hậu Lộc có thờ Giải Uyên là con vua Mạc Long (Lạc Long). Ở Ngọc Hộ, Hoằng Hóa thờ Minh Quang Linh Ứng con vua Lạc Long.

Thủy Tinh Thánh mẫu được thấy thờ ở phía Bắc của tỉnh, như đền Bông thờ Mẫu Thoải trong cụm di tích Hàn Sơn tại Hà Trung. Thủy Tinh Tiên Dung Phu nhân ở Bãi Nại, Nga Sơn. Còn lại rải rác có thờ Thủy Tinh Công chúa nhưng lại là sự tích vào thời Trần hay những thời sau.

Phân bố các di tích thờ Linh Lang và Quý Minh ở Thanh Hóa
Phân bố các nơi thờ Thủy thần cùng bọc và Tứ Hải Long hầu ở Thanh Hóa.
Phân bố các di tích thờ Thủy phủ công đồng, Thủy Tinh thánh mẫu và dòng Lạc Thị ở Thanh Hóa.