Triều Lê bộ Lễ bộ Thượng thư tri điện bách thần vâng sao tích báu cổ truyền
Hoàng đế bệ hạ ban sắc chỉ… (phần sắc chỉ không dịch)
Năm Giáp Thìn ngày 15 tháng Giêng Đệ nhị tiên cung tên là Tiên Dung Châu xuất thần, tất là tiên nhân giáng sinh nên nhân đó gọi là Giáng Tiên. Đến khi trưởng thành da trắng mịn màng, trong sáng như gương soi, mày loan như mặt trăng mới mọc, mắt trong như sóng thu. Người xưa nói như hoa như ngọc, đủ đầy mà hình dung đẹp đẽ. Thường ở yên trong nhà tự đọc sách, không cần người chỉ bảo. Lại thành thạo đàn sáo, tinh thông thơ sách, trộm kỹ diệu của Tương Phi, xem tài cao của Lộng Ngọc. Khi nhàn nhã thường đi chơi ở Thăng Long, đất Giao Chỉ. Vì thế mà gặp vua Hùng đời thứ tám là Huy Vương. Vua đem sính lễ kết làm chính thất cung phi. Được hai năm thì có thai. Mang thai tháng 12 thì đến kì sinh nở. Năm Giáp Ngọ ngày mùng 10 tháng Sáu đi tắm ở sông Nhuệ chỗ ngã ba sông. Tắm đến ngày 12 thì sinh được một bầu năm quý tử. Nên có lời ca ngợi rằng: Một bầu sinh xuất năm anh em Vạn đời rạng rỡ một thần thánh. Tên tuổi bao trùm, nghìn năm ghi trong tín sử, vạn đời tiếng thiêng rờ rỡ, thông minh mưu rộng, công nhiều tích lớn, đuổi di dẹp giặc, thế nước bền lâu, tỏ tường trong sách sử.
Lại nói người đất Phong Châu nước Việt Thường mà đúc nên khí thánh. Vào năm Giáp Ngọ ngày mùng 10 tháng Sáu tắm gội 12 ngày đến kỳ mà sinh. Hôm đó hương thơm bay ngào ngạt, người người vui mừng. Khi trưởng thành 5 anh em đều nhiều lần lập công lớn, dẹp giặc đem lại yên bình cho đất nước. Triều đình vỗ về, sắc phong quan lớn. Sau khi hóa vua lại ban cho chỉ tặng là Thượng đẳng thần. Cả năm vị quý tử anh em đến năm Thân ngày 12 tháng Mười một thì cùng hóa, được ban sắc phong là Thủy thần. Nhà vua hội nghị trong triều, cử Giám quốc sư đi phát sắc phong thần cho 17 nơi lập đền phụng thờ.
Giám quốc sư đem sắc phong đi đến trang trại Thịnh Phúc, quận Quảng Nguyên, báo với các phụ lão, cho 30 quan tiền để xây miếu đền, dựa Càn hướng Tốn. Trước có ba sông hợp dòng, sau có sông núi ôm ấp, giữa nôi lên 5 gò đất, đúng thế đất người nhiều vật giàu, tất sẽ phát anh tài. Giao cho trang Thịnh Phúc phụng thờ đền thiêng, đời đời tiếp nối. Khi còn sống có võ công vẻ vang, khi hóa thiêng có tiếng thiêng hiển hách, âm phù cho vận nước. Sau khi hóa trang dân địa phương tất tôn nghiêm mà thờ cúng, giữ nước giúp dân, có thờ nên có ban ơn vậy. Tốt thay. Lành thay… (phần lệ thờ và sắc mệnh không dịch)
Đền linh thiêng thờ Quảng Xung Linh Tế Đại vương ở xã Hữu Vĩnh, huyện Hoài An. Đền thượng đẳng thờ Quảng Bác Uyên Dung Đại vương ở xã Thịnh Đức, huyện Phú Xuyên. Đền thượng đẳng thờ Quảng Xuyên Linh Quang Đại vương ở xã Quảng Tái, huyện Sơn Minh. Đền thượng đẳng thờ Quảng Tế Linh Ứng Đại vương ở xã Bài Nhiễm, huyện Duy Tiên. Đền thượng đẳng thờ Quảng Hoá Cư Sĩ Đại vương ở xã Vĩnh Trung, huyện Thanh Trì.
Thần tích vạn Liên Ngạc, xã Liên Ngạc, tổng Phú Gia, huyện Từ Liêm, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông
Danh tiếng Hải Độc Long Vương lưu truyền từ xưa, mà dấu tích thiêng rạng tỏ từ triều Trần. Sự cũ ở phường Hoa Ngạc, nguyên ở bờ Bắc sông Từ Liêm, gọi là phường Võng La, thuộc huyện Yên Lãng, Sơn Tây. Bờ đối diện bên kia sông là ghềnh Thượng Bạc. Phường này quen lấy đánh cá làm nghề nghiệp sinh sống, có một mái đình ba gian dựng bằng gỗ lá cũ nát quay mặt ra phía sông để phụng thờ một vị thủy quan Hà bá. Trải qua tháng năm vào tháng ba năm Canh Tý một đêm có một ông lão trong phường mắc võng ở cuối ghềnh nằm uống rượu, ngủ thiếp đi mộng thấy một người, áo mũ đủ đầy, xưng rằng:
Ta là Hải Độc Bát Đại Long Vương. Nay đến đất này để cưới con gái ông Nghị. Nhà ngươi hãy mau cuốn sạch chỗ võng này, nếu không sẽ gặp họa đến đó.
Tối hôm đó mưa gió nhè nhẹ. Ông lão trong phường uống rượu chưa tỉnh, nằm mơ màng ngủ rất sâu. Bỗng sóng lớn trùng trùng nổi lên. Thuyền cá theo sóng dập dềnh trôi ra gần giữa sông. Ông lão trong cơn nguy cấp dập cầu:
Lão ngu dốt lỡ say rượu không có mắt, tự thấy vạn lần đáng chết. Cúi xin Long Vương tha thứ.
Đang lúc giữa đêm bỗng nhiên mưa gió rung động, người trong phường đều sợ hãi tỉnh dậy. Chỉ nghe tiếng ông lão kêu to, một tiếng Long Vương, hai tiếng Long Vương. Mọi người đều không biết Long Vương tên gọi cụ thể thế nào. Rồi dưới ánh sét chiếu sáng thấy một con cá lớn dài hơn trượng, nhảy lên ở giữa sông, vảy giáp chênh vênh, đầy sông như thấm phủ một màu trắng. Khi sóng gió ngừng lại, tức thì con cá lớn bỗng hóa thành một người áo mũ đầy đủ đứng trên mặt nước nói nghiêm khắc rằng:
Sông suối nơi nơi đều là quản hạt của ta. Lão này đã biết tội nên ban cho được sống trở về.
Ai ai cũng tận mắt thấy sự hiển linh như vậy, mới biết Long Vương là thủy thần, bèn cùng cất tiếng cầu xin:
Toàn phường kính mộ nhờ uy đức Long Vương mà già trẻ được an toàn. Nay sau xin được tạo tượng để phụng thờ, mong được xem xét cho thành việc để báo đức lớn này.
Chốc lát không thấy đâu nữa, sóng gió trở lại như xưa. Đến sáng hôm sau nghe truyền là đêm đó thủy thần đã lấy vợ là con gái ông Nghị ở xã Thượng Thụy, tên là Nhạc phi. Cả nhà 5 người cùng đưa tiễn đến đầu ghềnh thì dòng nước ở đó dẫn vào trong sông mà biến, không biết còn mất ra sao.
Trên đây là điềm thần như vậy. Năm đó, tháng Sáu tháng Bảy nước lũ dâng cao, đầu bãi Võng La bị lở. Sau ba tháng 10 phần lở hết 7-8. Nhân dân phiêu tán. Phường đó mới dời đến nơi bến sông xã Hoa Ngạc, nơi có bãi sông mới bồi để ở tại đó. Nơi đó gọi là phường Hoa Ngạc huyện Từ Liêm, phủ Quốc Oai. Từ đó trong đình kính cẩn phụng thờ chính vị là thần Hải Độc Bát Đại Long Vương, cùng phối thờ Hà Bá Thủy quan. Mỗi khi có việc cầu đảo đều rất linh ứng.
Xưa Trần Độ Tông ra Bắc cung xem đua thuyền bỗng gió lớn nổi lên bốn bề, thuyền đều nghiêng chìm. Vua vội sai trung quan quỳ hướng ra sông cầu đảo, xin Thủy thần hiển linh, nếu cứu vớt được các binh lính trong thuyền, Trẫm sẽ lập tức tặng thêm tên hiệu để báo đáp ơn thiêng. Cầu đảo chưa xong thì đã sóng yên gió lặng. Binh lính đều được cứu thoát không chịu cảnh chết đuối. Vua bèn tăng cấp cho thần sông. Hễ là xã dân nào có phụng thờ thủy thần đều được cho phong tặng sắc. Phong là Thượng đẳng Hộ quốc Hải Độc Bát Đại Long Vương.
Khi quân Minh chia đường hai đạo thủy quân đến xâm phạm, một đạo đóng ở sông Bạch Đằng, một đạo đóng ở bến Vạn Kiếp. Khi đó vua sai các quan chia nhau theo ven sông đi đến các miếu thần sông để đọc chỉ rằng:
Giặc Minh dám gây cảnh bạo ngược, người và thần cùng căm phẫn. Các vị thủy thần vốn có tiếng anh dị, sao để thuyền giặc đóng đầy sông như vậy? Nếu như có thể linh hiển lập kỳ tích đuổi quân giặc, khi thành công sẽ phong tặng thêm nhiều.
Bỗng một đêm vào cuối canh hai, gió lớn dồn mây, trời tối như mực, không trông thấy mặt người. Trong quân doanh thuyền giặc như có binh mã xông vào. Mọi người trong lòng đều phấn khích. Trần Quốc Tuấn, Phạm Ngũ Lão nhân đó mà hai cánh trước sau xông đến đánh. Quân Minh thua chạy, chết đuối quá nửa. Truyền rằng đêm qua trong các miếu thờ ở ven sông ngựa gỗ đều lấm bùn đất, đao gỗ đều có vết sứt như là đã có đánh trận vậy. Mới biết đó là thủy thần đã dẫn các âm linh đoạt hồn giặc, hiển giúp quân đội. Bèn sắc phong Thuận thiên Dực vận Hải Độc Trạc linh Thượng đẳng Hộ quốc Quảng nguyên Đại Long Vương.
Vua Thánh Tông triều Lê thân chinh đi đánh Chiêm Thành, thuyền rồng đi đến cửa biển Nhật Lệ. Vào lúc chính Ngọ, bỗng mây đen bốn bề kéo tới, gió lớn sóng cả ngất trời. Thuyền gần lật tới 4 lần. Bỗng trên không trung xuất hiện một vị đại nhân, mũ đen, áo đỏ, đai trắng, cưỡi mây mà tới. Đi đến đâu thì sóng gió lập tức dừng yên. Đêm đó vua mộng thấy một người tự xưng là Quảng Nguyên Long Vương, chức quản các nơi sông biển, nay thấy Vua dẫn quân đi viễn chinh nên đặc biệt đến để trợ giúp, quần áo người này giống như thấy lúc ban ngày. Từ đó ba quân vượt biển như đi trên đất bằng. Khi thắng lợi trở về bèn sắc phong là Thuỷ phủ Chí tôn Cam Lâm Hiển thánh Thượng đẳng Hộ quốc Quảng nguyên Đại Long Vương.
Bảo quốc Trấn linh Định bang Quốc Đô Thành hoàng Đại vương
Xét sách sử trong sách Giao Châu ký cùng với Báo cực truyện, vương vốn họ Tô tên Lịch, là quan lệnh Long Độ, ở làng Long Độ bên sông nhỏ, ba đời anh em nhường nhịn sống chung với nhau. Nhà Tấn cử làm chức Hiếu liêm, cắm cờ biểu dương trước cửa làng, nhân đó lấy tên Tô Lịch đặt cho thôn. Thời Đường Mục Tông, Trưởng khánh Trung đô hộ Lý Nguyên Gia thấy cửa Bắc thành Long Biên có dòng nước chảy ngược bèn tìm đất để dời phủ trị, tìm được đất đó. Khi chuẩn bị xây dựng doanh phủ bèn cho người dân cũ ở đó rót rượu thỉnh mệnh làm thần thành hoàng, lập đền phụng thờ. Đến đêm hiển linh báo với Nguyên Gia rằng:
Nhờ ơn sứ quân ủy thác cho tôi làm chủ thành. Nếu ngài có thể giáo hóa được cư dân trong thành cho hết lòng trung hiếu tiết nghĩa, thì mới tôi mới có thể nghe theo mệnh mà cùng ở được.
Nguyên Gia bằng lòng vâng theo. Đến khi Cao Vương xây La thành, nghe chuyện ấy cho tế lễ lập nơi thờ thần là Đô phủ Thành hoàng.
Khi Lý Thái Tổ dời đô, thần thường nhập mộng đến dập đầu bái mừng vạn tuế. Vua lấy làm lạ hỏi tính danh xưng thế nào. Thần tâu lại như trước. Vua cười nói:
Thần muốn giữ việc hương lửa trăm năm phải không?
Thần đáp rằng:
Chỉ mong cơ đồ đất nước được lâu dài muôn vạn năm, đâu chỉ là hương lửa trăm năm.
Vua hiểu ra, bèn sai quan Thái chúc đem rượu tế, phong thần làm Quốc đô Thăng Long Thành hoàng Đại vương, thường tôn là minh chủ. Năm đầu niên hiệu Trùng Hưng của bản triều sắc phong hai chữ Bảo quốc, năm thứ 4 tặng thêm hai chữ Trấn linh. Niên hiệu Hưng Long năm thứ 21 tặng thêm hai chữ Định bang để mà lưu truyền công thần trợ giúp.
Dịch theo thần tích xã Liễu Châu tổng Phú Xuyên huyện Tiên Phong tỉnh Sơn Tây.
Vào thời Hùng Vương thứ 18 vua Duệ Vương trị vì, đóng đô ở Việt Trì bên sông Bạch Hạc, lập nước Văn Lang, quốc đô là thành Phong Châu. Duệ Vương có hùng tài đại lược, tư chất thánh triết, trong sửa văn đức, ngoài phòng biên phương, dốc sức để hưng bình mà yên Trung Quốc. Than ôi, thế nước đến lúc cáo chung, cơ đồ họ Hùng vào lúc cuối. Vua tuy sinh nhiều hoàng tử nhưng đều theo nhau về với tổ tiên. Duệ Vương sinh được 20 hoàng tử, 6 công chúa, về sau chỉ còn hai vị nữ công chúa. Người thứ nhất là công chúa Tiên Dung, sau gả cho ông Chử Đồng Tử quê ở xã Đa Hòa, huyện Đông An, phủ Khoái Châu, xứ Sơn Nam. Còn người thứ hai là công chúa Ngọc Hoa, cung thiềm còn khóa, cành ngọc vẫn đóng, nhân duyên tốt lành còn chưa định kỳ. Vua muốn tìm người tài để gả, rồi sẽ nhường ngôi báu cho, bèn lập một tòa lầu ở cổng thành Việt Trì, đề là “lầu kén rể cầu hiền”, ban chiếu truyền đi trong thiên hạ ai là người anh tài đức độ, có thể nối được ngôi vị thì sẽ gả công chúa cho.
Ngày ấy có Tản Viên Sơn Tinh cùng với Động Đình Thủy Quân là hai tướng cùng thầy học cùng nhau đến thành dự thi. Vua xem thấy là kỳ tài bèn phán rằng:
Nay hai khanh đều là bậc anh hùng. Ánh trăng đèn sách chưa thể định được về tay ai. Ai có thể đem sính lễ đến trước thì Trẫm tất sẽ gả con gái cho.
Thế là Thủy Tinh trở về cung Động Đình, do cầu kỳ tìm vật lạ (nguyên có cuốn sách ước Sơn Tinh đã cầm giữ). Sơn Tinh đi thẳng ra dưới lầu, lấy ở trong túi ra, dùng sách thần mà ước. Bỗng thấy voi trắng chín ngà cùng các kỳ trân dị vật trong chốc lát đã đầy đủ hết. Sơn Tinh đến vâng nạp sính lễ trước. Vua bèn gọi Sơn Thánh đến gả con gái cho. Lễ cưới xong thì đón về động ở núi Tản Viên. Sau thấy Thủy Tinh đem sính lễ đến. Vua nói với Thủy Tinh rằng:
Sơn Tinh đã định đặt sính lễ, việc này theo như giao ước trước đây, hối hận cũng không kịp.
Thủy Tinh từ đó về sau oán hận, trở về tâu với Đế Quân, xin binh mã, thường tiến đánh Sơn Thánh, tích thù kết oán. Cho nên tới nay mỗi năm vào tháng 7 tháng 8 thường dâng nước đến đánh. Người dân ở dưới núi đều bị ngập lụt, mưa gió. Các nơi đều bị thiệt hại nặng, đều là do từ việc này mà ra vậy.
Lại nói, Duệ Vương từ khi có được rể hiền là Sơn Thánh thì hưởng nước thanh bình, nhàn du bốn biển, như con vua tiên ông nơi đất xưa quê lạ, sông núi Thần Phù, Yên Tử, cao thấp mặt trời hồng, đám mây trắng, trăng gió ở Hoa Quật, Long Biên, trên dưới non xanh nước biếc. Lúc thì dạo chơi trên sông tiểu hoành ngắm trăng, nhàn thưởng cái thú vị của người câu cá. Đi qua xã Đồng Bảng, huyện Ma Nghĩa mà xây dựng hành cung Bắc. Lại du xuân săn bắn, đi đến xã Tri Lai lại lập hành cung Tây. Đi qua các xã Vật Lại, Cổ Đằng bèn xây dựng hành cung Trung tại đó. Lại đi qua vùng đất huyện Phúc Lộc mà lập hành cung Nam ở Bể Cạn.
Đến xã Vân Già thì lập hành cung Đông. Một hôm (ngày mồng 3 tháng Giêng) thánh giá đi đến xã Liễu Châu phủ Tam Đái, có một ngôi đền thủy thần được người dân phụng thờ từ xưa (Miếu thủy thần này ở xã Liễu Châu đã được xây dựng từ thời Hùng Vương khi Lạc Long Quân sinh được một bầu trăm trứng, nở ra trăm người con trai, bèn phân làm trăm vương. Năm mươi người theo cha là Thủy thần. Năm mươi người theo mẹ là Sơn thần. Năm mươi vị Thủy thần này tùy đang còn tại thế nhưng được phong thần để bảo giữ các nơi. Do đó xã Liễu Châu thờ phụng ba vị như vậy, đều không có tên thần). Đến khi Duệ Vương và hai vị Tả Hữu kiên thần của Sơn Thánh đi qua ngôi đền (tức là đền Thủy thần được xã Liễu Châu phụng thờ), bèn hỏi người dân rằng:
Dân các ngươi ở đây thờ phụng đền nào vậy?
Người dân bèn tâu rằng:
Từ xưa tới nay tiểu dân ở đất này phụng thờ đền Thủy thần.
Vua cùng với Sơn Thánh nói với dân rằng:
Thủy thần ngày nay có thù với nước nhà. Dân các ngươi sao dám thờ vậy? Hôm tới sẽ sai binh sĩ cùng dân các ngươi trừ khứ ngôi đền này đi.
Dứt lời tới ban đêm bỗng thấy trên sông sóng dồn vạn nhẫn, khí mây đầy sông mù mịt nổi lên, dâng nước đập sóng, dẫn đến nơi cung đền. Một chiếc thuyền rồng bỗng nổi lên trên mặt nước. Lại thấy ba người đường đường từ trong thuyền đi tới, đâu đội mũ rồng rạng rỡ, mình mặc áo long bào, giáp lân. Phía trước có hai người ôm một bàn đầy vàng cùng với một thanh ngọc đem tới trước nhà vua. Ba người cùng dập đầu làm lễ. Duệ Vương hỏi rằng:
Chức danh các vị thế nào? Ở đâu đến đây?
Ba người tâu rằng:
Chúng thần vốn là quan của Thủy quốc. Nay thấy Thánh vương ngự giá đến nơi chúng thần quản trị nên Thủy quốc có tấc lòng đem đến yết diện Thánh vương làm lễ mừng. Xin được chiếu cố cho.
Duệ Vương lại phán rằng:
Thủy quốc từ khi xảy ra sự việc tranh hôn sai ước đến nay trong lòng chứa oán tích thù. Bất thường mà dẫn quân đến đánh Sơn Thánh. Ngày hôm nay sao lại có lòng với Trẫm như thế?
Thủy quan tâu rằng:
Hôn sự vốn là do Đông Long cung. Nguyên căn là do quan Long hầu gây việc ác, đem họa đến cá nước. Còn Thủy quốc cùng với Dương đình đều có oán. Vả lại việc vị quân đó phản lại nước đều chỉ là do người đó, lỗi này cũng do việc hôn nhân, không phải do chúng thần. Xin Bệ hạ xét tình đó vậy. Nay may mắn được gặp Bệ hạ đi đến địa phương nơi đóng của chúng thần, chúng thần cùng nhau lên tại đây. Tuy là núi sông không cùng, nhưng đều là từ một bầu trăm trứng tạo ra của Tiên hoàng đế (Lạc Long Quân sinh một bầu trăm trứng, nở ra trăm người con trai. Năm mươi người theo cha là Thủy thần. Năm mươi người theo mẹ là Sơn thần, tức là trăm vương). Tí Ngọ cùng chia, nhưng đều cùng chung một nguồn phân phái vậy. Đâu phải là người ngoài.
Vua nghe lời nói đó, hỏi Sơn Thánh rằng:
Lời nói này cũng có lý, cũng là người một nhà.
Sơn Thánh tâu rằng:
Việc này có thể giải quyết được. Lại có thể phong tặng thêm.
Dứt lời Sơn Thánh cho gọi đón ba vị thủy quan vào trong cung, cùng chầu hai bên nhà vua. Ngày hôm đó sai mổ trâu, mở yến hội lớn, ca hát hơn mười ngày. Mây mưa mù mịt, gió sấm nổi lên. Việc yến hội xong, ngày hôm đó (từ mùng 6 đến 15 tháng Giêng thì ngừng) ba vị thủy quan từ biệt, trở về Thủy quốc. Mưa gió ù ù mà lên. Bỗng thấy giữa sông có một tiếng sấm nổ, mưa gió đều yên tạnh.
Khi ấy Duệ Vương quay giá trở về thành. Còn Sơn Thánh cùng với Tả Hữu kiên thần vẫn đóng quân ở đất đó (tức là Liễu Châu). Đến đêm bỗng thấy gió lớn thổi đến, ở nơi đền Thủy thần có một cây lớn bị gãy. Sáng sớm nhân dân đến nơi xem, lại thấy có một con Giải nằm ở trên cành cây gãy đó. Nhân dân đến đánh đuổi đi thì tự nhiên biến mất. Từ đó nhân dân gặp nhiều bệnh tật. Dân bèn làm lễ tâu với Sơn Thánh. Sơn Thánh nói với dân rằng:
Tất là do Thủy quan tác quái.
Ngay hôm đó Sơn Thánh sai mổ trâu, truyền dân đến làm lễ. Sơn Thánh thỉnh rằng:
Thủy quốc, Dương đình đều cùng huyết mạch. Nhân dân ở đây đều là thần tử một nhà. Nay trót vô lễ, xin được tạ vậy.
Từ đó, nhân dân đều được yên ổn. Bèn sai sửa chữa đền miếu (tức đền Thủy thần). Khi công việc xong, Sơn Thánh nằm mộng thấy một người, mình mặc áo trắng, cưỡi một con ngựa trắng tiến thẳng vào sân mà bái. Sơn Thánh hỏi rằng:
Ở đâu đến đây? Danh chức như thế nào?
Người áo trắng trả lời rằng:
Vốn tôi là giang sứ, vâng mệnh Thủy quân đến tạ Thánh vương. Sau có một bài thơ sai thần mang đến, xin ngài hãy xem.
Thơ rằng:
Sơn thuỷ giai đồng hợp nhất nguyên
Hạnh phùng thánh giá vãng giang biên
Thuỷ cung đắc hội sơn tiên khách
Vạn cổ hưởng đồng nhất thốn tiên.
Dịch là:
Sông núi đều cùng hợp một dòng
May thời thánh giá đến bên sông
Thủy cung được hội sơn tiên khách
Vạn thế hưởng cùng một dải hồng.
Xem xong thì bỗng nhiên tỉnh lại, mới biết là mộng. Sơn Thánh lại truyền làm lễ tạ.
Việc xong, ngay hôm đó (tức mùng 6 tháng Hai), nhân dân làm lễ tạ Sơn Thành, đều xin được làm thần tử. Sơn Thánh đồng ý, bèn truyền cho Tả Hữu hai quan trị nhậm hai cung (một là cung Phú Thứ, một là cung Phong Nhẫm).
Một hôm Sơn Thánh lại đến xã Yên Tiết tổng Đường Xá huyện Yên lạc, lại đi qua Sơn Dương, Tam Dương, đi đến huyện Bình Tuyền xứ Thái Nguyên, bèn lập hành cung ở đất đó, gọi là cung Ngọc Lậu. Còn các địa phương mà đã đi qua sau này đều lập đền thờ phụng.
Lại nói, Sơn Thánh cùng với Tả Hữu kiên thần (tức Tả Hữu phán quan, vốn là người động Lăng Sương, cũng là cùng tông phái với Sơn Thánh. Người cha là Nguyễn Ban, mẹ là Tạ Thị Hoan, nằm mộng thấy hai ngôi sao bay lạc vào trong mồm mà nuốt đi, do đó sinh một bầu hai con. Đến tuổi trưởng thành cha mẹ đặt tên là Nguyễn Hiển, Nguyễn Sùng. Khi đó cùng với Sơn Thánh đi học với tiên sinh Lý Đường. Đang khi đi học Sơn Thánh cùng với hai ông đều rất thông minh. Sơn Thánh thường nói với hai ông rằng:
Ta nếu có được ngôi trời thì sẽ cho hai ông là phụ tá hai bên.
Về sau cha mẹ Sơn Thánh cùng với hai ông đều mất. Từ đó cùng không đi học nữa, thường lên núi Tản Viên đỉnh Ngọc Lĩnh. Tính cách cương cường dũng mãnh. Người người đều gọi là thiên thần giáng thế. Đến khi Sơn Thánh tạo thành nghiệp lớn, quản được núi thiêng Ngọc Tản thì cho hai ông làm Tả Hữu kiên thần, giữ gìn hai bên núi Tản, làm chủ quản chúng man các nơi động sở. Một người bái là Cao Sơn Đại vương, một người là Quý Minh Đại vương, lấy làm phù tá hai bên cho Sơn Thánh vậy) quay giá về triều. Đến mùa hè tháng Tư, Duệ Vương sai sứ thần ban thêm sắc chỉ về dân (tức xã Liễu Châu), phong thêm mỹ tự cùng với đền Thủy quan (tức ngày mùng 10 tháng Tư). Hôm đó dân ấp làm lễ ăn mừng. Khi ấy mưa gió nổi lên, bốn bề mù mịt bay thẳng đến nơi đền thờ. Người dân đều kinh sợ, phục xuống. Nước sông như vang như sấm, ba ngày thì dừng. Duệ Vương phong thêm mỹ tự là:
Phong Thủy phủ Phù Tang Châu Lâm Đại Long Quân
Phong Thủy phủ Vô Biên Trang Nghiêm Vân Hải Long Quân
Phong Thủy phủ Đại Thiên Long Chủ Bát Hải Long Vương.
Cả xã Liễu Châu đều thờ.
Lại nói, khi Duệ Vương tuổi thọ đã được trăm năm, đến năm Kỷ Mùi, Thục Vương nghe nói Duệ Vương sinh được 20 hoàng tử đều theo nhau về chốn tiên bồng, không có người nối dõi, nhân đó bèn khởi binh đến đánh để chiếm lấy nước. Duệ Vương lo lắng. Sơn Thánh tâu rằng:
Bệ hạ khoanh tay rủ áo mà trị thiên hạ, sao phải lo lắng. Như sự thế hiện nay, thần xin được thay công thánh giá, thần xin được tự tìm tướng tài cùng với ba vạn quân mạnh. Thiên hạ trong ít ngày sẽ được yên định vậy.
Vua đồng ý. Thế là Sơn Thánh dẫn hai vị kiên thần động Lăng Sương (tức là các vị phán quan Tả thánh và Hữu thánh, phụ giúp Sơn Thánh vậy). Lại cùng vị cao tăng người xã Vân NHưng huyện Lập Thạch tên là Điểu, phong làm Đô thống Điểu Sơn Đại Vương, cùng với trung quân là Thái phó Nghi Lĩnh hầu theo đường sông Lô mà ứng chiến. Khi việc bày bố đã định, Sơn Thánh bèn dẫn tướng sĩ bản bộ đến bái tạ. Ngay hôm đó tiến đến xã Vân Chương, trú tại đây. Đến đêm vào lúc giữa canh hai, Điểu Sơn tướng quân mộng thấy một người xưng là Đao Sơn tiểu thần, tự xin theo tòng chinh âm phù cho hoàng gia, bỗng nhiên kinh sợ mà tỉnh dậy, bèn đem mộng đó tâu với Sơn Thánh. Sơn Thánh sai mổ trâu để khao tế, cầu đảo bách thần âm phù cho thế nước, đến khi biên giới được dẹp yên tất sẽ tâu lên Vua mà phong tặng (về sau phong Sơn Thánh là Tản Viên Sơn Thánh Quốc Trụ Đại vương, phong Tả thánh là Tản Viên Sơn Tả Thánh Quốc chủ Phù Dực Đại vương, Hữu thánh là Cao Sơn Quốc chủ Quý Minh Đại vương, Điểu Sơn tướng quân là Điểu Sơn Đại vương, Đao Sơn thần là Đao Sơn Đại vương, còn những người khác cũng được phong thêm).
Từ hôm đó đại quân tiến thẳng đến quân Thục, dẫn quân mã của mình, chia quân đánh dẹp, thế như sấm sét, đánh một trận lớn, thu được dấu ấn của quân Thục. Sơn Thánh bèn cho viết một bức thư của Thục chúa gửi tướng Thục, báo rằng:
Nước Văn Lang có một thần tướng. Nay các ngươi vâng mệnh dẫn quân đến đánh nước người, thì chớ có khinh động. Hãy đợi đến khi có chiếu thư báo tới thì việc này mới định được.
Viết xong thì lấy dấu ấn của quân địch đóng vào thư, sai người mặc quần áo của quân địch (tức là vị cao tăng hóa hình), tư xưng là sứ giả Thục, cưỡi ngựa đến đồn chính, đưa thư cho tướng Thục. Tướng Thục từ khi nhận được thư bèn ra sức cố thủ, nếu nghe có biến cũng không kịp gửi thư báo gấp. Sơn Thánh bèn dẫn quân ngày đêm đi hơn năm ngàn dặm, thẳng đến thành đô Thục, đánh một trận lớn, bắt sống chính tướng quân địch cùng với tất cả binh mã. Ba nhánh quân thủy bộ tự nhiên phải lùi chạy. Thế là Sơn Thánh quay trở về khải hoàn, đuổi hết quân địch, binh mã về triều báo tin chiến thắng. Ngay hôm đó mà đi gấp, không kể ngày đêm mưa gió. Đại quân tiến đến địa phận xã Vĩnh Thái huyện Quảng Đức (sau đổi thành phường An Thái) thì ngừng nghỉ. Cho nên ngày sau ở đất đó nhân dân đều thờ phụng.
Lại nói, ngày hôm đó Duệ Vương nhường ngôi cho Sơn Thánh. Sơn Thánh cố từ chối không nhận, tâu với vua rằng:
Mười tám đời cơ đồ họ Hùng, lòng trời có hạn nên mới bày ra việc Thục Vương thừa cơ gây hấn với Trung Hoa. Vả lại Thục Vương vốn là bộ chủ Ai Lao, cũng là tông phái của Tiền hoàng đế. Thế nước tốt xấu đều do định trước. Vua sao vì yêu mến khung cảnh trời Nam mà chống lại đạo trời vậy? Tất đem đến thế cục chinh chiến chết chóc, hai đến sinh linh. Chi bằng hãy cho cầu hòa mới là bậc hiền quân vậy. Cho gọi Thục đến nhường ngôi, tất là Bệ hạ có đức của Thánh vương vậy.
Vua nói:
Lời của ông thật là thiện lành. Rất có lý, có lý. Trẫm sẽ nghe theo lời này.
Bèn cho gọi Thục Vương đến nhường ngôi. Khi đó ngày mùng 9 tháng Giêng năm Giáp Thìn, Thục An Dương Vương nhận cơ đồ họ Hùng, bèn lên ngôi nắm quyền chính thống. Việc xong Duệ Vương cùng với Sơn Thánh và Tả Hữu kiên thần (một quản Lãng Sơn, thuộc phía Đông là vai trái, một quản Nộn Sơn, thuộc phía Tây là vai phải), cùng với vị Cao tăng, công chúa Ngọc Hoa cùng ngày bay lên trời hóa sinh bất diệt, đi mây về gió, ra âm vào dương, hoặc cưỡi xe rồng, hoặc ngồi xe phượng, dạo chơi Lãng Uyển, Bồng Doanh, ngắm cảnh sông núi, thế tục, giữ nước giúp dân, thật có nhiều hiển ứng.
Khi đến trời thu ngày mùng 6 tháng Tám, nhân dân xã Liễu Châu bỗng thấy binh mã của hai ông trở về cung sở. Dân bèn làm lễ bái mừng. Hai ông nói với dân rằng:
Địa mạch dân nơi đây có biến bất thường, lại có nhiều nạn lũ lụt.
Bèn truyền nhân dân xây dựng ở hai bên sông hai cung (tức là hai đền ở thôn Thượng, Hạ) để trấn áp lũ lụt, để bảo vệ nếp sống thuần hậu cho dân. Dứt lời thì tự nhiên biến mất.
Lại nói, khi Thục Vượng trị vì, nhân dân thường gặp hạn nặng, hoa mày khô héo. Nhân dân đói khát, bèn cầu khấn bách thần giúp nước, cầu phong ở các đền thiêng có nhiều hiển ứng linh thông thì gia phong mỹ tự là Thượng đẳng phúc thần. Đến mùa đông ngày mùng 10 tháng Mười An Dương Vương lại phong thêm mỹ tự.
Phong Thuỷ phủ Phù Tang Châu Lâm Đại đế Động Đình Quân
Phong Thuỷ Phủ Vô Biên Trang nghiêm Vân Hải Động Đình Quân
Phong Cao Sơn Hữu thánh Quốc chủ Quý Minh đại vương
Phong Tản Viên Sơn Tả thánh Quốc chủ Đại vương.
Toàn xã Liễu Châu cùng phụng thờ. Đền thờ ba vị Thủy quan ở chỗ bãi dâu nằm ở giữa, cả xã cùng thờ. Còn hai đền thờ Tả Hữu của Sơn Thánh (một là nơi Đồng Bàn, một là ở nơi Bãi Di) do thôn Thượng, Hạ lập riêng để cúng tế, do các vị cùng sinh cùng hóa nên không phân ra tế cúng riêng được.
Lại nói, qua thời Đông Hán, Ngô, Tấn, Tống, Tề, Lương tổng cộng 340 năm cho tới khi nước Nam trải qua bốn họ Đinh, Lê, Lý Trần, Tiền Lê, Hậu Lê, Tiền Lý, Hậu Lý, khai mở cơ đồ, thường có công giúp nước cứu dân, nên đế vương các thời có phong thêm mỹ tự, vạn năm hưởng cúng tế, hương hỏa vô cùng (các triều Đinh, Lê, Lý, Trần truy phong mỹ tự).
Phong Thuỷ phủ Phù Tang Châu Lâm Đại đế Động Đình Quân
Phong Thuỷ Phủ Vô Biên Trang nghiêm Vân Hải Động Đình Quân
Phong Thuỷ phủ Đại Thiên Long chủ Bát Hải Long Vương
Phong Cao Sơn Hữu thánh Quốc chủ Quý Minh Đại vương
Phong Tản Viên Sơn Tả thánh Quốc chủ Đại vương.
Hai thôn xã Liễu Châu phụng thờ.
Các ngày sinh hóa, các tiết tiệc lệ cùng với chữ húy, màu sắc phục đều được khai như sau.
Ngày mùng 3 tháng Giêng là ngày các vị thánh vương đi đến xã nhà. Làm lễ bái mừng ở nơi thôn Thượng, bày lập ở sân ngoài nơi đền thờ (lợn đen mổ chia làm ba cỗ, gọi là cỗ sồng, rượu ngọt một vò lớn, lấy trúc trắng làm cần, ba cần cùng cắm vào vò rượu, bánh chay ba mâm, cơm ba nồi, xôi xanh và đỏ mỗi vị hai bát, ca hát một ngày đêm)
Ngày mùng 6 đến ngày 15 tháng Giêng là ngày chính lệ Sơn Thánh cùng các thủy thần hội yến du xuân (cỗ trâu, lợn đen, ca hát, đấu vật, các xã cùng đến phụ tế)
Ngày mùng 6 tháng Hai là chính lệ làm lễ bái tạ, hai đền đều cùng làm lễ (cỗ trâu, lợn đen, rượu ngọt, bánh trôi 30 viên, mâm chay các thứ).
Ngày mùng 10 tháng Tư là chính lệ khánh hạ khai sắc ba vị thủy quan, dân làm lễ (trâu trắng lấy da làm chả, trứng gà sống 3 quả đặt vào trong bồn nước cùng với rượu ngọt, ca hát, chèo thuyền 3 chiếc)
Ngày 12 tháng Năm là chính lệ ngày sinh hai thánh (lợn đen, rượu ngọt, cỗ trâu các thứ, ca hát). Hai đền Thượng Hạ, trái phải đều tế cùng ngày.
Ngày 15 tháng Bảy là ngày khánh hạ cả 3 đền (gà, lợn).
Ngày mùng 6 tháng Tám là ngày khánh hạ hai thánh Tả Hữu (lợn đen, xôi, rượu).
Ngày mùng 10 tháng Chín là chính lệ hóa thần của hai thánh Tả Hữu (cỗ trâu, lợn đen, rượu ngọt, mâm chay các thứ).
Ngày mùng 10 tháng Mười là ngày khánh hạ mở sắc đền Thủy thần (trâu trắng như kê ở trước, trứng gà, rượu ngọt, ca hát các thứ).
Các chữ húy Tang, Lâm, Trang, Hải, Long, Hiển, Sùng đều cấm dùng.
Lễ phục hai màu xanh và hồng cấm dùng.
Niên hiệu Hồng Phúc năm đầu mùa xuân ngày mùng 5 tháng Ba, Hàn lâm viện Đông các Đại học sĩ Nguyễn Bính vâng soạn.