Tên gọi của trống đồng, thạp đồng, bình đồng trong văn hóa Đông Sơn

Những vật dụng tiêu biểu của nền văn hóa đồ đồng Đông Sơn được biết là trống đồng, thạp đồng, bình đồng… Tuy nhiên, tên gọi những vật dụng này thực sự là gì ở thời kỳ trước Công nguyên thì có thể biết qua những dòng minh văn khắc ngay trên những hiện vật đó.

Theo TS. Nguyễn Việt, Trung tâm Tiền sử Đông Nam Á chiếc trống đồng tìm thấy ở thôn Trạch Bái, xã Hòa Lâm huyện Ứng Hòa có dòng chữ được đọc là: “Cửu Chân trọng lục quân, ngũ cân, bát lạng, danh viết Phú, đệ vị thập nhất“. Tạm dịch: “ trống Cửu Chân nặng sáu quân, năm cân, tám lạng, tên gọi là Phú, thứ bậc số mười một”. 

Tuy vậy, TS. Đinh Khắc Thuân, Viện nghiên cứu Hán Nôm, lại đọc 2 chữ đầu không phải là địa danh “Cửu Chân”, mà là “Kim nghiễn” 金甗, tức là cái nồi (chõ) đồng. Chiếc trống đồng Trạch Bái được gọi là “chõ đồng” rất có lý, vì trống đồng được biết có công dụng làm nồi để nấu ăn. Sau chữ Nghiễn còn chữ Nhất, nên dòng chữ trên trống đọc đầy đủ là: Kim nghiễn nhất trọng quân ngũ cân bát lạng, danh viết Phú, đệ vị thập nhất. Nghĩa là: Một chiếc chõ đồng nặng 6 quân 5 cân 8 lạng, tên là Phú, thứ 11.

Hai chữ đầu trong minh văn trên trống đồng Trạch Bái (ảnh TS. Nguyễn Việt)

Một hiện vật khác có minh văn nổi tiếng là trống đồng Cổ Loa. Dòng chữ trên trống đồng Cổ Loa được TS. Nguyễn Việt đọc là: “Việt tập (tứ thập) bát cổ, trọng lưỡng cá bách bát thập nhất cân”, Dịch nghĩa: Chiếc trống đồng thứ 48 của Việt tộc, nặng hai trăm tám mươi mốt cân. Chữ đầu tiên là chữ Vu 雩có thể dòng thông với chữ Việt 粵 trong Kim văn, nên cách hiểu như trên là có khả năng. Chữ Vu nguyên nghĩa như một từ đệm mở đầu câu, ở đây có thể hiểu tương đương với chữ Đệ, với nghĩa là “Thứ”. Nếu hiểu như vậy thì dòng chữ trên trống Cổ Loa có nghĩa là: Chiếc trống đồng thứ 48, nặng hai trăm tám mươi mốt cân.

Ở trường hợp trống Cổ Loa, minh văn gọi đúng đây là trống qua chữ Cổ 鼓 (hoặc Trú 壴, cũng có nghĩa tương đương là loại nhạc khí dạng trống).

Minh văn trên trống đồng Cổ Loa (ảnh TS. Nguyễn Việt)

Đối với thạp đồng, TS. Nguyễn Việt có giới thiệu một chiếc thạp thuộc Bảo tàng Barbier-Mueller (Geneva – Thuỵ Sĩ). Trên thạp có dòng 22 chữ, mà được TS. Nguyễn Việt đọc là “Long Xoang trọng lục hoành danh viết quả đệ vị ngũ thập nhị dung nhất trấp nhất đấu thất thăng bán thăng”. Dịch nghĩa: Thạp Long Xuyên, cân nặng sáu hoành, là đồ vật thứ 52, tên gọi là “Quả”, chứa được 21 đấu bảy thăng rưỡi. 

Tuy nhiên, chữ thứ 2 trong dòng chữ này có thể thấy rõ có bộ Kim 金, chỉ một vật đồ đồng, chứ không phải chữ Xoang 腔 mang bộ Nhục (thịt). Chữ thứ 2 này đúng ra phải đọc là Bàn 鎜, dạng khác của chữ Bàn 盤, nghĩa là cái chậu. Như vậy dòng chữ trên thạp này đọc là “Long bàn trọng...”, nghĩa là Chiếc chậu rồng nặng…”

Hai chữ đều trên thạp đồng ở Thụy Sĩ (ảnh TS. Nguyễn Việt)

Một chiếc thạp có chữ khác hiện được trưng bày ở bảo tàng Hoàng Long tại Thanh Hóa. Chữ trên chiếc thạp này còn có thể đọc được là: “Kim bàn nhất danh viết Trân, đệ ? vị” 金鎜一名曰鉁第?未, nghĩa là: “Một chiếc chậu tên gọi là Trân, chiếc thứ ?”. Tên gọi chiếc thạp này được khắc là Trân 鉁 bằng bộ Kim, chỉ đồ dùng bằng đồng. Chữ Trân này tương đương với chữ Trân 珍 bộ ngọc, chỉ đồ vật quý, khác là đồ vật này bằng kim loại. Ở chiếc thạp này cũng dùng chữ Bàn 鎜 như trong trường hợp chiếc thạp ở Thụy Sĩ.

Dòng chữ trên thạp đồng ở bảo tàng Hoàng Long, Thanh Hóa

Cuối cùng là chiếc bình đồng tìm thấy trong mộ Nghi Vệ, Bắc Ninh hiện đang trưng bày tại Bảo tàng Lịch sử quốc gia. Trên chiếc bình này có dòng chữ được TS. Nguyễn Việt đọc là: “Luy Lâu hồ dung nhất thạch danh viết vạn tuế đệ vị thập lục”, nghĩa là: Bình của Luy Lâu, chứa được một thạch, tên gọi là “Vạn Tuế”, là đồ vật thứ 16. 

Tuy nhiên, cũng tương tự như những vật đồ đồng trên, 2 chữ đầu của chiếc bình có bộ Kim 金 khá rõ. Vì thế hai chữ này phải đọc là Kim lũ 金鏤. Cả dòng chữ đọc thành “Kim lũ hồ…” tức là “Chiếc bình đồng có chạm khắc…”

Bình đồng Nghi Vệ và dòng chữ

Như vậy, trống đồng ngoài dùng là nhạc khí có tên gọi là Trống (hay Trú), còn được gọi là cái Chõ (Nghiễn). Thạp đồng còn gọi là cái Chậu (Bàn). Bình đồng gọi là Hồ, không khác ngôn ngữ ngày nay.

Trên các đồ đồng Đông Sơn người Việt đã sử dụng chữ tượng hình một cách thành thạo, gọi tên đồ vật, ghi lại danh xưng, trọng lượng, dung lượng, thứ tự của đồ vật. Có thể nói những chữ Kim văn trên đồ đồng này chính là chữ viết của người Việt khi đó, vốn được lưu truyền là chữ Khoa đẩu.

Công đồng Thủy phủ

Gương đồng dạng trùng liệt thần thú thời Tam Quốc tìm thấy ở di chỉ Óc Eo – Ba Thê.

Thoải phủ hay Thủy phủ trong địa lý văn hóa Việt ứng với hướng Đông, nơi có biển Đông (Động Đình) và đồng bằng sông Hồng (sông Đào). Cội nguồn của đạo Mẫu Tam Tứ phủ xuất phát từ khu vực này nên Thoải phủ đóng vai trò rất quan trọng trong thần điện của Tứ phủ. Xin điểm lại những vị thần chính được ghi chép và thờ phụng trong Động Đình Thoải phủ.

Các vị thần của Thủy phủ được kể đến từ những hướng ghi chép khác nhau. Huyền sử Việt như trong Truyện họ Hồng Bàng của Lĩnh Nam chích quái được lấy làm căn cứ chính. Truyền thuyết Trung Hoa về các vị thần thời cổ, đặc biệt là trong Đạo giáo, là một góc nhìn khác. Tín ngưỡng thờ cúng các vị thủy thần ở miền Bắc Việt và miền Trung (Nghệ An, Hà Tĩnh) cũng là những sắp xếp khác của 2 vùng đất cổ Hồng và Lạc từ thời lập quốc Hùng Vương. Cổ Lôi ngọc phả truyền thư, do Nguyễn tộc ở khu vực Thanh Oai lưu truyền lại là một cách kể, cách sắp xếp khác nữa. Nhưng tất cả đều là hình bóng của một giai đoạn lịch sử của người Việt đã theo cha Lạc Long Quân đi khai phá miền duyên hải.  

Động Đình Đế Quân

Khởi đầu của Thủy phủ Động Đình là từ Động Đình Đế Quân, người cha của mẫu Thần Long, được nhắc đến trong Truyện họ Hồng Bàng. Trong các di tích vị này được thờ với tên là Thủy phủ Phù Tang Cam Lâm Đại Đế, như ở làng An Nội, thôn Khương Thị, tổng Cổ Viễn, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam, hay ở đền Thanh Liệt và đền Nghĩa Sơn bên dòng sông Lam của huyện Hưng Nguyên, Nghệ An.

Ở khu vực kinh đô rồng của Thủy quốc Động Đình tại trên đất Thăng Long, Động Đình Đế Quân chính là thần Long Đỗ được  kể đã từng hiển linh trước Cao Biền trong Truyện thần chính khí Long Đỗ. Đền thờ thần là đền Bạch Mã, trấn Đông của thành Thăng Long. Chú ý là đền Bạch Mã thờ cả 2 vị thần là thần Long Đỗ và thần Tô Lịch (Bạch Mã), nên thần Long Đỗ không phải là thần Bạch Mã. Một nơi khác thờ 2 vị thần này là ở vạn Liên Ngạc ven sông Hồng trên vùng Từ Liêm, thờ Thủy phủ Chí tôn Long Vương và thần Tô Lịch. 

Cổ Lôi ngọc phả của Nguyễn tộc ở Bình Đà cũng cho biết cụ Long Đỗ Hải Vương trấn trị ở cửa sông Tô Lịch vùng Nghi Tàm, là cha của bà Đỗ Thị Ngoan, tức là mẫu Thần Long trong trong Truyện họ Hồng Bàng.

Trong truyền thuyết Trung Hoa thì Thủy phủ Phù Tang Cam Lâm Đại đế là Đông Vương Công hay Đông Hoa Đế quân, vị thần chủ các nam tu trong Đạo giáo. Trên gương đồng thời Đông Hán – Tam quốc thường có đúc hình Tây Vương Mẫu và Đông Vương Quân như hai vị thần chủ các vị thần tiên ở 2 hướng Đông Tây, cho các nam – nữ đạo nhân.

Thần Long Động Đình

Vị mẫu của Thoải phủ là bà Xích Lân Long Nữ, là con gái của Long Vương Động Đình, vợ của Kinh Dương Vương trong Truyện họ Hồng Bàng. Bà là người sinh ra Lạc Long Quân. Mẫu Thần Long đặc biệt có nhiều tên gọi trong các sự tích khác nhau như là Động Đình thánh mẫu Phan Cù Nương trong sự tích ở La Phù, Thanh Thủy, Phú Thọ, hay là bà Trang Hoa trong sự tích ở Đào Xá, Thanh Thủy, Phú Thọ, hay là Quý Nương sinh Hoàng xà trong sự tích ở Đào Động, Quỳnh Phụ, Thái Bình. Bà cũng là Đông Cuông Thánh mẫu ở Tuyên Quang, người sinh ra Linh Uyên Đại vương ở đền Ngọc Tháp, Lâm Thao, Phú Thọ. Bà là bà Diệu Đế trong sự tích Uy Linh Lang ở hồ Dâm Đàm. 

Trong sự tích về Tản Viên Sơn Thánh thì bà là con rắn Thủy Tinh, con của Động Đình Long Vương, đã được Sơn Thánh cứu sống bên bãi Trường Sa. Trong dòng sử Cổ Lôi ngọc phả thì đây là con gái của Long Đỗ Hải vương, tức là bà Đỗ Thị Ngoan, người được tôn là Sa Bà giáo chủ. Trong truyền thuyết Trung Hoa bà là Đồ Sơn Thị, người đã kết duyên cùng với vua Đại Vũ khi trị thủy.

Kinh Dương Vương

Một trong những vị vua của Thủy phủ chính là Kinh Dương Vương, được kể đến là vị Liễu Nghị. Di tích về Liễu Nghị cùng với Xích Lân Long Nữ còn dọc theo sông Hồng như ở Thanh Miện, Hải Dương, hay ở vùng Hà Nam, thậm chí còn vào tới Nghệ An như tại đền Nghĩa Sơn, Hưng Nguyên. Trong Hoa sử thì Kinh Dương Vương là vua Đại Vũ trị thủy ở Long Môn.

Với tư cách là cha của các vị Long hầu, Kinh Dương Vương được kể là Hùng Hải ở sự tích Đào Xá, Thanh Thủy, Phú Thọ, hay ông Đào Bột trong sự tích về Thổ Lệnh Trưởng Trung Thành Đại vương. Ở Nghệ An, có sự tích Kinh Dương Vương gặp Thần Long tại cửa biển Hội Thống. Ở vùng này Kinh Dương Vương được thờ là Mạch Sơn Trấn quốc, hay đơn giản là Mạc Sơn trong tên thần Cao Các Mạc Sơn.

Trong Cổ Lôi ngọc phả thì Kinh Dương Vương được gọi là cụ Nguyễn Minh Khiết, người đã ruồng bỏ bà Đỗ Thị Ngoan. Cụ Nguyễn Minh Khiết có 2 anh em nữa là Nguyễn Nghi Nhân và Nguyễn Long Cảnh. Đây là bộ ba Tam vị Tản Viên, được Cổ Lôi ngọc phả gọi thành Tam phủ Công đồng.

Cụ Nguyễn Long Cảnh tuy không phải đứng trong Thủy phủ Động Đình nhưng là người có liên quan mật thiết tới Thủy phủ vì đã theo giúp cháu đánh giặc. Trong tín ngưỡng Việt thì vị này được thờ là Lãng Nhạc Quý Minh, Hữu kiên thần của Tản Viên Sơn Thánh, người từng đi từ cửa Thần Phù lên đến bến Long Đỗ và hóa ở đó. Đền thờ Quý Minh ở Thăng Long là ở phường Đông Hà, huyện Thọ Xương dưới thời Lê là ngôi đền tham gia vào lễ tế Xuân ngưu.

Lạc Long Quân

Vua cha Bát Hải Động Đình, người đứng đầu thủy cung thì không ai khác là cha Lạc Long Quân mà người Việt coi là quốc tổ. Trong Tứ phủ Lạc Long Quân được gọi là vua cha Bát Hải Động Đình, xuất thế nơi biển Động Đình, đánh giặc Thục ở phía Tây, dựng nên nước Đào – Hoa – Hạ. Đền thờ chính là đền Đồng Bằng ở Quỳnh Phụ, Thái Bình. Trong Hoa sử thì đây là Hạ Khải, người mở đầu Hoa Hạ.

Ở vùng hồ Tây, Lạc Long Quân là thủy thần hồ Dâm Đàm, người đã cùng Lục bộ thủy phủ dâng nước diệt Cửu vĩ Hồ. Ở đây Lạc Long Quân được thờ với tên là Linh Lang hay Uy Linh Lang, cũng là vị thần rất phổ biến ở ven các dòng sông trên đồng bằng Bắc Bộ.

Trong Cổ Lôi ngọc phả Lạc Long Quân được gọi là Kinh Dương Vương Nguyễn Quảng, mà dẫn chứng cụ thể là bức giá tượng Lạc Long Quân ở đình Nội Bình Đà được ngọc phả này gọi là Kinh Dương Vương. 

Trong quan hệ với Động Đình Đế Quân (Long Đỗ) và Bột Hải Vương (Kinh Dương Vương) thì Lạc Long Quân được thờ là Hà Bá Thủy quan. Tục thờ Hà Bá Thủy quan gặp phổ biến ở Hà Nam như ở làng Hàn Mặc – tổng Cổ Viễn, làng An Cước, làng An Thái – tổng Ngô Xá, huyện Bình Lục, làng An Mông, tổng Đọi sơn, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam. Hà Bá Thủy quan còn gặp ở trong các đền thờ Thủy phủ ven sông Lam ở Nghệ An như đền Thanh Liệt, đền Nghĩa Sơn ở huyện Hưng Nguyên.

Ngũ vị tôn quan

Riêng Thoải phủ với vai trò lập quốc như vậy nên có thêm hàng các vị quan lớn, hợp thành ban Công đồng trong thần điện. Đây là những vị quan tướng đã theo vua cha Bát Hải làm cuộc “kháng chiến” đánh Thục và lập nên quốc gia lịch sử chính thức đầu tiên của người Việt là Hoa Hạ.

Trong số 5 vị thì đáng kể nhất là Quan lớn đệ Tam và Quan lớn đệ Ngũ. Quan đệ Tam là Trưởng Lệnh hay Thổ Lệnh (Thủ Lệnh), đứng đầu quan chức của Thoải phủ. Nơi hiển danh của ông là Lảnh giang hay Yên Lệnh (nơi yên nghỉ của Trưởng Lệnh). 

Quan lớn đệ Ngũ còn gọi là Quan tuần Tranh, có lẽ là người “thi hành công vụ” chính (nay ta gọi là hành pháp). Nơi hiển danh chính là ở sông Tranh (Hải Dương). Quan đệ Ngũ còn được gọi là Thạch Khanh trong sự tích các vị thần Tam Giang của ngã ba Bạch Hạc. Vị này nổi tiếng còn bởi nỗi oan khuất, bị đày lên sông Kỳ Cùng ở Lạng Sơn.

Sự tích các vị thủy quan sinh cùng một bọc, lớn lên được cử trấn nhậm các phương đầu sông góc biển có khá nhiều. Như đó là 5 vị Long Vương trong sự tích La Phù, Thanh Thủy, Phú Thọ. Hay Tam Công Long Vương trong sự tích Đào Xá, Thanh Thủy, Phú Thọ. Hay 5 vị Quảng Xung, Quảng Bác, Quảng Tế, Quảng Hóa, Quảng Xuyên ở vùng Ứng Hòa. Cũng là Tam Lang Long Vương thờ phổ biến ở vùng Hà Tĩnh.

5 vị tôn quan trấn trị 5 phương, được truyền thuyết Trung Hoa gọi là Ngũ đế Thiên hoàng hay Ngũ phương Yết đế. Hình tượng 5 vị này được thể hiện trên những chiếc gương dạng thức trùng liệt thần thú, gặp phổ biến dưới thời Tam quốc.

Cổ Lôi ngọc phả kể 8 người anh em họ Đỗ đi tu trở thành Bát bộ Kim cương, cũng chính là các vị tôn quan của Thoải phủ. Trong sự tích hồ Dâm Đàm thì đây là Lục bộ Thủy phủ của Lạc Long Quân hay Đoài hồ Thất Giáp theo Uy Linh Lang như ở đình Nhật Tân. Phía bên đường Thụy Khuê, là ven sông Tô Lịch trước đây thì các vị Lạc Long hầu là hai vị Cống Lễ và Cá Lễ ở đền Dực Thánh và đền Vệ Quốc.

Tuy không thuộc giai đoạn lập quốc vùng sông nước Động Đình, nhưng lại có liên quan đến thời kỳ này là những vị thần của dòng Lạc Long ở giai đoạn cuối của Kinh triều. Sử Việt gọi là Sùng Lãm (phân biệt khác với Lạc Long Quân ở giai đoạn đầu Kinh triều). Ở vị trí này thì Sùng Lãm là Tản Viên Nguyễn Tuấn. Cổ Lôi ngọc phả gọi là Hùng Lãm, là Pháp Lôi trong Tứ pháp. Trong Hoa sử đó là vị Bắc bá hầu của nhà Ân Thương, được biết dưới tên Sùng Hầu Hổ, đã chống lại cuộc tấn công của Tây bá hầu Cơ Xương, mà sử Việt gọi là giặc Thục. Những người anh em của Tản Viên Nguyễn Tuấn là Cao Sơn và Quý Minh, cũng là trong bộ Tứ pháp của Cổ Lôi ngọc phả. Phân biệt các vị Cao Sơn, Quý Minh họ Sùng ở đời Hùng Vương thứ 18 (đời cuối) với các vị Cao Sơn, Quý Minh trong bộ Tam vị Tản Viên thời lập quốc Kinh triều.

Câu ca dao xưa về dòng dõi Tiên Rồng xuất phát từ cái nôi Đào Hoa Hạ ở vùng Động Đình Thủy phủ:
Gió Động Đình mẹ ru con ngủ
Trăng Tiền Đường ấp ủ năm canh
Tiết trời thu lạnh lành lanh
Cỏ cây khóc hạ, hoa cành thương đông
Bống bồng bông, bống bồng bông
Võng Đào mẹ bế con Rồng cháu Tiên.

Về vị thần Trung Thành Phổ Tế Đại vương – Thổ Lệnh Thống quốc Lạc Long hầu, Nam long Trưởng lệnh, quyền đảm Trung Hoa tể quốc

Trung Thành Phổ Tế Đại vương là một vị thần được thờ ở nhiều nơi, rộng khắp dọc theo sông Hồng. Thống kê trong hệ thống bản khai thần tích thần sắc các làng năm 1938 thì có 96 nơi thờ Trung Thành Đại vương, tập trung nhất là ở Hà Đông cũ (chủ yếu ở Thường Tín, Phú Xuyên) gồm 37 nơi, Hà Nam 14 nơi (chủ yếu ở Duy Tiên), Hưng Yên 11 nơi (Kim Động), Kiến An (An Dương, Hải Phòng nay) 11 nơi, Sơn Tây 6 nơi (Quốc Oai và Phúc Thọ, nay thuộc Hà Nội), Phú Thọ 2 nơi (Việt Trì), Vĩnh Yên và Bắc Ninh mỗi chỗ 4 nơi. Đây chắc chắn là thống kê còn chưa đầy đủ, số lượng các nơi thờ Trung Thành Đại vương như vậy lên tới hàng trăm chỗ.
Sự tích về Trung Thành Đại vương có thể tóm tắt như sau. Vào đời Hùng Duệ Vương, có ông bộ trưởng Hải Dương là họ Đào tên Bột, lấy vợ thứ, sinh một bầu năm trứng, nở ra 5 người con trai, đặt tên là Cự, Hồng, Trưởng, Thạch Khanh, Quý Lân. 5 người con có hình dung tướng mạo kỳ dị, tính ưa chơi đùa dưới nước, khi trưởng thành sớm có kỳ tài dị thuật. Khi vua Hùng mở trường thi tuyển hiền, 5 người ra ứng thí, được nhà vua phong chức trong, phụ trách 5 phương. Các ông nhận nơi trị nhậm, an yên dân chúng ở đó, mưa nắng thuận hòa, mùa màng tươi tốt. Khi đất nước có quân Thục đến đánh, các ông cùng với Tản Viên Sơn Thánh dẫn quân chống giặc. 3 vị Cự, Hồng, Quý hóa sớm. Ông Trưởng được thăng chức là Thổ Lệnh Trưởng, cầm đầu thủy quân, phá tan giặc. Rồi ông lại đánh giặc Hồng Châu, chém đầu tướng giặc. Sau ông được phong là chưởng quản thuyền rồng, là Trung Hoa tể quốc, đi tuần hành khắp dọc các sông. Ông xây dựng cung thứ nhất ở ngã ba Bạch Hạc, cung thứ hai ở ngã ba sông Lương giang, và nhiều hành cung các nơi khác. Sau này ông hóa ở cung Tông Chất (tức Đa Chất ở Lương giang), được tôn thờ là Trung Thành Phổ Tế Đại vương. Đến đời Đường Vĩnh Huy, đô đốc Giao Châu là Lý Thường Minh có gặp các ông hiển ứng ở quán Tam Thanh tại ngã ba Bạch Hạc. Khi đó hai ông Thổ Lệnh và Thạch Khanh thi đấu tài nghệ. Ông Thạch Khanh lấy sức nhảy qua bờ bên kia sông thì đã thấy ông Thổ Lệnh ở đó trước. Thế là Lý Thường Minh cho tạc tượng hai ông để thờ trong quán Tam Thanh bên bến Việt Trì. Truyện này được chép trong Lĩnh Nam chích quáiViệt điện u linh.

Bài vị Trung Thành Phổ Tế Đại vương ở đình Đồng Văn, Hà Nam.

Phân tích so sánh sự tích về Trung Thành Thổ Lệnh Trưởng có thể thấy:

  1. Ông bộ trưởng Đào Bột: tương tự sự tích Hùng Hải Công ở Đào Xá, Phú Thọ, sau làm bộ trưởng Hải Dương, có tên là Hải Vân Long Vương Động Đình Thủy Đế. Đây cũng là Kinh Dương Vương, với góc nhìn từ Thủy phủ Động Đình.
  2. Nhất bào ngũ tử: Trước khi sinh bà phu nhân của ông bộ trưởng từng gặp điềm 5 quả trứng trên mặt nước trôi đến, vỡ chảy thành nước thấm quanh người, từ đó mang thai sinh ra một bọc 5 trứng. Nở ra 5 người con có hình dáng kỳ dị như thủy thần xuất thế. Sự tích này tương tự việc bà Trang Hoa sinh Tam Công Long Vương ở Đào Xá, Thanh Thủy, Phú Thọ. Cũng giống chuyện bà Phan Cù Nương sinh ba con rắn ở Thanh Thủy, Phú Thọ, hay chuyện Quý Nương sinh 3 con Hoàng xà ở đền Đồng Bằng, Quỳnh Phụ, Thái Bình. Cũng giống như sự tích 5 anh em cùng bọc Quảng Bác, Quảng Xung, Quảng Xuyên, Quảng Tế, Quảng Hóa ở khu vực Duy Tiên – Cầu Giẽ – Chương Mỹ, hay chuyện Tam Lang Long Vương ở Hà Tĩnh, và nhiều nơi khác, với cốt truyện chung là sinh bọc trứng nở ra 2, 3 hay 5 người con hình dáng như rồng rắn, là thủy thần xuất thế.
  3. Những người con khi trưởng thành được cử đi trấn nhậm các xứ đầu sông góc biển. Ngọc phả làng Phú Nhiêu (Phú Xuyên, Hà Nội) chép:
    • Ông thứ nhất làm chủ tể quận thành Hải Dương, đóng ở ngã ba sông Hồng
    • Ông thứ hai làm chủ tể đạo Sơn Tây ở ngã ba hợp lưu của sông Lâm Thao, sông Đà, sông Chiểu, tục gọi là ghềnh Ba Chậu (Triệu).
    • Ông thứ ba là ông Trưởng là chủ tể quận thành Sơn Nam, đóng tại đất trang Tông Chất, huyện Phù Vân, phủ Thường Tín. Cung điện dựng ngự ở nơi trán rồng chỗ ba sông Lương, sông Du, sông Tô hợp lưu.
    • Ông thứ tư là ông Quý xây thành và cung điện ở thành Kinh Bắc, ngã ba sông Vũ, sông Cẩm, cung đóng ngự ở thế chính đầu vùng đất chim loan.
    • Ông thứ năm xây thành ở Nam Chân, quận Giao Chỉ, ngã ba sông Vạn và cửa biển, cung ngự đóng ở chính cục đầu con lân.

    Một trong những nơi các ông trấn nhậm là ghềnh Ba Triệu ở chỗ hợp lưu của sông Đà, sông Thao, chính là khu vực Thanh Thủy, nơi có sự tích các vị thủy thần trấn nhậm trong thần tích Đào Xá hay thần tích La Phù.
  4. Ngũ vị tôn quan: Sự tương đồng trong sự tích về sinh một bầu nở ra nhiều người con và đặc biệt là sự trùng khớp về nơi hiển linh của vị thứ ba Trung Thành Thổ Lệnh Trưởng ở Đa Chất (Duy Xuyên) với Quan lớn Đệ tam Thoải phủ ở đền Lảnh (Yên Lệnh) cho thấy 5 anh em trong sự tích Trung Thành Đại vương cũng là Ngũ vị tôn quan của Tứ phủ.
  5. Trung Quốc Hoa Hạ: Triều đại của ngũ vị long hầu này là thời Lạc Vương, như ngọc phả Phú Nhiêu có gọi Thổ Lệnh Trưởng là Lạc Long hầu. Đây cũng là thời kỳ mở đầu của nhà Hạ của Trung Hoa, được nhắc tới trong họ Đào của ông bộ trưởng Hải Dương vì Đào là màu đỏ, cũng tương ứng với Hoa Hạ. Thổ Lệnh Trưởng còn được phong chức là Trung Hoa tể quốc, càng cho thấy rõ điều này.
  6. Giặc Thục ở Hồng Châu: 5 vị long hầu thủy quốc thường được chép là đánh giặc Thục và/hoặc đánh giặc Hồng Châu. Đây là cuộc chiến lập quốc của nhà Hạ, khi Lạc Long Quân (tức Hạ Khải) đã đánh đuổi chính dòng của Đế Nghi và Đế Lai, dành lấy quyền cai quản Thiên hạ Trung Hoa khi đó. Đế Nghi vốn đóng đô ở đất Hồng Lĩnh nên dòng tộc này được truyền thuyết gọi thành giặc Hồng Châu. Đế Lai bị đánh đuổi phải bỏ chạy về phía Tây lên núi, nên được gọi là dòng Thục (Thục nghĩa là phía Tây).
  7. Ngũ đế thiên hoàng: 5 người con trấn nhậm 5 phương Đông Tây Nam Bắc, là các Long Vương của những khu vực này. Ngọc phả đình Tri Thủy (Phú Xuyên) chép:
    • Người thứ nhất là Đông Long Thái sư
    • Người thứ hai là Tây Long Thái phó hầu
    • Người thứ ba là Nam Long Trưởng lệnh hầu
    • Người thứ tư là Bắc Long Thái bảo hầu
    • Người thứ năm là Trung Long Thiếu quý hầu.

    5 vị Long hầu ở đây tương ứng với Ngũ đế thiên hoàng trong Đạo giáo Trung Hoa, theo Lão Tử trung kinh:
    • Thần phương Đông tên là Câu Mang Tử, hiệu là Văn Thuỷ Hồng Nhai Tiên Sinh, là Đông phương Thương đế, Đông Hải quân;
    • Thần phương Nam tên là Chúc Dung Tử, hiệu là Xích Tinh Thành Tử, là Nam phương Xích đế, Nam Hải quân;
    • Thần phương Tây phương tên là Nhục Thu Tử, hiệu là Hạ Lý Hoàng Công; là Tây phương Bạch đế, Tây Hải quân;
    • Thần phương Bắc tên là Ngu Cường Tử, hiệu là Huyền Minh Tử Xương, là Bắc phương Hắc đế, Bắc Hải quân.
    • Thần Trung ương tên là Hoàng Thường Tử, hiệu là Hoàng Thần Bành Tổ, là Trung ương Hoàng đế quân.

    Tứ hải Long Vương (Đông Hải, Tây Hải, Bắc Hải, Nam Hải) như vậy thực ra không phải là 4 vùng biển, mà là 4 khu vực sông nước ở thời kỳ lập quốc, chia theo 4 phương.
  8. Truyện Thổ Lệnh và Thạch Khanh hiển linh và được thờ ở quán Tam Thanh bên bến Việt Trì cho thấy rõ 2 vị này là các thủy thần trấn phương của Đạo giáo. Điều này càng xác chứng rằng việc khắc đúc Ngũ đế thiên hoàng lên những chiếc gương đồng thời kỳ Đông Hán – Tam Quốc, khi Đạo giáo trở thành một tôn giáo chính thống ở phương Đông.
  9. Ngũ phương yết đế: Theo tư liệu về đền thờ Sát Hải Đại vương ở xã Diễn Vạn, huyện Diễn Châu, Nghệ An, nơi đây trong lễ thả thuyền rồng (lễ tống long chu) hàng năm vào ngày 15 tháng Ba âm lịch, pháp sư mở đầu khi nhập đàn đọc chú:
    • Phụng thỉnh Đông phương Thanh đế Thanh Long Vương hàm phù chân khí ngộ nhập thủy trung;
    • Phụng thỉnh Tây phương Bạch đế Bạch Long Vương hàm phù chân khí ngộ nhập thủy trung;
    • Phụng thỉnh Nam phương Xích đế Nam Long Vương hàm phù chân khí ngộ nhập thủy trung;
    • Phụng thỉnh Bắc phương Hắc đế Hắc Long Vương hàm phù chân khí ngộ nhập thủy trung;
    • Phụng thỉnh Trung ương Hoàng đế Hoàng Long Vương hàm phù chân khí ngộ nhập thủy trung.

    Có thể thấy, tục thỉnh Ngũ phương yết đế vẫn còn lưu lại được trong lễ tế ở miền Trung. Ngũ phương Long Vương ở đây chính là Ngũ vị tôn quan của Thoải phủ hay 5 anh em trong câu chuyện về Trung Thành Thổ Lệnh Trưởng.

Khởi đầu từ Lạc Long Quân mở Hoa Hạ, thiên hạ lúc này được phân chia thành 5 phương Đông Tây Nam Bắc và Trung ương. Mỗi một phương do một vị hầu tước cai quản. Cách thức chia thiên hạ này còn kéo dài mãi đến cuối thời nhà Ân Thương, khi đó Cơ Xương là Tây Bá hầu phụ trách miền Tây (Tây Kỳ) và Sùng Hổ là Bắc Bá hầu, phụ trách phương Bắc xưa (tức phương Nam nay). Sự tích về Trung Thành Phổ Tế Đại vương như vậy thực sự là một bản tóm lược lịch sử của thời kỳ theo cha xuống biển, khai mở vùng sông nước ven biển Đông.

Miếu Phú Nhiêu ở Phú Xuyên, Hà Nội.

Ngọc phả Trung Thành Phổ Tế Đại vương ở thôn Phú Nhiêu, xã Bất Nạo, tổng Lương Xá, huyện Phú Xuyên, tỉnh Hà Đông

Ngọc phả Long hầu bộ Thủy Thượng đẳng Trung Thành Phổ Tế Đại vương, là công thần triều Hùng Duệ Vương họ Việt Thường

Chính bản bộ Lễ quốc triều

Xưa nước Việt ta tương truyền triều Kinh 18 nhánh, truyền đến Hùng Duệ Vương tại ngôi, đóng đô ở Việt Trì bên sông Bạch Hạc, lập nước tên Văn Lang, kinh đô là thành Phong Châu. Duệ Vương có lòng nhân đức như trời, có trí tuệ như thần, rủ áo khoanh tay, lấy việc chăm lo cho nhân dân làm gốc. Đương thời khắp nơi đều gọi là bậc vua hiền.

Đang khi đó ở đất Ái Châu, phủ Kinh Môn, huyện An Lão, châu Cửu Giang có một gia tộc danh tiếng họ Đào, tên là Bột, lấy vợ người trong huyện tên là Phạm Thị Hương. Gia tộc ông Bột kế truyền là dòng dõi quan lại, có nề nếp thơ văn lễ nhạc, lấy việc nhân nghĩa làm gốc. Khi ông Bột ở tuổi 16 đã có trí dũng hơn người, tài năng vượt trội, tinh thông văn võ, ra đi thi ứng tuyển được nêu danh. Vua cho làm chức Thiếu phó, bổ nhiệm là Bộ trưởng Hoan Châu.

Nhận chức được 5-6 năm, trong châu đều yên bình, giàu đủ. Vua lại gọi về triều, thăng chức làm Hình tào Thượng thư. Về sau dẹp được giặc ở Hải Dương, một trận quét sạch, Vua bổ nhiệm làm Bộ trưởng Hải Dương, chủ trị một vùng. Chẳng may bà chính phi mất sớm. Ông lại lấy con gái của huyện lệnh huyện Kim Bảng phủ Lỵ Nhân bộ Giao Chỉ tên là Nguyễn Hương, lập làm Đệ nhị phi nhân. Bà tuổi 19, có đức hạnh kiêm toàn, đẹp người đẹp nết, má phấn môi hồng, mày ngài mắt phượng, thân tự tỏa ra mùi hương thơm, nhan sắc tuyệt trần, thế gian không ai sánh. Từ khi ông bộ trưởng Bột lấy về, loan phượng cùng xứng đôi, cầm sắt giao duyên, uyên ương tình nồng mặn mà, cầm sắt hòa thanh ý tốt. Qua 3-4 năm càng thêm hòa hợp ân ái.

Lại nói, khi ông Bột nhận chức bộ trưởng Hải Dương, cả quận được thanh bình, giàu đủ. Một hôm bỗng nhiên mặt biển không có sóng mà nước dâng ngập khắp thành. Khi đó, ông Bột cùng Đệ nhị phi nhân đi tránh nước lụt bèn lên trên đài cao mà ngồi, dựa vào lan can trên lầu. Lúc ấy, bà phi ngoái nhìn ra dòng nước sông chảy, ngắm cảnh trăng trong nước biếc. Đang khi ngắm cảnh bỗng thấy trên dòng nước có 5 quả trứng nổi lên giữa dòng, trôi thẳng đến trước mặt bà phi.

Năm quả trứng tỏa sáng huy hoàng một vùng mặt nước, trôi đến dưới bên đài gác. Bà phi thấy vậy lấy làm lạ. Ông bộ trưởng cũng quay ra xem, rồi chỉ vào đó nói với bà phi rằng:

  • Đây tất là châu báu dưới biển mà Long quân đem đến cho ta. Phi nhân hãy vớt châu lên xem thử trứng đó như thế nào.

Bà phi bèn vâng mệnh vớt trứng lên xem, được một ổ 5 quả trứng đều sáng rực rỡ như ngọc trắng. Ông bộ trưởng thấy vậy lại nói với bà phi rằng:

  • Đúng là vật lạ quý báu của trời ban.

Liền nói với bà phi thu đem cho vào trong áo để cất giữ. Bỗng nhiên trứng tự nhiên vỡ ra, tiếng vang như sấm, chảy thành nước cả, mùi thơm ngào ngạt. Bộ trưởng và bà phi lấy làm kinh sợ sự việc quái lạ dị thường. Đến khi nước rút đi, bộ trưởng cùng phu nhân đi xuống gác về cung, nghĩ lại sự quái dị của mấy quả trứng, bèn lập đàn cầu đảo trời đất trăm thần để xua đuổi điềm trứng quái. Nửa đêm hôm đó ông bộ trưởng nằm mộng thấy giữa trời có một đám mây bay năm màu. Xem kỹ lại thấy có một mặt rồng, hai mắt rất sáng và to, đôi râu rồng dài trắng, miệng ngậm một dải gấm hồng, dài thả thẳng xuống mặt đất. Ông bèn xem dải gấm đó, thấy có viết bốn câu thơ rằng:

Phó hứa Đào gia ngũ noãn [thần]
Nhất bào cụ xuất ngũ long quân
Thiên tài cộng giáng phù gia quốc
Phúc triệu hà nghi hữu quái vân.

Nghĩa là:

Trao gửi họ Đào năm trứng thần
Một bầu sẽ nở năm Long quân
Thiên tài giúp nước đều cùng giáng
Là phúc không sai, chớ ngỡ ngần.

Vị chủ công đọc xong, dải gấm bỗng nhiên rơi xuống phủ quấn ba vòng lên người ông. Vị chủ công bỗng tỉnh lại, biết là điềm trong mộng. Từ đó phu nhân bỗng có thai. Đến năm Đinh Mão ngày 12 tháng Hai sinh được một bầu, nở ra năm người con trai, đều thực là có diện mạo đẹp đẽ kỳ lạ, thân hình cao lớn, ở trên lưng đều có một hàng vảy cá chạy tới hậu môn hình 28 vì tinh tú, đều là vảy màu đỏ. Vị thứ nhất trên đầu hai bên đều có mọc thịt sừng, hình như quả trứng gà. Vị thứ hai ở dưới chân có 10 cái vảy, đầu dài và hình giống như vuốt rồng, màu như đầu ngọc. Vị thứ ba tay dài quá gối, mặt rộng tai to, sáng như mặt trời hồng mới mọc, mắt phượng mày ngài, mũi rồng hàm én. Vị thứ tư tóc như lông lân, hình xoắn ốc lên phía trên. Vị thứ năm mũi rồng hàm én, mắt tròn sáng như sư tử. Cả năm người đều khác xa người thường, thế gian hiếm có.

Đang khi sinh trời đất mù mịt, mưa to gió lớn nổi lên, sấm sét ầm ầm, nước sông dâng lên tràn vào cửa nhà, rắn vào đầy sân. Người người không dám ở đó, đều sợ hãi trộm nhìn. Đến khi sinh được trăm ngày ông bộ trưởng bèn đặt tên cho năm người con tài tử. Ông thứ nhất là ông Cự. Ông thứ hai là ông Hồng. Ông thứ ba là ông Trưởng. Ông thứ tư là ông Thạch Khanh. Ông thứ năm là ông Quý Lân.

Nuôi dưỡng lớn lên tới lúc 7 tuổi, khi đó các ông đều có khí chất vốn kỳ lạ, khác hẳn người thường. Đức tính khoan dung đại lượng, trí dũng hơn người, tư chất chính trực, trung hòa, thông minh kỳ dị, tài cao vượt thế. Khi đi du hành ở ngoài đường trên đều có một đám mây hình tròn, che trên đầu, bốn phía hào quang sáng rạng rực rỡ, một vùng trong mát. Thân hình tựa rồng kỳ quái. Người đời thấy đều sợ hãi.

 Đến năm 15 tuổi các ông văn võ kiêm toàn, có thuật lạ của thánh thần, sức có thể nâng đỉnh, lực có thể bạt núi, tính lại rất ưa nước. Anh em thường ra chơi ngoài bến sông. Ngày thường tắm ở nơi bến nước. Thường đứng trên đầu sóng, đi trên mặt nước như bay, qua sông như giẫm trên mặt đất. Hoặc có lúc lặn ẩn dưới đáy sông, đến cuối ngày vẫn chưa lên. Những hôm như thế tất thiên hạ có mưa to gió lớn nổi lên mù mịt.  Một tháng vài lần chơi mát như thế. Nhân dân xem xét thấy đều cùng kinh hồn lạc phách, đều gọi là năm thánh giáng trần. Khi đó, ông bộ trưởng đã biết năm người con đúng là mệnh thủy thần khác thường, nhưng không dám tiết lộ cho người trong triều đình biết.

Đến khi lên 16 tuổi, bà phu nhân qua đời (tức là ngày mùng 10 tháng 2). Ông bộ trưởng cùng với năm vị làm lễ chôn cất. Lại nói, khi đó thiên hạ gặp nạn hạn hán, khô cháy cây cỏ trong ba bốn năm liền. Nhân dân trong thiên hạ đều bị đói khát, nhiều bệnh tật. Lại sinh ra trộm cướp. Vua trong lòng thương xót sinh linh, bèn mở trường để tuyển người hiền lương chính trực, có hiếu đễ, anh tài, có học vấn uyên bác, văn võ kiêm toàn, có tài đức để có thể giữ nước yên dân. Hịch truyền đi thiên hạ có ai như vậy thì lên kinh vào đình dự thi.

Do đó, năm ông nghe hịch, trong lòng rất vui mừng, bèn đến bái hỏi cha là ông bộ trưởng cho lên kinh dự thi. Ông bộ trưởng đồng ý. Khi đó năm ông đi đường thủy lên đến kinh thành. Lúc ấy vua Duệ Vương đêm nằm mộng thấy có một người to cao 9 thước đường đường, áo mũ rực rỡ, đai giáp huy hoàng, lại dẫn năm con rồng tiến thẳng đến trước mặt gặp vua. Vua bèn hỏi:

  • Ngài ở đâu đến? Sao lại có năm con rồng dẫn đến cho trẫm?

Người đó nói:

  • Vâng mệnh Hoàng thiên là quyền Thiên tào đại sứ, truyền đem năm rồng giáng thế, dẫn đến cho vua để đảm nhận việc nước. Lại đem đến một chương thơ của trời cho vua mở xem.

Vua nghe vậy bèn nghiêng thân làm lễ, vâng nhận thiên chương, mở ra xem thấy có một bài thơ nhỏ rằng:

Ngũ long phó giáng hứa thần quân
Hữu thị quân phân hữu thị thần
Huynh đệ nhất bào Đào thị xuất
Khả phù ư quốc, tế ư dân.

Nghĩa là:

Năm rồng đem đến giao vua đây
Thực là vua sáng, bề tôi này
Họ Đào cùng bọc anh em đó
Trợ nước giúp dân, đã có ngày.

Vua đọc xong bỗng nhiên tỉnh lại, biết là điềm trong mộng báo ứng, bèn mở trường thi để xem có người tài trong thiên hạ. Khi đó anh em năm vị đến vào trường thi, đều đúng là bậc văn võ thánh thần, tài năng kỳ lạ. Trong trường mây khói mù mịt, gió mát khí lành. Anh tài trong thiên hạ, cùng một trường các sĩ tử đều tôn nhường sợ hãi vậy.

Khi đó anh em cùng lọt vào khoa bảng, vào yết kiết sân rông gặp vua. Vua thấy năm ông diện mạo đường đường, khác lạ so với người thường, đúng là hình ảnh của long hầu, dung nhan của thủy quốc. Vua mừng thầm, nói rằng:

  • Ngày hôm nay vua tôi mới gặp gỡ lần đầu, nhưng trời đã có báo trẫm giao phó cho năm khanh. Nay quả được năm rồng, tất nước nhà sẽ không có tai họa nữa.

Ngày hôm đó vua mở tiệc, lập đàn cầu đảo tế trời đất trăm thần. Vua đứng trước đàn. Năm ông cùng đứng chầu ở dưới. Hai bên trăm quan cùng làm lễ. Vua khấn rằng:

  • Phục trông Hoàng thiên Hậu thổ, các vị bách thần tinh túc cùng đến giáng đàn chứng giám. Trẫm trong mông thấy năm rồng được Hoàng thiên ban xuống để giữ nước giúp dân. Nay lại được năm người con họ Đào, đúng được hiển hiện năm rồng mà Thiên đình đã giáng mệnh. Dám xin Hoàng thiên báo ứng tại đàn.

Bỗng nhiên thấy mây gió nổi lên giáng xuống giữa đàn như được sự chứng giám, tỏ rõ sự hiển ứng của Hoàng thiên. Vua khấn xong trong giây lát bỗng trời đất mù mịt, sấm chớp ầm ầm, mưa gió nổi lên giáng xuống đàn. Vua cùng trăm quan đều lấy làm kinh dị. Làm lễ xong thì mây mù đều tự nhiên ngưng tạnh. Trời đất trong sáng.

Ngày hôm đó vua phong ông thứ nhất là Đông long Thái sư. Ông thứ hai là Tây long Thái phó. Ông thứ ba là Nam long Trưởng lệnh, quyền đảm Trung Hoa tể quốc, làm Thổ Lệnh cai quản thống nhất cầm đầu 50 thủy thần. Ông thứ tư làm Bắc long Thái bảo, cai quản thống nhất thuyền rồng, làm tướng quân Thạch Khanh. Ông thứ năm là Thiếu long Chưởng đài Chính ngự. Lại tăng phong cho thân phụ là ông bộ trưởng làm Đại vương.

Khi ấy thiên hạ thanh bình, không có tại họa hạn hán hay ngập lụt, tất cả đều mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt. Nhân dân giàu có, đều không lo đói khát, thực là niềm vui cảnh thanh bình. Khi đó vua bèn giao cho năm vị long hầu đi trấn nhậm các phương, kiêm quản chưởng các dải sông nước để làm chủ tể bảo vệ nhân dân. Khi ấy, ông thứ nhất làm chủ tể quận thành Hải Dương, đóng ở ngã ba sông Hồng. Sau nơi đó đều thành nơi cho gia thần phụng thờ. Ông thứ hai làm chủ tể đạo Sơn Tây ở ngã ba hợp lưu của sông Lâm Thao, sông Đà, sông Chiểu, tục gọi là ghềnh Ba Chậu (Triệu). Về sau đất đó dân đều lập đền phụng thờ.

Ông thứ ba là ông Trưởng là chủ tể quận thành Sơn Nam, đóng tại đất trang Tông Chất, huyện Phù Vân, phủ Thường Tín. Cung điện dựng ngự ở nơi trán rồng chỗ ba sông Lương, sông Du, sông Tô hợp lưu, là đất có địa hình quý chín rồng tranh ngọc, núi dựng nước giao, thật là đất anh linh lớn lao, đóng tại ở chính nơi đất trán rồng, theo hướng chính là hướng Quý Đinh, rồng nước cùng chầu ở mặt chính, phượng hoàng nhảy múa ở hai bên. Ông thứ ba là ông Trưởng xây thành và cung điện ở đó.

Ông thứ tư là ông Quý xây thành và cung điện ở thành Kinh Bắc, ngã ba sông Vũ, sông Cẩm, cung đóng ngự ở thế chính đầu vùng đất chim loan. Ông thứ năm xây thành ở Nam Chân, quận Giao Chỉ, ngã ba sông Vạn và cửa biển, cung ngự đóng ở chính cục đầu con lân.

Ba ông Cự, ông Hồng, ông Quý khi vâng mệnh đi dẹp quân Thục, một trận dẹp yên, rồi về nước đi đảm nhận các nơi cung sở đầu sông, đều hóa thành rắn dài trăm trượng, đi xuống sông mà tự hóa sinh bất diệt. Như thế, ông thứ nhất là ông Cự, ông thứ hai là ông Hồng, ông thứ năm là ông Quý đều cùng hóa trước. Vua truyền cho các vùng đất mà các ông trấn nhậm đầu sông và nơi hóa đều lập đền phụng thờ. Sắc phong là Thượng đẳng (vẫn có những tích riêng).

Từ khi năm ông vậng mệnh triều đình đi trị nhậm các nơi để trấn năm phương, bảo vệ cai quản thiên hạ đều được thanh bình, giàu mạnh.

Lại nói, quan Trưởng lệnh là chủ tể một bộ Sơn Nam. Đất trang Tông Chất đều là gia thần tại đó. Khi ấy, nhân dân ở trong trang (tức trang Tông Chất) có 9 tộc chia thành 8 giáp (khi đó các họ Phạm, Lê, Đặng, Bùi, Đỗ, Nguyễn, Hoàng, Trịnh, Trương là 9 tộc), đều theo quan Trưởng Lệnh làm chân tay, gia thần, cộng tất cả được 289 người, đều là những người khỏe mạnh. Ông bèn lấy ba người ở đất đó (tức là trang Tông Chất) cũng là những người có tài, khỏe mạnh, dũng cảm, cùng làm quản thuộc nội đao, phụ trách các gia thần 289 người, cùng quản trị nhân dân, đều là các tì tướng.

Khi đó ba vị Nguyễn Công Minh, Bùi Công Tài, Đặng Công Cán là người phụ trách nội vụ, theo hầu ông (sau ba vị đều hóa, vua cùng phòng làm Bản thổ thần quan, lập miếu thờ ở trong dân). Từ đó nhân dân trang Tông Chất đều chịu ơn đức lớn của ông Trưởng. Triều đình miễn hết đóng góp quân lương. Người ở đất Tông Chất một phương đều nổi danh hiển hách. Nhà cửa giàu quý, đất đai trù phú, mua thềm đất đai, đều là công đức to lớn của ông Trưởng đã nuôi dưỡng nhân dân. Công tựa núi cao, biển rộng, lòng nhân đức như trời đất vô cùng, đều là công nuôi dưỡng vậy.

Lại nói, khi cơ đồ họ Hùng đã đến lúc cuối, thế nước đã cùng. Vua Duệ Vương sinh được 20 hoàng tử đều theo nhau về tiên hương. Sáu vị công chúa sau chỉ còn hai. Vị thứ nhất là công chúa Tiên Dung. Vị thứ hai là công chúa Mỵ Nương. Cả hai đều là bậc hào kiệt trong giới nữ lưu, là bậc thần thánh trên thế gian, có nhan sắc tuyệt trần, đức hạnh thế gian hiếm có. Công chúa thứ nhất là Tiên Dung được gả cho Chử Đồng Tử quê ở trang Đa Hòa, huyện Đông An, phủ Khoái Châu, Sơn Nam. Công chúa thứ hai là Mỵ Nương được gả cho Tản Viên Sơn Thánh, quê ở động Lăng Sương, huyện Thanh Xuyên, phủ Gia Hưng, đạo Sơn Tây. Khi ấy vua chọn được người con rể thiên tài, bèn nhường ngôi cho. Tản Viên Sơn Thánh không nhận, chỉ xin được giúp việc chính sự quốc gia. Được hơn 10 năm, thiên hạ thanh bình, trong phủ không có việc phải lo.

Khi đó, vua gọi ông Trưởng Lệnh cùng với ông Quý Khanh, cả hai anh em cùng về triều chầu vua. Hai ông vâng mệnh về triều. Từ đó vua tôi hợp đức, thiên hạ yên bình. Được vài năm thì Thục chúa nghe đồn rằng Duệ Vương tuổi cao, không có người nối hậu, nhường ngôi cho con rể Tản Viên, bèn tích trữ binh mã hơn 30 vạn quân đến đánh Duệ Vương để chiếm lấy nước ta. Thư từ biên cương gửi gấp về báo. Vua bèn gọi Tản Viên Sơn Thánh cùng ông Thổ Lệnh Trưởng (Trận đó năm anh em ông vẫn còn đủ. Vua có phong tước, chia các đạo đế chiến đấu. Đến khi yên ổn ba ông về triều rồi hóa trước, có tích riêng) cùng đến chầu vua hỏi kế sách. Sơn Thánh tâu rằng:

  • Thần xin được thay thánh giá, tự chọn tướng tài nghênh chiến với tướng Thục ở các đạo bộ binh.

Ông Trưởng Lệnh tâu rằng:

  • Thần xin được nghênh chiến các đạo quân thủy.

Vua đồng ý. Khi đó vua phong Tản Viên Sơn Thánh là Nhạc phủ kiêm Thượng đẳng thần, cai quản cầm đầu 50 sơn thần. Lại phong cho ông Trưởng Lệnh là  Thuỷ tào kiêm Thượng đẳng thần, cai quản cầm đầu 50 thủy thần, tước vị là Trung Thành Đại vương.

Ông Trung Thành đóng giữ quận Sơn Nam, đến Ái Châu, Hoan Châu, châu Bố Chính, quản đến các cửa biển của sông Lương, sông Ô, sông Cửu Đầu, sông Bạch Đằng các mặt nghênh chiến với đạo quân thủy của quân Thục. Sơn Thánh nghênh chiến từ Tuyên Quang, Hưng Hoá, Cao Bằng, Tụ Long, Bảo Lạc, Côn Lôn, Bắc Tạ đến đất 16 châu. Sơn Thánh cùng Trưởng Lệnh Trung Thành Đại vương cùng dẫn thủy bộ các tướng, mười vạn quân mạnh, một ngàn tàu bè, cùng làm lễ trước bệ rồng. Thủy bộ cùng tiến, thuyền ngựa cùng đi. Một đạo quân của Sơn Thánh tiến thẳng đến các đồn của đại tướng Thục ở Mộc Châu, châu Phù Hoa, Việt Châu.

Một đạo thủy quân của Trưởng Lệnh Trung Thành Đại vương tàu bè thẳng tiến, ra từ cửa biển Thần Phù đến các dải sông từ các vùng Sơn Nam, Hải Dương, Ái Châu, Hoan Châu, châu Bố Chính, sông Ô. Thủy bộ hành quân, cùng ngày đến đánh một trận. Quân Thục thủy bộ đều thua to, chạy tẩu tán. Truy kích chém được ngoài ba ngàn đầu, bắt sống tướng Thục dẫn về kinh thành. Dâng biểu tâu lên là đã dẹp yên quân Thục.

Vua nghe tin rất vui mừng, bèn hạ chiếu triệu hai đạo thủy bộ về. Các đạo đều vâng mệnh trở về triều làm lễ bái yết trước bệ. Vua mở yến tiệc lớn. Từ đó thanh bình. Con vua cháu chúa nhàn du trong thiên hạ.

Khi ấy Trung Thành Đại vương xin vua cho trở về quận cũ (tức các quận Hải Dương, Sơn Nam) để thăm hỏi cha là ông bộ trưởng Bột. Vua đồng ý, ban cho vàng bạc, lụa là, gấm vóc hàng ngàn cân. Ông làm lễ bái tạ, rồi rời xa giá trở về châu quận, trên đường đi đến huyện Kim Bảng, phủ Lị Nhân xứ Sơn Nam thì thấy thân phụ là ông Bột đang về triều để thăm viếng ba vị long hầu đã hóa. Hỡi ôi, xa trông thấy thuyền rồng ở giữa sông Kim Mai thì bỗng nhiên trời đất tối tăm, mưa gió sấm chớp nổi lên. Ngày hôm đó (mùng 10 tháng 11) thuyền rồng của ông Bột chìm mất, ông hóa vậy (Về sau vua phong là Bột Hải Đại vương, lập đền ở nơi đó mà thờ phụng).

Khi đó Trung Thành Đại vương dâng biểu tấu. Vua nghe tin bèn sai quan sứ về nơi hóa làm lễ, truyền cho địa phương lập đền thờ phụng.

Lại nói, làm lễ cho thân phụ xong, vua lại triệu ông về triều, phong là Thổ Lệnh Thống quốc Đại vương, bổ nhiệm nhận thành Phong Châu, trấn giữ thành Bạch Hạc Tam Giang, làm Thống quốc Trưởng Lệnh Đô đài Lạc Long hầu Đại tướng quân.

Từ đó thiên hạ thanh bình, trong phủ vô sự. Quan Trưởng Lệnh xin vua đi chơi thiên hạ, xem xét các nơi là gia thần, tìm xem những nơi đất đẹp có long mạch để lập hành cung thờ cúng. Vua đồng ý. Ông bèn làm lễ ở triều đình. Ngay hôm đó rời xe đi các nơi trong thiên hạ.

Thế là ông đi du chơi vãng ngắm cảnh đến đất quận Sơn Nam. Nhân dân các phủ huyện đều dựng cung nghênh đón, là lễ mừng. Khí đó, ông lập sông Bạch Hạc là cung thứ nhất, thứ hai là bến Tông Chất ở ngã ba sông Lương, ngự ở chính nơi đầu tồng, đều là vùng đất du cung. Cung chính ở đất trang Tông Chất ngự trấn ngã ba nơi sông Lương, sông Du, sông Tô hợp lưu. Đất dựng cung ở tại nơi trán rồng, đều là chín rồng tranh ngọc, tất cả đều quay đầu về chầu ở đất chính cung, mặt trước có án ngọc.

Khi đó ông lại về chơi cung ở thành Tông Chất, truyền dựng một nơi hội tụ ở trong dân ấp. Dòng sông Du chảy tới cung này ở phía trước thì. Thường khi đi lại ông ngự thuyền rồng theo ba sông nhằm hướng sông Du mà tiến vào thẳng đến nơi hội họp trong dân. Ở tại nơi hội họp trước sân còn theo chính cục hướng Quý Đinh, lại lập giếng loa ở phía bên trong ấp để dưỡng khí đẹp của rồng xanh, cho được giàu mạnh người và vật. Ông lại cho làm một nơi bên đường có thế đất một dải vàng để làm cung nơi đất cấm. Năm tháng về đó dừng chân ở lại. Do đó ông là người đã mở ra đất này.

Hai nơi hành cung đều được miễn đóng binh lương. Hôm ấy (tức mùng 10 tháng Tám) xe của ông tiến về đến nơi cung Tông Chất. Nhân dân làm lễ bái mừng. Ông bèn ở lại trong cung (tức là cung sông Lương đất Tông Chất), mở tiệc vui vẻ, bèn gọi nhân dân, phụ lão cùng đến dự tiệc. Đang túc ăn uống tiệc tùng, ông Trưởng Lệnh Đại vương mới làm một bài thơ rằng:

Hà hải chung linh tự xuất thân
Tu my nhĩ mục bất vi bần
Cung đình xứ xứ giai ngô hữu
Hương hoả trường lưu tại xã dân.

Nghĩa là:

Sông biển đúc thiêng vốn xuất thân
Tai mắt tóc mi chẳng thể hèn
Khắp chốn cung đình là ta giữ
Hương lửa mãi lưu trong xã dân.

Lại nói, ông đóng binh ở đó, mở tiệc vui mừng tới hơn 10 ngày. Ông lại rời xe đi chơi các nơi trong thiên hạ, xây dựng hành cung, cộng là 172 nơi. Lại trở về triều, làm biểu dâng tâu xin vua cho các đất có hành cung  làm nơi gia thần sở thuộc. Lại xin ba huyện Phù Vân, Thượng Phúc, Nam Xương đều là nơi gia thần sở thuộc, cùng giữ gìn nơi hội đồng ở cung Tông Chất. Vua đồng ý.

Đến sau đó Thục chúa lại đem trăm vạn quân tinh nhuệ đến đánh Duệ Vương để chiếm nước ta. Vua lại gọi Tản Viên Sơn Thánh cùng với Trưởng Lệnh Đại vương dẫn các đạo quân thủy bộ đánh một trận dẹp yên được. Khi đó ông Trưởng Lệnh ra quân dẹp giặc có làm một bài thơ rằng:

Vạn lý phong lôi, vạn lý vân
Bất từ lao khổ sự quân thân
Trung cần nhất tiết thiên hà phụ
Vạn sự giai phù tại ngã thân.

Nghĩa là:

Vạn dặm gió mưa, vạn dặm mây
Chẳng từ lao khổ, việc vua đây
Một lòng trung cẩn trời không phụ
Muôn sự đều do ở thân này.

Lại nói, sau có giặc rất mạnh ở Hồng Châu. Vua gọi Trưởng Lệnh Đại vương sai đem quân đánh dẹp. Ông vâng mệnh làm lễ tạ, đem quân xuống thuyền rồng, tiến quân theo đường thủy, đánh một trận lớn, bắt được tướng giặc Trương Dũng, chém đều treo dưới cờ chỉ huy. Quân giặc thua to, bỏ chạy. Đuổi theo, chém vô số. Một xe không thoát, một ngựa không còn. Gửi về kinh thành, dâng biểu tấu. Vua bèn hạ chiếu gọi về. Ông vâng mệnh trở về.

Khi đó Trưởng Lệnh Đại vương tiến thẳng về theo đường thủy, dọc vào dải sông Lương nhỏ. Chỉ có hai chiếc thuyền rồng cùng người em ruột là ông Khanh quay thẳng về thành, theo dòng sông lớn là sông Nguyệt Đức mà tiến. Hôm đó (mùng 10 tháng Giêng), hai chiếc thuyền của ông đi thẳng vào trong ấp (tức là ấp trang Tông Chất) theo dải sông Du nhỏ mà vào thẳng cung Hội đồng. Ông bèn bỏ thuyền bên sông mà lên cung. Nhân dân làm lễ bái mừng. Ông mở tiệc vui vẻ, bỏ giáp ngừng ninh, khao thưởng ba quân.

Ở đó đến mùng 10 tháng Sáu, ông lại sai chèo thuyền rồng đi ra chơi bên ngoài cung ở ngã ba sông Lương. Ông lên cung, bỏ ra ngồi nghỉ. Được một lúc bỗng thấy trời đất u ám, giữa ngày mà như đêm, nước sông sóng cả dập dồn. Cá, ba ba, giao long, rắn hoa đều nổi trên mặt nước, cùng hướng về chầu trước cung. Đáy nước ba sông ầm ầm như tiếng sấm vang đến, phá mở một cửa giếng ở trong cung nơi ngự chính. Nước ngập đầy cung. Ông bèn theo dòng nước giếng mà ra trước cung nhập vào ngoài sông. Lại thấy ông cưỡi cá chép, tay cầm thẻ bài ngọc, bỗng nhiên hóa (do đó trước nơi cung có mảng sông nước hình như đuôi cá còn tới nay). Đang khi đó lại thấy thuyền của ông đều có rồng vàng trong thuyền bay ra trước cung ngoài sông thì bay lên trời mà biến. Còn hơn trăm trượng, vảy đỏ rực rỡ. Vạn nhận bỗng mưa to gió lớn.

Khoảng ba ngày sau thấy trời đất trong sáng. Nhân dân đều lấy làm sợ hãi kinh dị, bèn làm biểu dâng tấu lên triều đình. Vua nghe tin vô cùng thương tiếc bề tôi tài giỏi, lại có công lớn với nước, bèn lệnh cho trăm quan đến nơi hóa (tức cung Tông Chất ở ngã ba sông Lương, sau nhà Lê đổi thành cung Đa Chất). Sau cho sửa dựng lại cung sở làm nơi đền hóa chính. Nhân dân địa phương ở đó (tức là ở đền Đa Chất sông Lương) đều phụng thờ. Còn như dân các trang của ba huyện là gia thần sở thuộc về quy tế ở đền hóa chính sông Lương, mỗi năm xuân thu đều đến phụ tế. Để giữ hương lửa ở Tông Chất cho miễn đóng binh lương, ruộng thờ 30 mẫu 3 sào. Hai kỳ xuân thu làm quốc tế.

Trăm quan vâng mệnh đến nơi hóa mà tế. Khi tu sửa đền miếu hoàn thành bèn làm lễ đến xem trong giếng (đi đến nơi đó) thấy giếng ở trong cung nơi ngự chính mà ngài đã hóa có tiếng động ầm ầm như tiếng sấm. Trăm quan thấy việc linh ứng trước mắt, bèn làm lễ tạ. Trở về triều dâng tấu lên vua. Vua nghe vậy thấy đáng xưng là linh ứng. Ngay hôm đó vua phong thêm mỹ tự Thượng đẳng phúc thần, cho vạn năm hưởng tế lộc cùng với nước nhà, mãi là lệ thức. Lại ban cho áo mỹ cùng với các đồ tế khí, cho phép Tông Chất làm nơi hương lửa hộ nhi, đều miễn đóng binh lương, xuân thu quốc tế. Còn ba huyện cùng là nơi hành cung thần tử, xuân thu phụ tế ở trang Tông Chất tại đền ngã ba Lương. Mỗi năm hai kỳ nhân dân ba huyện đến phụng thờ phụ tế ở đền hóa chính Tông Chất. Ba huyện mỗi kỳ phụ tế nộp 100 quan tiền.

Khi đó vua lại truyền hịch đi thiên hạ các nơi có cung sở trước đây đều lập miếu phụng tự. Cộng là 172 nơi được vua phong. Phong Trung Thành Thượng đẳng tối linh Đại vương, cho phép thôn Phú Nhiêu phụng thờ hương lửa.

Lại nói, về sau vua nhớ nghĩa quân thần, bèn lại truyền lập ở thành Phong Châu nơi ngã ba sông Bạch Hạc một quán tên là Tam Thanh. Lại truyền vẽ tượng, vẽ ông Trưởng, ông Khanh hai tướng tay cầm long đao đứng hai bên trái phải của quán. Ngày tháng vua tưởng nhớ diện mạo hai ông, nên thường ra ngự ở quán đó (tức quán Tam Thanh) để xem thể diện của hai ông. Việc xây dựng đã xong.

Khi triều Hùng mạt vận, thế nước đến lúc cuối, vua nhường ngôi cho Thục vương (tức bộ chủ Ai Lao, cũng là dòng phái Hùng Vương). Từ đó trải qua Đông Hán, Ngô, Tấn, Tống, Tề, Lương cộng là 349 năm, cho tới khi vua Đường sai Lý Thường Minh làm quan Đô hộ Nam bang.

Bèn tiến đánh giặc Ai Lao. Một hôm Thường Minh dẫn quân đi đến đền Tông Chất huyện Phù Vân (tức đền thiêng nơi ta), đền thiêng Ba Lương.  Một tối quan đô hộ Thường Minh làm lễ cầu khấn xin được âm phù giúp nước, sau này dẹp được giặc sẽ tâu lên vua Đường tăng phong mỹ tự, vạn đời cùng hưởng với nước nhà, cùng hưởng phúc thanh bình. Khấn xong quan đô hộ nằm ở nơi cung chính trong đền. Mộng thấy một người thân cao mười trượng, tay cầm long đao, đường đường đến đứng ở giữa cùng, mà nói rằng:

  • Tôi nghe ngài khấn thỉnh, nên đã đến đây xin được giúp nước nhà.

Đang nói chưa dứt thì ông tỉnh lại, biết là mộng thần cảm ứng báo cho, bèn làm lễ tạ. Sáng ngày dẫn quân tiến thẳng đến thành Phong Châu, lại thấy quán ở bèn đóng quân một đêm tại đó. Thấy hình dạng hai tướng giống y như người trong mộng, ông  vui mừng báo rằng:

  • Nếu quả như đã gặp trong giấc mộng ở đền sông Lương, xin hãy âm phù giúp dẹp giặc thành công. Sau này tất sẽ tấu xin vua Đường phong tăng làm Nam thiên Thượng đẳng phúc thần, vạn đời hưởng lộc, cùng với nước nha yên lành, mãi là lệ thức không đổi, mãi thịnh vậy.

Lý Thường Minh khấn xong, đến nửa đêm lại thấy đường đường hai tướng, thân dài mười hai thước, mũ rồng, giáp vàng, áo gấm, tay cầm long đao. Hai ông múa đao đi tuần du quan trước sân ba vòng. Bỗng nhiên một ông bước một bước sang bến Việt Trì (đến nay do đó còn dấu chân tại bến đá). Tự nhiên biến mất.

Thường Minh tận mắt thấy sự linh nghiệm kỳ dị bèn làm lễ rạ. Ngay hôm đó tiến quân thẳng đến dẹp Ai Lao, một trận là yên. Sau Thường Minh dẹp được giặc Ai Lai, tâu lên vua Đường. Vua bèn tôn xưng là đền thiêng bậc nhất trời Nam, phong tăng là Thượng đẳng phúc thần, vạn đời trời Nam hương lửa cùng với nước nhà hưởng yên lành. Cho phép trang Tông Chất phụng thờ. Phong Trung Thành Phổ Tế Đại vương Hộ quốc An dân Đại vương.

Lại nói, trời Nam có bốn họ Đinh, Lê, Lý, Trần khai sáng cơ đồ, thường có nhiều lần anh linh giúp nước cứu dân, nên trải các đời đế vương phong thêm mỹ tự Thượng đẳng phúc thần, hương lửa vô cùng.

Trung Thành Vương là thủy thần ngã ba sông Lương. Dọc sông có tên thờ là Thổ Lệnh Trưởng. Năm Vĩnh Huy thời Đường Cao Tông Lý Thường Minh là đô đốc Phong Châu, đi qua bên sông, thấy núi sông tươi đẹp, thắp hương cầu khấn, mộng gặp thần nhân. Một xưng là Thổ Lệnh, một xưng là Thạch Khanh, chạy đến đua tài. Thạch Khanh nhảy một bước tới bên bờ Nam đã thấy Thổ Lệnh đến đứng ở bên sông trước. Thạch Khanh lại nhảy tới bờ Bắc, lại thấy Thổ Lệnh đã đứng ở bên bờ sông đó trước. Do vậy mà kính sợ, cho tô tượng phụng thờ. Lý Thái Tông đi thuyền qua đây, cũng có tưởng nhớ công lao, tăng phong mỹ tự là Trung Thành Đại vương. Các triều đại cũng đều có sắc phong.

Truyện Thổ Lệnh đất Phong châu

Thần vốn là hạo khí của núi sông, tục gọi là Thổ Lệnh Trưởng. Xưa tại thời Hán Tấn, có sự linh ứng, bảo vật phúc dân. Trăm họ địa phương được nhận nhiều ơn huệ. Người dân lập một ngôi đền cỏ để làm chỗ cầu đảo, mãi là quy định, đời đời không đổi. Đến những năm Vĩnh Huy nhà Đường, đô đốc Phong Châu là Lý Tiên Minh, là người ôn hòa, cung kính, phong nhã, biết thương vật yêu dân. Là người quản lệnh ở đây, nên các danh thắng trong châu, không nơi nào là ông không ghé chân qua. Do đó, những việc dù là nhỏ trong dân giam, dù là một cái cây một ngọn cỏ mà có sự hoa lệ không thay đổi thì đều định xuống thành tình khúc để nắm bắt được sự kỳ diệu đó. Khi ấy người người đều gọi là vị quan lệnh tốt.

Một hôm ông đi đến cửa sông Bạch Hạc, bỗng trông thấy một quán nhà tranh ba gian, được xây dựng rất sơ sài. Tiên Minh liền đến xem nơi trú nghỉ cùng với phẩm vị tinh tế thì biết đây là ngôi đền cổ linh thiêng, tự nhiên như có sự cảm nhớ, bèn ngẩng lên trời mà than rằng:

  • Bản chức vâng mệnh đến nơi nhân dân muốn để giúp yên nghiệp.  Nhân dân được nhờ ơn sâu của thần là điều mong muốn của bản chức. Nay thấy như ở đây một mảnh đất trong dân gian đã muốn trở thành cô quạnh hoang vắng, nhưng lại vẫn có mấy gian hương lửa, kính ngưỡng sao vẫn đủ đầy, ngày sóc buổi vọng vẫn thiêng thay.

Nên do đó mà có ý tu sửa. Lại xem địa thế nơi đây, trăm tầng dải biếc, ngàn dặm núi xanh, nước tựa như huyền, cùng núi uốn khúc, bàn long cứ hổ, núi đất sừng sững dựng thành một vạt dải đẹp đẽ. Bèn cho kiến thiết gạch gỗ dựng lại, thợ giỏi vẽ tường, tô vách, đẹp mắt đẹp lòng, trở thành một nơi đại danh thắng linh thiêng vậy.

Lại dựng ba pháp tượng cực kỳ to lớn, dựng riêng nhà giải vũ trái phải, cùng tiền đường hậu đường. Lại sai thợ trang sức tô vẽ tượng thần, tùy theo nơi mà bày trí thêm bớt các đồ tinh diệu, đương nhiên anh khí linh thiêng không thể chê được. Nhân đó mà thắp hương khấn rằng:

  • Tôi là chủ quản châu này. Nhân thấy ngôi miếu tranh sơ sài, việc xây tạo mới đã thành. Bây giờ nếu thần kỳ có linh thiêng, xin sớm hiện chân thân đúng như hình dạng thánh tượng vậy.

Bèn trai giới, tắm rửa tinh sạch rồi đi nằm. Đêm đó sau lúc trống canh điểm ba tiếng, bỗng mộng thấy có hai di nhân đến thẳng vào trong nhà, chia hai bên mà ngồi. Một người ngồi ở bên trái, đầu bù xù, răng lộ ra, mặt như hình quả bí, mũi to, râu ria

thần thái đẹp đẽ, đầu quấn khăn gấm vuông đoạn xanh đoạn hồng, thân mang áo khoác lân gấm viền biếc, chân xỏ giầy mây ngao điểu màu đen, tay trái cầm đằng đao, tay phải xếp khiên trúc. Một người ngồi ở bên phải trán rộng, mắt đỏ, mặt tròn như hình bánh, bảy đoạn căn cột xếp thành so le, mắt hổ môi dầy, hình dung cổ quái, đầu đội khăn gấm vuông xen các màu tím hồng, thêu vàng, mình khoác áo bào hoa thêu xanh trắng, chân đi giày sò tía núi nghiêng, vái chào Tiên Minh nói:

  • Đã lâu nghe đại danh của sứ quân như sấm nổ bên tai, nên muốn vội tới đây yết kiến, sau là để bày tỏ ý trịnh trọng. Nay nhân nhớ đến triều xưa nên đặc biết đến để ngồi tiếp ngài.

Tiên Minh thấy hai người diện mạo phong nhã, nói năng trước sau hợp lễ thức, trong lòng rất kính trọng. Tuy nhiên, ngầm nghĩ đây là ai khó có thể luận được, bèn nói:

  • Bản chức vâng sắc Thượng hoàng đến nhận chức phương Nam đến nay đã chưa được một năm, lại gặp được hai tôn tướng đến tiếp, may mắn được cùng nói chuyện, thật là có duyên. Thiết tưởng không phụ chí chiêu mộ tìm hiền hàng ngày. Song ngày tháng đã qua, có điều còn chưa tỏ tường. Xin thỉnh lời giáo huấn cho rõ để có thể biết được quang cảnh vậy.

Hai người cười nói:

  • Chúng tôi đều ở nơi đây, không phải xa xưa gì. Sứ quân đã có lòng mong muốn gặp gỡ, cho nên chúng tôi đặc biệt đến để tạ, sau là đền đáp lại vạn phần ý tốt đó.

Tiên Minh ngạc nhiên nói:

  • Tôi tuy đã đến nhận nơi quan đường, nhưng được một lần gặp mặt, sao lại có mong muốn gặp gỡ. Xin được biết cho tỏ.

Hai nhân nói:

  • Ngày sau sẽ tự biết, không cần phải giải thích.

Tiên Minh nói:

  • Đã được ơn huệ này thì liệu có thể được một lời về nhân tình không?

Hai người nói:

  • Chúng tôi một tên là Thổ Lệnh, một tên là Thạch Khanh, đều là dân bản xứ. Lúc nhỏ thường tập võ nghệ, ít khi thi đấu trực diện. Nay lại được  cùng sứ quân dự tiếp, xin được ra trước sân để so xem ai hơn ai kém. Ai hơn thì ở trước, ai kém ở sau. Để xem hơn thua như thế nào, sau là khỏi phụ công bình sinh học tập.

Tiên Minh vui mừng, liên tục đồng ý. Thế là hai người đến ở trước sân, cầm khiên đối mặt mà đấu nghệ, như hoa lê bái tuyết, như hổ tranh oai, tiến lui như rồng rắn quẫy động. Thạch Khanh thừa dũng dùng một bước nhảy, lại bước thêm một bước đến giữ nơi cửa giới. Không ngờ Thổ Lệnh đã sớm hơn giữ lấy cửa giới, lại còn đã bước thêm hơn một bước.

Tiên Minh hô “ôi” một tiếng lớn, rồi lại kinh sợ mà tỉnh lại, mới biết là một giấc mộng nơi chốn thiêng. Nhớ lại ký ức mờ mờ mà như trong mộng trông thấy vẽ lại anh em như Lý Lã nhân mà thành gió. Phàm có điều lo nghĩ giàu nghèo thiếu thốn thì đến ở đền cầu khẩn, họa phúc thấy đúng như âm báo.

Các triều đại dẫn quân đi qua địa phương này đều mổ súc vật làm lễ yết tế, tất được kỳ công. Lý Thái Tông dẫn quân đi qua phạt Chiêm Thành, thuyền qua nơi đây cầu đảo, tặng phong là Trung Thành Đại vương. Đến này còn sự tặng phong của các triều đại. Thời Trần Nhân Tông năm đầu Trùng Hưng sắc phong là Trung dực Đại vương, hai năm sau tăng thêm hai chữ Võ phụ. Thời Trần Anh Tông năm Hưng Long thứ 21 lại phong thêm hai chữ Uy hiển.

Về sau triều Trần Hàn lâm viện Thị độc Vương Uy theo giá đi Tây chinh nước Chiêm Thành, đi qua dưới đền, có thơ rằng:

Tỳ hưu thập vạn triển uy linh
Thế lực vân trung tuyết ngoại thành
Giang hữu khu khu hà xứ thị
Phong thanh hạc lệ tẩu Tần binh.

Nghĩa là:

Mười vạn tỳ hưu tỏ oai linh
Thế lực trong mây, tuyết ngoài thành
Bên sông nơi nơi đâu là chốn
Tiếng gió lệ hạc đuổi Tần binh.

Lại có Hàn lâm thị độc Nguyễn Sĩ Cố theo giá đi Tây chinh Ai Lao, trở về có thơ rằng:

Quy ngư phù ấn quải yêu gian
Tiền sự hy cầu phó tướng quan
Bạc đao thư sinh vô vọng xứ
Chỉ lai từ hạ khất bình an.

Nghĩa là:

Ấn phù rùa cá đeo bên hông
Sự cũ theo quan tướng cầu mong
Thư sinh bỏ đao về vô vọng
Dưới đền tìm đến, an lành trông.

Các kỳ sinh hóa cùng các tiết khánh hạ, và chữ húy, sắc phục làm lễ phải cấm vâng khai như sau:

Ngày sinh thần 12 tháng Hai. Làm lễ đón thần từ đền ở cung ngoài ba sông về nơi tế hội đồng, trên bộ đón giá, đường thủy ba chiếc thuyền rồng, trở về đến trước cửa nơi tế. Làm lễ cỗ chay oản quả, dưới dùng lợn đen tuyền, xôi, rượu, ca hát, đánh cờ, đấu vật trong 10 ngày, làm lễ rồi dừng.

Ngày hóa thần mùng 10 tháng Sáu. Làm lễ cỗ chay, trà, oản quả, bánh trôi, xôi rượu, cơm thịt lợn, các đồ vàng mã.

Ngày khánh hạ mùng 10 tháng Tám. Làm lễ cỗ chay, xôi rượu, ca hát ba ngày thì ngừng. Thịt trâu hay thịt lợn đều được.

Ngày khánh hạ 15 tháng Tám. Làm lễ cỗ chay, xôi, rượu, ca hát ba ngày thì ngừng.

Ngày khánh hạ 15 tháng Ba. Làm lễ đón thần bằng hai thuyền rồng, tiền về theo đường thủy tới nơi tế hội đồng, ca hát, đấu vật, cỗ chay, gà, xôi, rượu, ca hát ba ngày thì ngừng.

Ngày khánh hạ mùng 10 tháng Giêng. Làm lễ cỗ chay, lợn, xôi, rượu, ca hát ba ngày thì ngừng.

Ngày khánh hạ 12 tháng Năm. Làm lễ ở cung miếu, chèo thuyền rồng đón giá, cỗ chay, dưới móng lợn, xôi, rượu, bánh trôi, ca hát mười ngày, làm lễ tạ rồi ngừng.

Ngày khánh hạ mùng 10 tháng Mười một. Làm lễ xôi rượu, thịt lợn, ca hát một ngày thì ngừng.

Ngày khánh hạ 25 tháng Mười. Làm lễ thịt lợn, xôi, rượu, ca ba ngày thì ngừng.

Chữ húy  Trưởng, Lệnh, Thổ, Trung, Thành đề cấm tránh cùng âm. Cùng với tên cha mẹ hai chữ Bột, Hương, cùng với các áo màu vàng, tím đều cấm.

Hai kỳ xuân thu ở nơi miếu hóa. Các ngày 15 tháng Ba, 15 tháng Tám làm lễ tam sinh. Các nơi phụ tế đều làm lễ. Ca hát ba ngày thì ngừng.

Năm đầu niên hiệu Hồng Phúc, ngày tốt tháng Giêng, Hàn lâm viện Đông các Đại học sĩ, bề tôi là Nguyễn Bính vâng soạn.

Hoàng triều niên hiệu Vĩnh Hựu năm thứ ba, ngày mùng 1 tháng Năm, Quản giám bách thần Tri điện Hùng lĩnh Thiếu khanh, bề tôi là Nguyễn Hiền tuân theo y như bản trước đây vâng sao.

Ngũ đế thiên hoàng

Trong Đạo Giáo thời Hán – Tam quốc có 5 vị thần cai quản 5 hướng gọi là Ngũ đế Thiên hoàng. Sách Lão Tử trung kinh viết:

– Thần phương Đông tên là Câu Mang Tử, hiệu là Văn Thuỷ Hồng Nhai Tiên Sinh, là Đông phương Thương đế, Đông Hải quân;
– Thần phương Nam tên là 
Chúc Dung Tử, hiệu là Xích Tinh Thành Tử, là Nam phương Xích đế, Nam Hải quân;
– Thần phương Tây phương tên là 
Nhục Thu Tử, hiệu là Hạ Lý Hoàng Công; là Tây phương Bạch đế, Tây Hải quân;
– Thần phương Bắc tên là 
Ngu Cường Tử, hiệu là Huyền Minh Tử Xương, là Bắc phương Hắc đế, Bắc Hải quân.
– Thần Trung ương tên là 
Hoàng Thường Tử, hiệu là Hoàng Thần Bành Tổ, là Trung ương Hoàng đế quân.

Như vậy Ngũ đế ứng với 5 phương Đông Tây Nam Bắc và Trung tâm, ứng với 5 màu Xanh Đỏ Trắng Đen Vàng. Đặc biệt đây cũng là các vị “thủy thần” mà được gọi là “Hải quân” của 4 biển Đông Tây Nam Bắc.

Ngũ đế Thiên hoàng và Ngũ phương, Ngũ sắc.

Trong Sơn hải kinh, các vị thần bốn phương cũng đều dùng rồng là vật cưỡi. “Phương Nam Chúc Dung, thân thú mặt người, cưỡi hai rồng”, “Phương Tây Nhục Thu, tai trái có rắn, cưỡi hai rồng”, “Phương Đông có Câu Mang, thân chim mặt người, cưỡi hai rồng”, “Phương Bắc Ngu Cường, thân đen có tay chân, cưỡi hai rồng”. Việc các thần linh tứ phương cưỡi rồng cho thấy tính chất Thủy thần của các vị này.

Về Ngũ hành và các vị thần trấn phương trong Lã Thị xuân thu của Lã Bất Vi ghi:

Mạnh Xuân Kỷ: Tháng đầu xuân: Mặt trời ở vị trí sao Doanh Thất. Buổi chiều hôm, sao Sâm ở phương chính Nam, mặt trời tháng này ở Giáp Ất (phương Đông). Vị đế vương tương ứng với tháng này là Thái Cao Thị, dựa vào Mộc Đức mà xưng vương, vị thần đối giúp với tháng này là Mộc thần Câu Mang. Động vật tiêu biểu tháng này là loài có vảy… con số đối ứng với tháng này là số 8, số của Thiếu Dương, … Thiên tử ngồi xe có cờ xanh, mặc áo xanh, đeo ngọc xanh (thuận ứng với Mộc sắc).

Mạnh Hạ Kỷ: Tháng đầu mùa hạ: Mặt trời ở vị trí sao Tất. Buổi chiều hôm, sao Dực ở phương chính Nam, sáng sớm sao Vụ Nữ ở phương Bính Đinh (phương Nam). Vị đế vương tương ứng với tháng này là Viêm Đế, dựa vào Hỏa đức mà xưng vương. Vị thần đối giúp tháng này là Hỏa thần Chúc Dung. Động vật tiêu biểu tháng này là loài có lông vũ…, con số đối ứng với tháng này là số 7… Thiên tử ngồi xe màu đỏ, … trên xe có cờ đỏ, mặc áo đỏ, đeo ngọc đỏ.

Mạnh Thu Kỷ: Tháng đầu mùa thu: Mặt trời ở vị trí sao Dực. Buổi chiều hôm, sao Đẩu ở phương chính Nam, mặt trời tháng này ở phương Canh Tân (phương Tây). Vị đế vương tương ứng với tháng này là Thiếu Hạo, lấy đức Kim mà xưng vương thiên hạ. Vị thần đối giúp của tháng này là Kim thần Nhục Thu, tên là Cai. Động vật tiêu biểu tháng này là loài có lông mao,… con số đối ứng với tháng này là số 9 số của Thiếu Âm, … Thiên tử ngồi xe có cờ trắng, mặc áo trắng, đeo ngọc trắng làm đồ trang sức (thuận ứng với sắc Kim).

Mạnh Đông Kỷ: Tháng đầu mùa đông: Mặt trời ở vị trí sao Vĩ, buổi chiều hôm sao Ngụy ở phương chính Nam, mặt trời tháng này ở phương Nhâm Quý (phương Bắc). Vị đế vương tháng này là Chuyên Húc, lấy đức Thủy mà xưng vương thiên hạ. Vị thần đối giúp của tháng này là Huyền Minh Thủy thần. Động vật tiêu biểu tháng này là loài giáp giới (loài rùa),… Con số của tháng này là số 6… Thiên tử ở trong phòng đầu tây của nhà hướng bắc, ngồi xe đen, trên xe có cờ đen, ngựa kéo xe là ngựa đen, trên xe có cờ đen, đeo ngọc đen.

Đây là bảng kê khá đầy đủ của sự vận dụng Ngũ hành.

1. Thái Cao – Mộc đức – mùa xuân – phương Đông – loài có vảy (rồng) – số 8 – màu xanh – Mộc thần Câu Mang.
2. Viêm Đế – Hỏa đức – mùa hạ – phương Nam (tức phương Bắc của Dịch lý) – loài có lông vũ (chim phượng)số 7 – màu đỏ – Hỏa thần Chúc Dung.
3. Thiếu Hạo – đức Kim – mùa thu – phương Tây – loài có lông mao (kỳ lân) – số 9 – màu trắng – Kim thần Nhục Thu.
4. Chuyên Húc – Thủy đức – mùa đông – phương Bắc (tức phương Nam của Dịch lý) – loài có giáp giới (rùa) – số 6 – màu đen – Thủy thần Huyền Minh.

So sánh với đạo Tam Tứ phủ ở Việt Nam, một tín ngưỡng rất gần với Đạo Giáo, thì Ngũ đế Thiên hoàng của Đạo Giáo chính là Ngũ vị Tôn quan trong ban Công đồng Tứ phủ. Cũng là 5 vị thủy thần trấn trị 5 phương, ứng đúng với 5 màu của Ngũ sắc.

Trên những gương đồng thời Hán Tam quốc thường gặp loại gương có đúc hình các vị thần và dòng chữ:

Ngô tác minh kính, u luyện tam thương. Chu duyên dung tượng, Ngũ đế Thiên hoàng. Bá Nha đan cầm, Hoàng Đế trừ hung. Chu điểu Huyền vũ, Bạch hổ Thanh long. Quân nghi cao quan, tử tôn phiên xương. 

Nghĩa là: Tôi tạo gương sáng, phối luyện ba loại. Quanh viền tạc tượng, Ngũ đế Thiên hoàng. Bá Nha đánh đàn, Hoàng Đế trừ hung. Chu điểu Huyền vũ, Bạch hổ Thanh long. Phong chức quan cao, con cháu vững yên.

Chữ Quân nghi cao quan, thể hiện phép tắc về thứ bậc quan chức, hay tương đương với khái niệm “Công đồng” trong Tứ phủ. Chính chữ “quan” này là trong tên của Ngũ vị tôn quan.

Mẫu gương Trùng liệt thần thú thời Hán.

Điển hình của các vị thủy thần trấn các phương theo màu sắc của Ngũ hành là tại Nhật Tân (Hà Nội), nơi thời Uy Linh Lang và Lục bộ thủy phủ hay Đoài hồ Thất giáp: Đại vương là giống giao long, là trưởng của Xích Giáp, hiệu là Uy Linh Lang, cùng với 6 người được nhận phong ở đó là Bạch Giáp, Hoàng Giáp, Hắc Giáp, Thanh Giáp, Chu Giáp, Tử Giáp. Ngũ phương ở đây là phương Trung ương màu Vàng – Hoàng giáp, phương Nam Đỏ – Xích và Chu giáp, phương Bắc màu Đen – Hắc và Tử giáp, phương Đông màu Xanh – Thanh giáp, phương Tây màu Trắng – Bạch giáp.

Làng Mai Xá, xã Song Mai, Kim Động, Hưng Yên thờ 5 vị thủy thần thời Hùng Vương với sự tích khá giống như truyện về Bạch Hạc Tam Giang. Xưa người đời truyền rằng: Ở quận Động Hải, xứ Hải Dương có người họ Hải tên Bột, tên chữ Văn Tử, lấy vợ người cùng quận, phường Thủy Cơ, tên húy là Trương Thị Đoan… Bà thấy mặt nước có rồng vàng đẻ được năm quả trứng… tự nhiên nứt ra, làn nước biển ngào ngạt hương thơm, hương nước như tan biến vào người… Bà thấy mình có thai… sinh ra một bọc, nở ra 5 người con trai… Đặt tên người con thứ nhất là Cự Lân, người thứ hai là Hống Lý, tên hiệu Cao Minh, người con thứ bà là Thổ Linh, người con thứ tư là Long Hầu, tên hiệu Cao Mang, người con thứ năm là Túc Linh…

Sau đó thần tích kể rằng ở Mai Xá có 2 gia đình là Đổng Công và Nhân Công, hai bà vợ nằm mộng thấy rồng vàng và gặp một sứ giả Thượng đế đến báo tặng cho Đổng Công một vị Thiên thần, cho Nhân Công hai vị Sơn thần. Hai bà vợ mang thai, sinh được 3 người con là Vĩnh Công, Mộc Công và Lại Công. Tới khi vua Hùng mở khoa thi chọn người tài thì Thành Công (Thổ Linh), Mang Công (Cao Mang) được làm Thủy tào Đại phán quan, kiêm quản 50 bộ đứng đầu Thủy thần. Vĩnh Công, Mộc Công và Lại Công được phong kiêm quản 50 bộ đứng đầu Sơn thần.

Khi trong nước có nạn lũ lụt, 5 ông được cử đi tuần hành các nơi, đắp đê, đuổi lui thủy binh phá hoại. Khi có giặc Thục, các ông cùng Sơn Thánh dẫn các đạo quân thủy bộ chống giặc. Thắng giặc, Thành Công và Mang Công hóa ở cung Đa Chất, Vĩnh Công hóa ở huyện Thượng Phúc. Còn Mộc Công và Lại Công hóa ở quê Mai Xá.

Đến đời Đinh Tiên Hoàng phong là:

  • Thổ Linh Trung Thành Phụ quốc Đại vương
  • Cao Mang Tế thế Đại vương
  • Đổng Vĩnh Hộ quốc Đại vương
  • Mộc Phàm Phù quốc Đại vương
  • Trấn Lại Trợ quốc Đại vương.

Thần tích làng Mai Xá vừa có bóng dáng của sự tích Bạch Hạc Tam Giang trong tên Thổ Linh Trung Thành Đại vương, vừa có sự tích của đền Đồng Bằng hay ở phủ Ứng Thiên với tên thần Đổng Vĩnh. Đặc biệt là 1 trong năm vị ở đây có tên Cao Mang (cũng như Câu Mang), trùng với tên của vị Đông phương Thương đế trong bộ Ngũ đế Thiên hoàng của Đạo Giáo.

Thật bất ngờ khi nhận ra hình tượng các vị thần Đạo Giáo trên đồng kính thời Hán lại là tiền thân của Ngũ vị Tôn quan trong Công đồng Tứ phủ Việt Nam ngày nay.

Thần Cao Mang (Câu Mang) là vị thủy thần được thờ phổ biến ở các tỉnh Hà Nam, Nam Định và Ninh Bình. Thần tích thường kể đây là vị tướng thời Hùng Vương, chống giặc Thục cùng với những vị tướng khác. Câu Mang còn là vị thần được làm tượng trong lễ tế Xuân ngưu ở kinh thành Thăng Long thời Lê, bởi phương Đông là phương đại diện cho mùa xuân sinh sôi nảy nở.

Khu vực Thuận Thành, Bắc Ninh cũng có tục thờ Ngũ phương yết đế. Đình làng Nghĩa Vi ở xã Hoài Thượng thờ 3 vị thần:

  • Tây phương Bạch đế
  • Bắc phương Hắc đế
  • Nam phương Xích đế.

Trong đình do đó có 3 con ngựa gỗ cùng màu với mỗi vị Yết đế. Ba vị thần này đã hiển linh khi Trưng Vương lập đàn cầu khấn Tản Viên Sơn Thánh ở Hát Môn và phù trợ Trưng Vương dẹp giặc.

Cạnh làng Nghĩa Vi là làng Bình Cầu thờ vị thần là Đông Hải Đại vương, tức là vị trí phía Đông còn thiếu trong 3 hướng đã có thờ ở đình Nghĩa Vi.

Làng Thiên Lộc, Trung Chính, Lương Tài, Bắc Ninh xưa thờ 5 vị thần hiển ứng phù giúp Tô Hiến Thành phá Tống thời Lý Anh Tông. 5 vị thần hiển mộng, tự xưng là:

  • Anh em chúng ta vốn là dòng dõi Lạc Long Quân họ Hùng, vâng mệnh thiêng của Thiên đình, núi sông cùng nhau, âm dương hợp đức ở tại miếu trang khu Nhuế Đông, tên gọi thứ nhất là Bản cảnh Thành hoàng Sàng Hoàng Hiển Ứng Đại vương, một là Bản cảnh Thành hoàng Uy Vũ Linh ứng Đại vương, một là Bản cảnh Thành hoàng Đô Thiên Đương Đình Đại vương, một là Bản cảnh Thành hoàng Tam Lang Thuỷ Tế Đại vương, một là Bản cảnh Thành hoàng Thái Ất Linh Thông Đại vương. 

Xét theo Ngũ hành thì vị Sàng Hoàng Hiển Ứng là ở vị trí Trung tâm, màu Vàng (Hoàng). Vị Tam Lang Thủy Tế trong sắc phong được gọi là Linh Lang, chiếm vị trí hướng biển Đông, số 3. Vị Thái Ất còn có tên là Đắc Thủy Thái Ất, chiếm hướng Bắc bởi số 1 (Thái Ất) và hành Thủy (đức Thủy). Còn lại hai vị Uy Vũ Linh Ứng và Đô Thiên Đương Đình sẽ ứng với 2 phương vị còn lại là hướng Nam và hướng Tây.

Các biến thể của Ngũ đế Thiên hoàng hay Ngũ vị tôn quan trong các sự tích và di tích ở miền Bắc Việt còn gặp ở nhiều nơi. Như Tứ vị Lôi Oanh hiển ứng giúp Cao Biền đánh giặc Nam Chiếu ở Hưng Hà, Thái Bình, hay Năm anh em chàng Vịt cầm nghĩa kỳ thời Trưng Vương ở Thanh Lãng, Vĩnh Phúc…