Trong số các vị thượng đẳng thần được thờ phổ biến ở miền Bắc nước ta thì Quý Minh là một trong những vị thần có số nơi thờ cúng rất lớn. Thống kê theo danh mục thần tích thần sắc trong Viện thông tin khoa học xã hội cho con số 502 nơi có thờ thần Quý Minh. Sự tích về vị thần này ở các nơi thờ xem ra có vẻ tương đối thống nhất, rằng Quý Minh là người em họ của Tản Viên Sơn Thánh, đã cùng Tản Viên và Cao Sơn đánh giặc Thục giúp vua Hùng Duệ Vương. Danh tướng Quý Minh được phong là Hữu kiên thần của Sơn Thánh. Tuy nhiên, cũng nan giải như chuyện về Tản Viên Sơn Thánh, hay sự đa dạng phức tạp các nhân vật có tên Cao Sơn Đại vương, trong cái tên Quý Minh Đại vương không phải chỉ có một nhân vật lịch sử duy nhất được thờ phụng.
Ở một số nơi như ở Bình Lục hay Lý Nhân, Hà Nam, Quý Minh được kể là người con của Lạc Long Quân và Âu Cơ, tương tự như trường hợp của Cao Sơn. Điều này cũng khó giải thích như việc Tản Viên Sơn Thánh chỗ là con của Lạc Long Quân, chỗ lại là ở thời Hùng Duệ Vương đời cuối. Cách hiểu rõ ràng là trong tên gọi Quý Minh Đại vương phải có ít nhất 2 nhân vật sống và lập công nghiệp ở 2 thời điểm khác nhau, một vào đầu thời kỳ Hùng Vương và một vào cuối thời kỳ này.
Rắc rối hơn là ngoài vị Quý Minh Đại vương thuộc dòng Sơn thần (theo Tản Viên Sơn Thánh), thì có khá nhiều nơi Quý Minh được thờ như một vị Thủy thần. Tên hiệu thường được tôn phong của Quý Minh là Đông Hải Đại vương, là dẫn chứng cho bản chất Thủy thần của thần Quý Minh.
Tấm bia Tôn thần sự tích bi chí của đền Nam Lạng ở Trực Tuấn, Trực Ninh, Nam Định ghi: Đại vương húy là Tuấn, tên tự là Quý Minh, là em của thần núi Tản Viên. Vương cùng với Tản Viên Quân từ biển đi từ cửa khẩu Thần Phù mà về qua đất xã ta thì có dừng xe nghỉ. Tiếp đó lại đi đến bến Đông Hải Long Đỗ, rồi yêu thích nơi cao ráo đó nên nghỉ ngơi mà hiển thánh rạng rỡ. Đời sau rất linh dị nên phong là Thượng đẳng thần. Thiên hạ chúng sinh rất sùng kính phụng thờ. Đền chính ở tại hai giáp Đông Đoài, phường Đông Hà, huyện Thọ Xương. Triều trước mỗi năm vào mùa xuân đều sai quan đến tế lễ.
Đền thờ Quý Minh Đại vương ở Hà Nội trước đây là đình Đông Hà ở số 46 phố Hàng Gai. Đây là ngôi đền tham gia vào lễ tế xuân ngưu hàng năm dưới thời nhà Lê (theo Phạm Đình Hổ).
Câu đối đền Nam Lạng nói về tích Quý Minh đi từ cửa khẩu Thần Phù và hiển linh dẹp yên hổ báo ở núi Chúc:
Cửa biển Thần Phù chim bay đến Đầu non Ngọc Chúc hổ chạy xa.
Chi tiết đáng chú ý trong sự tích đền Nam Lạng là việc thần Quý Minh đi từ cửa biển Thần Phù lên bến Đông Hải ở Long Đỗ, rồi hiển hóa tại đó. Chi tiết này cho thấy rất rõ Quý Minh là một vị Thủy thần sông biển, đồng thời cũng giải thích tên gọi Đông Hải Quý Minh và chỉ ra mối liên hệ giữa Quý Minh và vùng Long Đỗ (tức là vùng hồ Tây ngày nay). Di tích thờ Quý Minh ở vùng ven hồ Tây là đình Đông Xã nay nằm trên đường Thụy Khuê ở Hà Nội.
Vị Hữu kiên thần Quý Minh còn có tên là Lãng Nhạc. Chữ Lãng nghĩa là sóng nước, đối lập với tên Nộn Nhạc (Nộn hay non, chỉ núi) của Tả kiên thần Cao Sơn. Như thế trong cặp Cao Sơn – Quý Minh thì Cao Sơn là Sơn thần, còn Quý Minh là Thủy thần.
Kiên thần hiệp lực bình Thục kiến hồng huân, tố tự Hùng triều sổ thiên tải hất kim, Nhạc phủ uy thanh do hách hách. Tây quận hồi sư đằng vân phi hạc giá, ngật nhiên Thiên Nam đệ nhất phong chi hữu, Lãng sơn linh tích tự y y.
Dịch là:
Kiên thần chung sức dẹp Thục dựng cơ đồ, chính từ triều Hùng mấy ngàn năm đến nay, tiếng uy Nhạc phủ còn vang dội Quận Tây rút quân đi mây cưỡi xe hạc, tự nhiên trời Nam một ngọn đầu bên phải, tích thiêng núi Lãng vẫn như nguyên.
Trong Tản Lĩnh ngọc ký kể tới 2 lần Tản Viên dẫn các tướng và quân của Hùng Vương chống Thục. Lần thứ nhất Tản Viên Sơn Thánh chặn quân Thục ở Mộc Châu, được một thiên tướng cầm ốc tù và giáng xuống giúp mà phá tan giặc. Lần thứ hai quân Thục tổng tấn công, chia làm 5 đạo, theo các đường thủy bộ tiến vào. Sơn Thánh chia các tướng ra chống cự theo từng đạo quân. Quý Minh Đại vương thường là phụ trách chống đạo quân thủy của quân Thục tiến vào theo đường cửa Hội Thống ở Hoan Châu. Sau lần chống giặc thứ hai thì Hùng Vương được Sơn Thánh khuyên nhường ngôi cho Thục Vương, chấm dứt 18 đời Hùng Vương.
Điểm qua các sự tích về Quý Minh Đại vương và so sánh với lịch sử của thời kỳ Hùng Vương (Lạc Vương) thì có thể nhận thấy, thực ra có 2 nhân vật Quý Minh ở 2 giai đoạn Hùng Vương khác nhau. Vào đầu thời Hùng Vương, bộ ba Tản Viên Sơn Thánh là đại diện cho 3 dòng tộc. Dòng Tản Viên đứng đầu là Kinh Dương Vương làm chủ toàn bộ thiên hạ sau khi nhận ngôi từ vua Hùng theo cách truyền hiền (truyền ngôi cho con rể). Tả kiên thần Nộn Nhạc Cao Sơn, đại diện cho nhóm người ở vùng miền núi, được gọi là Sơn thần. Hữu kiên thần Lãng Nhạc Quý Minh đại diện cho nhóm người ở vùng sông nước ven biển, được coi là Thủy thần.
Ở giai đoạn đầu, sau khi Kinh Dương Vương Tản Viên Sơn mất, đã xảy ra một cuộc xung đột giữa con của Kinh Dương Vương là Lạc Long Quân với chính dòng vua Hùng (Đế Nghi) để giành vị trí làm chủ thiên hạ. Lạc Long Quân là nhờ vào sự giúp đỡ của bên mẹ là tộc người vùng sông biển (Long Nữ Động Đình) đã đánh đuổi Đế Lai mà lên ngôi Vua cha, làm chủ cả thiên hạ. Đây là cuộc chiến Hùng Thục lần thứ nhất, với thắng lợi của dòng Hùng Vương (Lạc Long Quân).
Trong cuộc chiến lần thứ nhất này Quý Minh là đại diện của nhóm người vùng sông nước nên đã theo phe của Long Quân chống lại quân Thục, đuổi nhóm tộc người miền núi Đế Lai – Âu Cơ phải di rời, chạy đi xa hơn về phía Tây. Thần tích Việt gọi nhóm Thục này là Hồ (Hồ Tôn, Tây Hồ), Di (Tử Di), hay có khi là Chiêm vì chính gốc ban đầu của nhóm trên núi này ở phía Tây Nam nước ta. Sự tích kể thành Hữu kiên thần Quý Minh dẫn thủy quân đánh giặc Chiêm, Hồ ở cửa Hội Thống.
Chú ý là Quý Minh trong giai đoạn này không phải là một trong số những anh em cùng mẹ sinh cùng bọc của Lạc Long Quân, bởi Quý Minh đứng ở bậc cha chú so với Lạc Long Quân, ngang hàng với Kinh Dương Vương (Tản Viên Sơn Thánh). Ngũ vị tôn quan hay Lục bộ thủy phủ cùng sinh với Lạc Long Quân trở thành các vị quan trấn trị các nơi trong Thủy phủ. Còn Quý Minh Đại vương là đại diện chung cho dòng Thủy phủ Động Đình, không đi trấn trị các nơi như các vị tôn quan Thoải phủ. Cao Sơn – Quý Minh là cặp lưỡng nghi Âm – Dương, lên rừng xuống biển, hay bộ Tam Tài – Tam vị Tản Viên. Đây là giai đoạn trước khi phân chia lần nữa thành Tứ tượng hay Ngũ hành như trong bộ Ngũ vị tôn quan.
Khu vực thờ Quý Minh dưới hình thức là Thủy thần, tức là Quý Minh của thời kỳ đầu Hùng Vương, là các vùng sông nước ở Hà Nội, Hà Nam, Ninh Bình, Nam Định, Hải Phòng, Thái Bình, Hải Dương. Điển hình, Thủy thần Quý Minh trở thành một trong Hoa Lư tứ trấn, thờ tại đền Trần trong cụm di tích danh thắng Tràng An. Chữ “Trần” ở đây không phải là họ, mà hàm nghĩa là phía Đông (chiết tự chữ Trần là Đông A), tương tự tên gọi Đông Hải Đại vương của Thủy thần Quý Minh.
Ở giai đoạn cuối thời Hùng Vương, trận chiến giữa Hùng và Thục lần thứ 2 là cuộc tấn công của dòng lên núi theo Đế Lai – Âu Cơ đã bị đuổi đi trước đây, quay lại chiếm vùng đất Lạc xưa. Thủ lĩnh vùng đất Lạc lúc này là một trong Tứ bá hầu của nhà Ân Thương, được biết với tên là Bắc Bá hầu Sùng Hầu Hổ. Sùng Hầu Hổ cùng với những người anh em của mình đã đánh chặn cuộc tấn công của Thục Vương Cơ Xương (Âu Cơ), nhưng cuối cùng thất trận. Vua Hùng cuối cùng là Ân Trụ Vương đã buộc phải “nhường ngôi”, trả lại vùng đất Lạc cho dòng Âu lên núi. Thục Vương về lại Phong Châu, lập nên nước Âu – Lạc.
Sùng Hầu Hổ được sử Việt gọi là Sùng Lãm, hay cũng là Sùng Công Cao Sơn, bởi chữ Cao cũng có nghĩa là Sùng. Như thế người anh em họ Sùng của Cao Sơn lúc này là Quý Minh. Có thể thấy vị Quý Minh ở thời điểm sau không có tính chất Thủy thần như thời kỳ đầu, mà là Sơn thần cùng với Cao Sơn. Khu vực các di tích thờ các sơn thần Cao Sơn Quý Minh chủ yếu ở các tỉnh vùng trung du như Bắc Ninh, Bắc Giang, Vĩnh Phúc, Thái Nguyên, Yên Bái, Lạng Sơn, một phần Hưng Yên, Quảng Ninh.
Một dẫn chứng cho nhận định trên là việc thờ Quý Minh ở đền Phú Mẫn trên núi Hàm Sơn ở thị trấn Chờ, Yên Phong, Bắc Ninh. Đền Phú Mẫn còn có mộ Quý Minh Đại vương, tương truyền do ngài đi đánh giặc đã về hy sinh ở đây. Không xa thị trấn Chờ là núi Thất Diệu, nơi có đền Bạch Kê cùng với những “quỷ núi” hiện hình phá Thục An Dương Vương xây thành Cổ Loa. Truyện Rùa Vàng trong Lĩnh Nam chích quái nói: Cái tinh khí ở núi này là con vua đời trước, muốn báo thù cho nước. Lại có con gà trắng sống lâu ngàn năm, hóa thành yêu tinh ẩn ở núi Thất Diệu. Trong núi có ma, đó là hồn người nhạc công triều trước chôn ở đây. “Tinh khí ở núi” là con vua đời trước, cùng với “Nhạc công triều trước” rõ ràng tương ứng với Cao Sơn, Quý Minh thờ ở đền Chờ gần đó.
Tất nhiên việc phân định Quý Minh nào là Thủy thần thời Kinh Dương Vương, Quý Minh nào là Sơn thần thời Hùng Duệ Vương không phải lúc nào cũng rõ ràng ở các di tích. Vị Quý Minh trong bộ ba vị Tản Viên là cổ thần từ thời dựng nước nên thường được thờ rộng rãi hơn, cả dưới hình thức là Sơn thần lẫn Thủy thần, hay là Nhiên thần nói chung. Vị Quý Minh cuối thời Hùng Vương có phạm vi thờ hẹp hơn, chủ yếu ở những nơi xảy ra cuộc chiến giữa nhà Chu (Âu Thục) với nhà Ân (Hùng Lạc) dưới dạng là Nhân thần.
Nhận định Quý Minh là thủy thần trong Tam vị Tản Viên, từng đi từ Thần Phù về Long Đỗ (hay Long Biên) còn có thể giải mã được vị thần quan trọng khác của miền Bắc Trung Bộ. Đền Nhân Phẩm ở xã Yên Lâm, Yên Mô, Ninh Bình là đền Thần Phù Hải Khẩu, thờ Áp Lãng Chân Nhân, Triệu Việt Vương. Ở vùng ven biển Ninh Bình – Nam Định Quý Minh là vị thần đã báo mộng và trao móng rồng cho Triệu Việt Vương trong sự tích đầm Dạ Trạch. Ở đền Nhân Phẩm vị thần này được gọi là Cao Các Quý Minh Đại vương. Đây là bằng chứng rõ ràng cho thấy vị thần Cao Các được thờ phổ biến ở vùng Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh và cả các tỉnh miền trong chính là Quý Minh, vị thần đại diện cho nhóm người miền sông nước trong bộ ba Tản Viên.
Thần Cao Sơn, Cao Các ở miền Thanh Nghệ như vậy tương ứng là hai vị thần Cao Sơn, Quý Minh như tục thờ ở miền Bắc. Cao Sơn – Cao Các hay Cao Sơn – Quý Minh là cặp đôi lên rừng xuống biển, đại diện cho các nhóm người sinh sống trên đất nước thời dựng nước. Bởi vậy mà các vị thần này trở thành Thượng đẳng thần, được thờ rất phổ biến ở nhiều nơi. Trong sự tích về Tản Viên, Quý Minh đã dẫn quân thủy chống giặc tiến vào ở cửa Hội Thống, Hoan Châu, nên việc Nghệ Tĩnh thờ Quý Minh dưới tên Cao Các là hoàn toàn dễ hiểu.
Ngoài ra, tín ngưỡng ở miền Trung còn có bộ ba Cao Sơn, Cao Các, Mạc Sơn. Bộ ba này tương ứng với ba vị Tản Viên: Cao Sơn, Quý Minh và Tản Viên. Mạc Sơn hay Mạch Sơn, cũng là Lạc Sơn, chỉ Lộc Tục Kinh Dương Vương như trường hợp của đền Hội ở Nghi Lộc, Nghệ An.
Vào thời lập quốc họ Hồng Bàng, 3 nhóm tộc người đã hợp nhất, tôn Tản Viên Sơn Thánh là Kinh Dương Vương, cùng với đại diện của 2 vùng sông – núi là Cao Sơn và Quý Minh Đại vương. Cao Sơn, Quý Minh hay Cao Sơn, Cao Các đã trở thành biểu tượng thần thánh, tổ tiên của người Việt, mãi được tôn kính phụng thờ trên cả vùng đất Lạc ở miền Bắc và đất Hồng ở miền Trung.
Đình Nhân Phẩm, Yên Lâm, Yên Mô, Ninh Bình.Tôn thần sự tích bi chí ở đền Nam Lạng, Trực Ninh, Nam Định.Bia trên mộ Quý Minh Đại vương ở đền Phú Mẫn, Chờ, Yên Phong, Bắc Ninh.Đền Bàu Lối, Cửa Lò, Nghệ An, một trong những nơi thờ Cao Sơn Cao Các.
Ghi chép của trưởng tộc họ Nguyễn tại Thượng từ đường ở Cổ Lôi
Quyển tập thứ hai
Năm Tân Mùi Thái Bình Thiên Quốc, vào ngày lành tháng giữa mùa xuân Đinh Tiên Hoàng nhờ ta triệu tập 12 sứ quân hợp nhất, cùng tôn Đinh Bộ Lĩnh làm Thiên tử. Đến ngày 12 tháng 2 Đinh Tiên Hoàng cùng các tướng đến nhà thờ làm lễ báo ơn công đức các vị tiên tổ Bách Việt, sơn thủy bách thần triều Hùng Vương. Lại phong cho ta cùng người em Nguyễn Bặc làm Quốc công, lập ban thờ, trùng tu miếu điện, cấp chia ruộng để muôn năm hương khói phụng thờ.
Thiết nghĩ, thân cây lớn vạn lá vốn là nhờ có gốc. Nước có ngàn dòng, vạn dòng vốn là nhờ nguồn. Vật còn như thế huống chi con người sinh ra kế thừa sự tốt lành từ tiền nhân mới thịnh vượng mà tỏa đi được xa vậy. Ngưỡng trông tổ tiên ta lấy cần cù mà vun gốc, lấy chắt chiu làm nguồn cho phong tục, tích đức, tích nhân. Không có điều đó thì con cháu làm sao có mà kế thừa. Là con cháu há chẳng nhớ về ngọn nguồn, tìm đạo xa xưa? Vì vậy phải viết lại thành gia phả. Phàm là mộ tổ tiên tại nơi nào, ngày giỗ kỵ là khi nào cùng với các chi nhánh, thế thứ đều có thể ghi lại trong đó, để người kế tự về sau nắm được. Nắm được để mãi mãi noi theo.
Các đời tổ sư xứ Cửu Liên Hoa
Tổ ta từ chân núi Tản Viên dựng nghiệp các nghề thầy thuốc, làm ruộng, trồng dâu, nung gốm, đúc kim khí ở tại Tây Vực, giáo hóa chúng sinh ở Tây Phương Cực Lạc, mở nhà truyền kinh, có công dựng nước, có đức giữ dân, nên người đời sau tôn xưng các tên gọi Tiên Phật để phụng thờ. Toàn thế giới đều chịu ơn lớn, cùng sự tôn sư trọng đạo mà xin làm đệ tử, cùng nhau truy niệm tổ ta ở trong các ghi chép của đền Thần, chùa Phật.
Từ núi Tản Viên đến Tây Phương Cực Lạc, Sài Sơn, Thổ Ngõa, Phụng Châu, Tiên Lữ, đến Phong Châu đất chủ tạo thành thế đất tứ linh Long, Phụng, Ly, Quy. Ba đầu (ba tán) chín lớn (chín miếu tại Phong Châu chính là chín con rồng) đời đời mãi soi. Tứ linh cùng với hình Cửu long là tượng trưng cho địa thế. Tổ ta đóng đô tại Lôi Bằng, rồi đến Lôi Phong, Lôi Đỉnh (Lôi Bằng là nơi định đô thời sơ khai. Lôi Phong là thời Kinh Dương Vương. Lôi Đỉnh là thời Triệu Vũ Đế).
Buổi sơ khai tên nước là Cực Lạc, phật hiệu là Di Đà, sinh ra ở Hòa Bình, ở tại núi Tản Viên, hóa ở Tây Phương Cực Lạc, mộ ở mặt trước núi. Giỗ ngày mùng 1 tháng Tư.
Đế Thiên (Phục Hy), mộ tại Thiên Thị núi Sài, Quốc Oai, Sơn Tây. Ngày giỗ mùng 4 tháng Tư.
Địa Mẫu mộ tại Cực Lạc, bên trái chân núi. Ngày giỗ mùng 1 tháng Tư.
Đế Viêm dùng lửa luyện kim loại cùng với làm gốm, dùng kết thừng làm văn tự, khởi đầu vạch ra Bát quái, phân định Âm Dương, Ngũ hành, thực là người đã khai mở vận hội văn minh vậy.
Địa Mẫu dạy dân cầy cấy, chuyện nghề nông tang, cứu khổ chúng sinh nên đời sau truy tôn là Địa Mẫu Chân Tiên.
Đế Viêm bị một học trò tên là Hiên Viên làm phản, đuổi Đế Viêm ra ngoài nước. Do tuổi cao sức yếu, ngày mất trên đường đi về nước Bắc, hóa ở núi Thổ Ngõa.
Đế Khôi hiệu là Thần Nông, hóa tại Phụng Châu, sau cải táng đưa về chôn trong giếng huyện Đình Sở, Quốc Oai (núi Tiên Lữ, đất Cổ Pháp). Các cụ ông cụ bà đều được chôn ở đất ấy. Ngày giỗ mùng 6 tháng Sáu tại các đền thần, gọi là lễ Hạ điền. Các tiết trong năm như Thượng điền, Hạ điền, cơm mới đều làm lễ báo ơn đức trên toàn cõi Đông Á.
Hữu Sào, Toại Nhân vốn là bạn của Đế Viêm. Khi Hiên Viên làm phản gây loạn, hai vị dùng quân đánh thắng, đuổi Hiên Viên ra ngoài biên cương. Từ đó ông ta tự lập nước ở phương Bắc, tự xưng là Hoàng Đế, đóng đô tại Trường An. Từ đó Hiên Viên dựng nghiệp, giáo hóa chúng sinh, học điều hay làm nông tang, văn tự, luyện kim, nung gốm như nước Nam.
Hữu Sào, Toại Nhân nhiếp chính, trợ giúp Thần Nông giữ nước, giữ dân. Đến khi Thần Nông trưởng thành, lên ngôi là Thiên tử, đóng đô tại Phụng Châu, Long Môn, núi Trầm. Hai vị cáo lão về quê ở tại Sào Vực, chợ Thổ Long, huyện Chương Mỹ, hóa tại đất đó.
Bà mẹ nuôi là nàng Diệu Trinh cùng với ba vị vương tử, văn võ kiêm toàn, giúp Thần Nông bảo vệ vạn dân.
Đế Tiết sinh ở Phụng Châu, hóa ở Thanh Lãm, mộ tại Hoàng Anh Mộc, lễ chính ngày mùng 9 tháng Giêng. Các hoàng hậu, vương phi đều chôn cất tại đó.
Đế Thừa Sở Minh Công sinh tại núi Sở, nên có tên là Sở Minh Công, lên kế ngôi, đế hiệu là Đế Thừa, hóa tại núi Sở, Tiên La, bãi Thuần Lãm. Các hoàng hậu, hoàng phi đều an táng ở khu đó. Giỗ ngày mùng 1 tháng Sáu.
Đế Minh (con trưởng của Đế Thừa), húy là Nguyễn Minh Khiết (sinh tại đất chủ Tiên La tại Định Công, Hà Nội). Ngày giỗ là 12 tháng 2. Mộ chôn tại chân núi Định Công. Hoàng phi, mĩ nhân đều chôn ở khu đó.
Đế Minh lấy nàng Vụ Tiên. Bà sinh tại hồ Tây, hóa tại Phong Châu, chôn tại trong chùa Đại Bi, làng Ỷ La.
Đế Minh lấy thứ phi mà quên tình nàng Vụ Tiên. Bà cùng với 8 người anh em đến động Tiên Phi ở tỉnh Hòa Bình tu hành, giáo hóa chúng sinh. Đến khi Kinh Dương Vương trưởng thành kế ngôi, Vương đón Thánh mẫu trở về Phong Châu tu hành ở chùa Đại Lôi Âm. Bà sinh ngày mùng 8 tháng Tư, hóa ngày 15 tháng Bảy. Đời sau tôn húy là Hương Vân Cái Bồ tát, Sa Bà Giáo chủ, có công sáng lập đạo tên là Bà La Môn. Mộ tại Ỷ La, thành Đại La. Trong đạo Tiên tôn gọi là Thánh Mẫu Đệ Nhất Thiên Tiên, một bầu sinh ba thánh.
Đế Thừa Sở Minh Công sinh ba con trai:
Thứ nhất là Nguyễn Minh Khiết, húy là Đế Minh, làm Hoàng đế phương Nam.
Thứ hai là Nguyễn Nghi Nhân, làm Đế Nghi ở Trung quốc.
Thứ ba là Nguyễn Long Cảnh, hiệu Lý Lang Công Ba Long Đại vương, hóa tại thôn Nguyệt Ánh.
Từ cổ đến đó chỉ có 1 nước, nay phân làm 3 nước, tất có 3 vị vua, cho nên Kinh Dương Vương dùng ba chữ Vương hợp thành một chữ, tức là nước Xích Quảng. Đời sau gọi ba vị là Tam tòa Đức chúa ông. Đạo Tiên gọi là phủ – Tam phủ Công đồng.
(Dịch thep bản chụp chữ Nho từ ngọc phả họ Nguyễn ở tống Xốm Bình Đà)
Giai đoạn lịch sử tiếp theo Bách Việt triệu tổ cổ lục được ghi chép trong Cổ Lôi ngọc phả truyền thư, lưu giữ ở nhà thờ họ Nguyễn tại tổng Xốm (Bình Đà). Cổ Lôi ngọc phả chép: Hùng Duệ Vương sinh được 12 người con trai, 6 con gái. Thời kỳ đầu vua thông minh chính trực, nhưng từ khi lấy con gái họ Lê thì đam mê tửu sắc, bị Thục Vương, Cao Thông và Nồi Hầu lừa cho uống rượu say. Lại bị con gái họ Lê là cô ruột Lê Phán sai khiến, nên đến nỗi giết hết cả các con trai, con gái, con rể. Rồi mang họa diệt thân, đến lúc chết vẫn còn say chưa tỉnh.
Đoạn kể này mô tả không khác gì vị vua cuối cùng của nhà Ân là Trụ Vương, một người có sức khỏe phi thường, nhưng sau vì ham mê Đát Kỷ, đã giết vợ, diệt con, cuối cùng mất nước trong tay Vũ Vương Cơ Phát. Cơ Phát là vị vua đầu của nhà Chu, khởi sự từ vùng đất phía Tây, nên cũng tương đương với Thục (Thục là hướng mặt trời lặn). Cơ Phát là Lê Phán trong Cổ Lôi ngọc phả. Ân Trụ Vương là vị vua Hùng đời cuối (theo dòng Lạc Long Quân), tức là Hùng Duệ Vương.
Việc vua Hùng say mê một bà phi gây ra loạn mất nước cũng được Hùng Vương Thánh Tổ ngọc phả kể đến qua chuyện bà vu nữ. Hùng Vương do nghe lời vu nữ, xúc phạm đến thiên uy, gây ra nạn dịch bệnh và binh đao trong cuộc chiến với giặc Ân. Có thể thấy bà vu nữ này và bà cô họ Lê trong Cổ Lôi ngọc phả là một. Đây là vị Ma Cô Tiên, phi nhân của vua Ân trong Truyện Giếng Việt ở núi Vũ Ninh.
Khi xác định được thời điểm của câu chuyện giữa Hùng Duệ Vương và Thục Lê Phán là cuộc chiến thay đổi triều đại từ Thương sang Chu trong Hoa sử thì những nhân vật liên quan trong Cổ Lôi ngọc phả cũng được sáng tỏ. Cổ Lôi ngọc phả kể giai đoạn này có 2 phe Hùng và Thục. Phe phía Hùng Vương có con trai của Lạc tướng Nguyễn Phục là Đông Hải đại vương, lấy công chúa Xích Vân. Tiếp đó là ba anh em Sơn Thánh Nguyễn Tuấn, Cao Sơn và Quý Minh, trong đó Nguyễn Tuấn lấy công chúa Ngọc Hoa. Phía Lê Phán có hai tướng là Cao Thông và Nồi Hầu.
So sánh với chuyện Phong thần diễn nghĩa thì đây là 2 phe Xiển giáo và Triệt giáo. Anh em Sơn Thánh Nguyễn Tuấn, Nguyễn Hiển, Nguyễn Sùng thì đã biết là anh em của Sùng Hầu Hổ, Bắc bá hầu nhà Ân. Cao Sơn Quý Minh cũng là “quỷ núi” được nói đến trong chuyện An Dương Vương xây thành Cổ Loa, hiện hình phá thành xây ở núi Thất Diệu. Cổ Lôi ngọc phả cũng kể đến việc Nguyễn Tuấn cho người đến phá việc xây thành Ốc do Lê Phán chủ công.
Đông Hải Đại vương tương ứng là Thân Công Báo, là quốc sư phía nhà Ân. Thân Công Báo khi phong thần có tước hiệu là Đông Hải phân thủy tướng quân. Thân Công Báo cầm đầu quân đội của nhà Ân nên trong huyền sử Việt được kể là Thạch Linh thần tướng.
Về phía Thục, Cao Thông hay Cao Lỗ là Chu Công Đán, người em của Chu Vũ Vương Cơ Phát. Chu Công được phong ở đất Lỗ, nên gọi là Cao Lỗ (thủ lĩnh nước Lỗ). Cao Thông thiết Công, là tên của Chu Công. Chu Công là người đã đặt ra lễ nhạc, viết các lời hào trong Kinh Dịch, được kể thành Cao Thông chế tác nỏ thần.
Vị Nồi Hầu theo Cổ Lôi ngọc phả là một thợ đúc đồng giỏi trong nước, được triệu về kinh đô là chức quan trông nom việc đúc các vật dụng bằng kim loại. So sánh tương ứng thì đây là Lã Vọng Khương Tử Nha, người từng được Trụ Vương triệu vào cung để làm chức quan quản lý việc xây dựng đền đài cung điện. “Pháp thuật” của Khương Tử Nha có lẽ chính là ở khả năng “luyện kim”, đúc đồng này. Và cũng chỉ có Khương Tử Nha thì mới tương đương để đối đầu với Thạch Linh thần tướng Thân Công Báo.
Dù xác định thế nào thì đây cũng vẫn là chuyện của 2 dòng lên rừng và xuống biển trong cuộc đối đầu Ân – Chu. Cổ Lôi ngọc phả vốn là ghi chép của dòng theo cha Lạc Long xuống biển nên khi những nhân vật của nhà Thục ở đây bị kể theo cách “dìm hàng”, khác ngược với lối kể thường thấy của Hùng Vương Thánh Tổ ngọc phả, tức là phả chép của dòng lên núi theo mẹ Âu Cơ.
Đặc biệt thú vị là thông tin của Cổ Lôi ngọc phả về Chử Đồng Tử. Chử Đồng Tử vốn là một chú bé nhà nghèo mò cua bắt ốc ở bãi Tự Nhiên, sau gặp được công chúa Tiên Dung, có tiền học tập đã trở thành một thầy lang có tiếng. Rồi sau đó được triệu về kinh đô Phong Châu làm Thái y trong hoàng cung. Chử Đồng Tử vừa mới lấy được công chúa Tiên Dung thì bị vua Hùng nghe lời dèm pha mà đuổi đi. Trong một đêm Chử Đồng Tử bị giết chết ở bãi Tự Nhiên… Còn công chúa Tiên Dung đi tu ở chùa Hương Tích.
Nếu xét trong bối cảnh nhà Chu thì vị Chử Đồng Tử của Cổ Lôi ngọc phả này chính là Lão Tử. Lão Tử vốn xuất thân là dân thường ở vùng Hà Nam (Phủ Lý – Kim Bảng), sau làm quan Thủ thư cho nhà Chu và cũng là vị thầy thuốc giỏi, chữa bệnh dịch (Xích Tị) cho người dân. Lão Tử cũng có quan hệ với một vị công chúa nhà Chu, được kể trong tích bà chúa Ba Diệu Thiện. Công chúa Diệu Thiện bị ép duyên, bỏ đi tu chính xác cũng ở chùa Hương Tích, trở thành Nam Hải Quan Âm. Trong tích Diệu Thiện, Lão Tử được kể là vị thầy thuốc Triệu Chấn đi theo công chúa. Lão Tử ở nước ta được tôn thờ với tên Huyền Thiên Trấn Vũ, do sự tích trừ yêu diệt quỷ ở núi Sái tại Cổ Loa.
Cuối thời nhà Thục là chuyện về nhà Triệu. Cổ Lôi ngọc phả kể: Nguyễn Thận là con trai Hùng Dực Công và bà Trần Thị Quý người làng Chân Định, sau lại lấy vợ kế là và Nguyễn Thị Sinh. Hùng Dực Công là em ruột Hùng Duệ Vương. Mẹ chết Nguyễn Thận về Chân Định, cùng Chử Đồng Tử nương tựa vào nhau, mò cua bắt ốc ở bãi Tự Nhiên. Nhâm Hiêu là một tướng Tần gặp Nguyễn Thận thì dẫn theo ra biên ải. Chị ruột của Nhâm Hiêu lấy viên Thái giám họ Triệu tên Cao, không có con, bèn đem Nguyễn Thận cho Triệu Cao nuôi, đển tên họ là Triệu Đà.
Chuyện về Triệu Đà Nguyễn Thận trong Cổ Lôi ngọc phả không khác gì chuyện về Triệu Quang Phục mới được biết đến gần đây qua thần tích ở Hạ Mạo (Lâm Thao, Phú Thọ). Quang Phục vốn là dòng dõi quý tộc nhà Chu, có cha là em của Hùng Duệ Vương được phong đất ở Quảng Tây, lấy họ Lê, gọi là Lê Hùng Ánh. Khi nhà Hùng bị diệt, Lê Hùng Ánh tự lập xưng là Hậu Hùng Vương. Hậu Hùng Vương cử con là chàng Út Ngọ cùng với Triệu Vũ Đế chống Tần. Như thế Hậu Hùng Vương tương ứng với Hùng Dực Công, Triệu Vũ Đế tương ứng với Triệu Cao, Út Ngọ Lôi Mao tương ứng Nguyễn Thận ở Cổ Lôi. Chú ý vị Út Ngọ Lôi Mao hay Triệu Quang Phục này là Triệu Đà, người xưng Đế nước Nam Việt. Còn vị Triệu Vũ Đế ở đền Đồng Xâm, Kiến Xương Thái Bình là Triệu Cao, tức là Cao Tổ Lưu Bang, hay Lý Bôn của sử Hoa Việt.
Còn một nhân vật nữa trong chuyện này là Nguyễn Công Trọng hay Trọng Thủy, liên quan đến nhà Tần. Thực ra chuyện Trọng Thủy làm con rể An Dương Vương là kể về cuộc chiến giữa Thục và Tần, hay việc nhà Tần thay thế nhà Chu. Vị vua Thục cuối cùng đóng đô ở Cổ Loa là Đông Chu Quân, đã bị quân Tần diệt. Trọng Thủy là Tần Trang Tương Vương hay Dị Nhân Doanh Tử Sở đã ở rể ở đất Triệu (Chu). Con của Trọng Thủy lên ngôi, thống nhất thiên hạ, xưng là Tần Thủy Hoàng Đế. Truyền thuyết Việt gọi là Triệu Lạc Linh.
Khảo luận so sánh giữa các tư liệu ở tổng Xốm Bình Đà về cổ sử Việt tạm dừng lại ở giai đoạn này. Lướt qua Bách Việt triệu tổ cổ lục và Cổ Lôi ngọc phả truyền thư đều thấy ăn khớp với những nhân vật và sự kiện chính của Hoa sử và huyền sử Việt. Điều này là hiển nhiên vì lịch sử vốn chỉ có 1. Dù là các kể theo dòng lên núi (Hùng Vương ngọc phả) hay xuống biển (như ở Bình Đà), hay trong sử Trung Hoa thì đều là một quá khứ của người Việt.
Những ghi chép của tộc phả họ Nguyễn tại tổng Xốm Bình Đà về thời kỳ dựng nước của dân tộc ta khi đọc lên nghe rất kỳ dị, hoàn toàn không giống với những nhân vật trong huyền sử Việt (Truyện Họ Hồng Bàng). Điều này đã dẫn đến không ít những tranh cãi về tính chân thực của dòng sử “độc” truyền này. Tuy nhiên, dưới ánh sáng của Sử thuyết Hùng Việt, những câu chuyện của Bách Việt triệu tổ cổ lục, rồi Cổ Lôi ngọc phả truyền thư, đều có thể được lý giải một cách ăn khớp, chính xác với cổ sử Việt.
Tóm tắt các nhân vật theo Bách Việt triệu tổ cổ lục ở tổng Xốm Bình Đà như sau:
Thời kỳ Cực Lạc chia thành 9 họ gọi là Cửu tộc. Thời này có hai vị thủ lĩnh là ông Tứ Tượng và bà Nữ Oa. Ông Tứ Tượng là người nghĩ ra 4 quẻ đơn (Thiếu âm, Thái âm, Thiếu dương, Thái dương), còn có tên là Phục Hy, Đế Hòa hay hy Hòa, Đế Thiên Đế Thích. Sau ông bỏ lên động Tây Thiên đi tu một thời gian với Phật hiệu là A di đà. Bà Nữ Oa còn được gọi là Địa Mẫu. Thời kỳ này còn gọi là Việt Thường.
Tiếp theo là thời Viêm Bang, từ 9 họ ban đầu chia thành 72 họ. Người đứng đầu là Đế Viêm, sau gọi là Thần Nông. Có Hiên Viên ở phương Bắc đến đánh. Hai vị Hữu Sào và Toại Nhân giúp cho vua trẻ đánh giặc. Vị vua trẻ đó lên ngôi là vị Thần Nông cuối cùng tên Đế Khôi. Họ Thần Nông chuyển đến đất Tiên La ở vùng đồng bằng. Người đầu tiên là Đế Tiết đóng đô ở Tiên La. Đế Thừa là em, kế ngôi. Đế Thừa còn gọi là Sở Minh Công, đi chinh phục thêm các vùng đất mới.
Đế Thừa sinh ba người con trai là Nguyễn Minh Khiết, Nguyễn Nghi Nhân và Nguyễn Long Cảnh. Nguyễn Minh Khiết, Nguyễn Nghi Nhân là 2 anh em sinh đôi, thời trẻ đi đánh cá ở hồ Dâm Đàm, cùng đem lòng yêu thương bà Đỗ Thị Ngoan, người ở Nghi Tàm,là con gái của vị chúa hồ họ Đỗ (Long Đỗ).
Ông Nguyễn Minh Khiết vì nghi ngờ bà Đỗ Thị Ngoan có tư tình với em trai nên bỏ vợ, đi lấy một bà khác ở Khương Đình, nên còn gọi là Thái Khương Công. Bà Đỗ Thị Ngoạn mắc oan, vào động Tiên Phi xuống tóc đi tu. Đời sau gọi là Hương Vân cái bồ tát, Sa bà giáo chủ, Đức Phật Thích ca, mở đầu đạo Sa Môn. Người Mường thì suy tôn bà là Sơn trại chúa Mường.
Ông Nguyễn Nghi Nhân bị nghi ngờ nên phẫn chí đi đến vùng hồ Động Đình, lập ra nước Sở. Đời sau gọi là Đế Nghi.
Ông Nguyễn Minh Khiết kế ngôi Đế Thừa gọi là Đế Minh, đóng ở Phong Châu. Ông Nguyễn Long Cảnh là vua nước Đại Lý nên còn gọi là Lý Long Cảnh, cũng gọi là Nguyễn Nỏ.
Nguyễn Quảng là con trai Đế Minh và bà Đỗ Thị Ngoan trưởng thành, ở vùng Tử Di sơn có giặc Ma Mạc nổi dậy. Nguyễn Quảng cùng với người chú thứ ba là Nguyễn Long Cảnh và 8 người cậu họ Đỗ (Đỗ Xương, Đỗ Triệu, Đỗ Hiệu, Đỗ Cường, Đỗ Chương, Đỗ Dũng, Đỗ Bích, Đỗ Trọng, còn gọi là Bát bộ Kim cương) cầm quân đi đánh giặc. Nguyễn Quảng ở hồ Động Đình gặp gỡ hẹn ước với bà Hồng Đăng Ngàn. Sau khi dẹp giặc xong, Nguyễn Quảng trở về cưới bà Hồng Đăng Ngàn, rồi ở lại cai quản vùng này. Đời sau gọi là Kinh Dương Vương Lộc Tục.
Đến khi Đế Minh qua đời 15 bộ trong nước họp lại, cử người đi đón Kinh Dương Vương trở về kế ngôi, đặt tên nước là Xích Quỷ. Khi về nước bà Hồng Đăng Ngàn cùng chồng mang theo nghề trồng dâu chăn tằm, dệt the lụa sồi đũi, sau được tôn là Bà chúa Lĩnh hay Xích Hậu. Kinh Dương Vương đẩy nhanh việc khai phá đồng bằng, ổn định đời sống nhân dân, đưa các cung cách ứng xử vào nề nếp, quy củ. Sau khi vua hóa được dân chúng suy tôn là Ngọc Hoàng Thượng đế.
Kinh Dương Vương sinh được 5 người con trai, trong đó 1 vị chẳng may lâm bệnh mất sớm. 4 vị còn lại là Nguyễn Nghiêm tự là Pháp Phong, Nguyễn Quyền tự là Pháp Vân, Nguyễn Lãm tự là Pháp Lôi, Nguyễn Huề tự là Pháp Điện (có chỗ ghi là Sùng Nghiêm, Sùng Quyền, Sùng Lãm, Sùng Huề) .
Trong đó có người thứ tư là Nguyễn (Hùng) Lãm có nhiều tài trí nhất, sau kế ngôi là Lạc Long Quân. Lạc Long Quân lấy Âu Cơ, là cháu nội của Đế Nghi, con gái Đế Lai, khi cùng vua cha trở về thăm lại nước cũ. Đế Lai có tên là Nguyễn Như Lai. Bà Âu Cơ sau gọi là Mẫu Thoải.
Từ Lạc Long Quân kế đến thời 100 vua Hùng, 18 đời thống nhất được Bách Việt. Lạc Long Quân đổi tên nước là Văn Lang, chia nước là 15 bộ, chia dân thành trăm họ gọi Bách Việt. Con trưởng Hùng Lãm nối ngôi làm Hùng Quốc Vương. 50 vị được thờ là Thủy thần, lấy tên các con vật sinh sống dưới nước để chỉ, xưng là Vương. 50 vị được thờ là Sơn thần (tức lấy các con vật sinh sống trên cạn để chỉ), xưng là Quân.
Để giải thích được những thông tin trong Bách Việt triệu tổ cổ lục trước hết cần gạt bỏ đi sự “ám ảnh” bởi những cái tên, những danh xưng trong huyền sử. Cần nhìn nhận rằng sử Việt thời lập quốc không phải chỉ có 1 vị Kinh Dương Vương hay 1 vị Lạc Long Quân. Tất cả đây là những danh xưng, tên hiệu, nên hoàn toàn có thể là bố của Kinh Dương Vương cũng tên là Kinh Dương Vương, hay con của Lạc Long Quân cũng được gọi là Lạc Long Quân. Như thế thì cùng một tên gọi trong dòng sử ở tổng Xốm và trong huyền sử Việt không nhất thiết chỉ cùng 1 người, mà có thể chỉ những thế hệ nối tiếp nhau, mang đặc trưng của dòng tộc đó mà thôi.
Điều thứ hai cần phải gạt bỏ là việc gán những địa danh cổ sử vào những địa điểm “di tích” lăng mộ, núi sông, bến bãi… được kể tới, bởi vì những địa danh này thực chất cũng là những tên hiệu tượng trưng, chứ không hẳn là tên riêng. Với 2 cách hiểu như vậy mới có thể thoát khỏi “ma trận” của cổ sử do tiền nhân các đời, các dòng tộc trước đây dựng lên và lưu truyền.
Đầu tiên, hai vị thủ lĩnh thời “Cực Lạc”, tức là thời Thần thoại, được Bách Việt triệu tổ cổ lục nhắc đến là ông Tứ Tượng và bà Nữ Oa. Điều này cũng trùng với huyền sử Việt rằng Phục Hy và Nữ Oa là những người đã sáng tạo ra trời đất, được tôn là ông Đùng bà Đà hay Cha Trời Mẹ Đất.
Tiếp theo, sự kiện Đế Khôi, vị vua cuối của dòng Thần Nông đánh nhau với Hiên Viên, được Hữu Sào và Toại Nhân giúp đỡ, sẽ tương ứng với sự kiện trong huyền sử Việt là Đế Minh được bà Vụ Tiên (Tây Thiên) giúp đỡ đánh giặc lập quốc. Đế Minh là cháu 3 đời Viêm Đế Thần Nông, hay là vị Viêm Đế cuối cùng của họ Thần Nông.
Nối tiếp, Đế Khôi có 2 người con là anh em Đế Tiết và Đế Thừa. Điều này tương ứng trong huyền sử Việt là Đế Minh có 2 người con là Đế Nghi và Lộc Tục. 3 vị thủ lĩnh đầu tiên thời Viêm Bang được thờ tại đền Hùng Nghĩa Lĩnh với tên Đột Ngột Cao Sơn (Đế Minh), Viễn Sơn (Đế Nghi) và Ất Sơn (Lộc Tục). Thời kỳ này đóng đô ở Tiên – La, tức là cặp Nam – Bắc hay Hồng – Lạc, chỉ 2 vùng đất lập quốc thời Tam Sơn Hùng Vương Thánh Tổ.
Đế Thừa có tên là Sở Minh Công. Chữ Sở – sủy – thủy cũng là nước – nác – Lạc, chỉ hướng Nam xưa (Bắc nay), nên tương ứng với Ất Sơn Lộc Tục (Lạc tộc), người làm vua phương Nam.
Đế Thừa có 3 người con là Nghi Nhân, Minh Khiết và Long Cảnh. Ông Minh Khiết lấy bà Đỗ Thị Ngoan, là con của cụ Long Đỗ ở hồ Dâm Đàm. Sau đó do mâu thuẫn với ông Nghi Nhân nên ông Minh Khiết đã phế bà Đỗ Thị Ngoan…
Thần Long Đỗ thủy phủ hồ Dâm Đàm là vị thần chủ phương Đông, được gọi là Thủy phủ Phù Tang Cam Lâm Đại Đế, hay có chỗ là Phục Hy. Huyền sử Việt gọi vị này là Động Đình Đế Quân. Người con gái của Động Đình Đế Quân là Thần Long, Xích Lân Long Nữ, người đã lấy Kinh Dương Vương.
Như thế chuyện ông Minh Khiết ruồng bỏ bà Đỗ Thị Ngoan trong Bách Việt triệu tổ cổ lục tương ứng với chuyện Liễu Nghị và Xích Lân Long Nữ. Ông Minh Khiết do đó tương ứng với Liễu Nghị – Kinh Dương Vương trong huyền sử Việt.
Kinh Dương Vương được thờ với tên Tản Viên Sơn Thánh. Do đó bộ ba Minh Khiết, Nghi Nhân và Long Cảnh tương đương với tam vị Tản Viên gồm Nguyễn Tuấn, Cao Sơn và Quý Minh. Nguyễn Tuấn là chính dòng từ Đế Minh của huyền sử Việt nên trong Bách Việt triệu tổ cổ lục gọi ông là Minh Khiết. Nghi Nhân (Đế Nghi) sau đó bỏ đi về phía Bắc (nước Sở), tương ứng là dòng lên núi của Đế Nghi – Đế Lai, tức là Cao Sơn. Còn Long Cảnh thì chỉ rõ đây là dòng xuống biển (thủy bộ) với biểu tượng là rồng (Long). Trong tam vị Tản Viên thì Quý Minh tương ứng là dòng xuống biển, được biết với tên Đông Hải Đại vương hay Lãng Nhạc Quý Minh.
Một dẫn chứng thú vị là chuyện ở tổng Xốm cho biết bức giá tượng hiện thờ ở đình Bình Đà là tranh tượng của Kinh Dương Vương. Trong khi đó đình nội Bình Đà được biết là thờ Lạc Long Quân. Đây là dẫn chứng cho thấy “Kinh Dương Vương” của Bách Việt triệu tổ cổ lục là Lạc Long Quân trong Truyện họ Hồng Bàng.
Chuyện ở tổng Xốm kể tiếp, người con của ông Minh Khiết và bà họ Đỗ là Lộc Tục Kinh Dương Vương, có tên Nguyễn Quảng, lấy vợ là Hồng Đăng Ngàn của bộ tộc Lộc Y. Bà Hồng Đăng Ngàn được gọi là Bà chúa Lĩnh. Như vậy bà Hồng Đăng Ngàn này không phải bà Xích Lân Long Nữ của Thủy phủ như trong huyền sử Việt. Ngược lại, người đã “lên núi” (Đăng Ngàn) thì phải là bà Âu Cơ trong huyền sử. Từ đó suy luận một cách hợp lý thì người được gọi là Kinh Dương Vương Nguyễn Quảng, con của ông Minh Khiết, sẽ tương ứng với Lạc Long Quân của huyền sử.
Nguyễn Quảng đã cùng với ông chú Lý Long Cảnh và 8 cậu dòng họ bên mẹ (họ Đỗ) đánh giặc Mạc Ma ở Tử Di Sơn. Đây là câu chuyện Long Quân cùng lục bộ Thủy phủ diệt con cáo chín đuôi ở hồ Tây. Cáo chín đuôi là giặc Hồ Di ở phía Tây nên gọi là Tử Di.
Sự thật là Kinh Dương Vương khi chết muốn nhường lại ngôi cho dòng trưởng của Đế Nghi là Đế Lai, nhưng con của ông là Lạc Long Quân nhờ sự giúp đỡ của bên mẹ Thần Long Động Đình đã đánh đuổi Đế Lai cùng phe cánh chạy về phía Tây (Tây Di). Lạc Long Quân nhờ đó lên ngôi, làm chủ nước Xích Quỷ.
Kinh Dương Vương của tổng Xốm là Lạc Long Quân của huyền sử Việt. Lạc Long Quân của tổng Xốm như vậy sẽ là ai trong sử Việt?
Lạc Long Quân này có tên là Lãm (Sùng Lãm). Vị Sùng Lãm được kể tới này không phải là Lạc Long Quân thời kỳ đầu trong sử Việt, mà là Lạc Long Quân của thời kỳ cuối, khi dòng Kinh triều (Lạc thị) chống lại sự xâm chiếm của giặc Thục từ dòng lên núi của Đế Lai. Trong sử Việt thì đây là sự kiện vua Thục đánh chiếm đất Lạc của họ Sùng dưới thời nhà Ân Thương. Sùng Lãm là Bắc Bá Hầu của nhà Ân, đã chống lại quân Thục (nhà Chu) đến từ Ai Lao (đất Âu).
Chuyện ở tổng Xốm kể Lạc Long Quân Sùng Lãm có 4 người anh em mang họ Hùng (Sùng), ứng với Tứ pháp Vân Vũ Lôi Điện. Chữ Sùng cũng có nghĩa là Cao, nên trong tín ngưỡng Việt gọi đây là Cao Sơn. Đây là vị Cao Sơn hậu duệ của Cao Sơn lên núi thời Tản Viên Sơn Thánh. Cũng là đánh Thục nhưng ở một thời điểm cuối của Kinh triều Lạc thị.
Từ Kinh Dương Vương Việt tộc chia thành 2 nhánh lên rừng, xuống biển. Nhánh lên rừng được gọi là các Sơn thần, theo dòng của Nghi Nhân, Đế Lai, Âu Cơ, Cao Sơn. Nhánh xuống biển được gọi là các Thủy thần, theo dòng của Long Cảnh, Long Đỗ, Lạc Long, Quý Minh. Bách Việt triệu tổ cổ lục có thể coi là sử chép theo dòng xuống biến, lấy Lạc Long Quân làm tổ. Còn Hùng Vương Thánh Tổ Ngọc phả là sử chép theo dòng lên núi, lấy người con trưởng theo mẹ làm tổ. Hai nhánh sơn thủy này tới thời Hùng Quốc Vương thì thống nhất mà phân thành trăm nơi đầu non góc biển mà trấn trị, cùng nhau tương trợ, lập nên thiên hạ Bách Việt trăm nước, dân có trăm họ, nước có trăm quan, phong cho trăm thần. Hùng Vương là thủy tổ của Bách Việt vậy.
Thần tích dịch theo bản khai làng Đào Xá, tổng Phương Giao, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ, ký hiệu TTTS 14824
Ghi chép cổ về vị Hải Vân Long Vương, là bộ thứ 19 trong 50 vị thủy thần từ một bầu trăm trứng do Lạc Long Quân họ Việt Thường sinh ra
Chi Cấn, quản các sông Thao, sông Bạn, sông Đà
Xưa Hùng Vương Sơn Nguyên Thánh Tổ Nam Thiên Đại bảo Tiền Hoàng Đế gây dựng cơ đồ, là thủy tổ Việt Nam, khai sáng họ Hùng cổ Việt Thường, 18 đời thánh vương ngự trị trời Nam, mở nước Việt cơ đồ họ Hùng. Nước biếc một dòng khởi vận thánh đế, minh vương. Núi xanh vạn dặm dựng nền cung điện đô thành. Mở vật giúp người, thống trị 15 bộ, thế lớn mạnh phục các phiên bang. Nối tiếp ngôi báu Viêm Hồng mà làm vua trị nước hơn 3 ngàn năm, mãi giữ cho dòng dõi vững như bàn đá. Hiển ứng linh thiêng ở Nghĩa Lĩnh. Truyền trăm đời đế vương nước Nam. Thánh địa núi Hùng muôn năm còn ngự. Đất tổ trời Nam là gốc nước mãi bền muôn năm, vạn đời mãi mãi. Lập nên các lăng, điện, miếu, cung. Con cháu dòng dõi hoàng gia phân chia ở các đầu non, góc biển, tại quận Giao Chỉ các xứ phủ, huyện, xã dân, châu, trang, động, sách, đầm, hồ, sông, suối, vực, khe, núi sông các nơi cùng hương lửa phụng thờ. Vạn thế tích cũ lưu truyền. Người đời sau có thơ khen rằng:
Nam thiên triệu khởi tự Hùng đồ Thánh tử thần tôn mãn quốc đô Bách tử thiên tôn thiên hạ hữu Nhất bào bách noãn thế gian vô Nhị thiên dư tải sơn hà tại Thập bát tương truyền nhật nguyệt phô Kim cổ danh truyền Nam Bắc cộng Nam thiên đế tổ thử Hùng đồ.
Dịch là:
Họ Hùng cơ nghiệp dựng trời Nam Khắp chốn là dòng dõi thánh thần Trăm trai ngàn cháu trong thiên hạ Trăm trứng một bầu hiếm thế gian Hai ngàn năm lẻ núi sông đó Mười tám đời truyền với tháng năm Xưa nay danh vọng Nam cùng Bắc Họ Hùng chính đế tổ trời Nam.
Chi Cấn, bộ thủy thần
Lại nói, triều Kinh đời thứ hai là thời vua Lạc Long Quân ngự trị (Lạc Long Quân húy là Sùng Lãm. Mẹ là con gái của vua Thủy đình tên là Thần Long. Ngài là con trai trưởng của Kinh Dương Vương, ở ngôi 269 năm, sống lâu 506 tuổi). Vua ra ngự núi Nghĩa Lĩnh, ở tại thành Phong Châu (thành Phong Châu tức là đất Việt Trì, sông Bạch Hạc vậy). Có người con gái vua Đế Lai tên là Âu Cơ, về ở quê mẹ tại động Lăng Sương, thường ra chơi bãi Trường Sa. Long Quân đi ngự chơi, trông thấy hình dung đẹp đẽ, yêu lắm, lấy làm Hoàng phi.
Vua có tư chất phi thường, khí tượng ung dung, đức nhân quảng đại. Thiên hạ đều khen là vua hiền, nên đổi hiệu là Hùng Hiền Vương.
Bà Âu Cơ có mang 3 năm 30 ngày. Khi sắp sinh ở trên núi Nghĩa Lĩnh có mây lành năm sắc rực rỡ. Đến khi sinh được một bầu trăm trứng, nở ra trăm người con trai, đều là tư chất khác thường, anh hùng vượt đời. Đến khi lớn lên vua bèn lập hầu phong đất, chia nước thành 15 bộ (1. Sơn Tây; 2. Sơn Nam; 3. Hải Dương; 4. Kinh Bắc; 5. Ái Châu; 6. Hoan Châu; 7. Bố Chính; 8. Ô Châu; 9. Ai Lao; 10. Hưng Hóa; 11. Tuyên Quang; 12. Cao Bằng; 13. Lạng Sơn; 14. Quảng Tây; 15. Quảng Đông).
Khi đó Long Quân bảo bà Âu Cơ rằng:
– Ta là rồng, mà phu nhân là tiên, loài giống khác nhau nên phải chia biệt.
50 người theo cha về biển làm Thủy tinh. 50 con theo mẹ lên núi làm Sơn tinh. Các vương trấn giữ rõ ràng ở các sông núi, đều là thần thuộc.
Vua bèn đặt tướng là “lạc tướng”, con trai vua là “quan lang”, con gái vua là “mị nương”, quan phụ trách là “bồ chính”. Đang khi đó trên nhân luân chính trực, dưới giáo hóa sâu dày, bắt đầu thực hiện những điều tuyên bố này. Vua được rủ áo chắp tay, rờ rỡ chín tầng. Dân được đào giếng cày ruộng, vui vẻ bốn phương. Không có ai sống mà không yên lòng. Không có vật nào yếu mà không được nuôi dưỡng. Việc trị định thành công, vượt hơn đời vua trước. Phong tục thời thái cổ cũng không sánh bằng. Trị nước lâu dài, đời đời cha truyền con nối, đều xưng hiệu là Hùng Vương. Ngọc lụa, xe sách, núi sông một dải, là thủy tổ của Bách Việt vậy.
Vua Hiền Vương ở ngôi 400 năm, rồi theo cha về biển, hóa sinh bất diệt làm Động Đình Thủy Tiên Long Quân Đế chủ. Con là Hùng Quốc Vương (Quốc Vương húy Lân ở ngôi 221 năm, sống 767 tuổi, sinh năm Canh Ngọ ngày 5 tháng 5 giờ Ngọ. Trăm vương cũng cùng sinh năm Canh Ngọ do sinh một bầu trăm trứng. Trăm con trai phân thành trăm vương. Quốc Vương là đầu trăm vương. Hiền Vương lập làm Hoàng thái tử để nối ngôi vị. Sau phân thành hai bộ. 50 người theo mẹ làm Sơn thần. 50 người theo cha làm Thủy quân. Quốc Vương ở ngôi cũng theo bộ bên cha, sau cũng về biển với cha làm Thủy Long Động Đình Quân. Vương hóa ngày 12 tháng 3), tuân nối cơ nghiệp. Quốc Vương bèn thực thi hóa đức, miễn giảm nông tang, quản dân không có lo lắng ưu tư, nước có của dự trữ dư giả, đất biển yên bình, người không dối trá, phong tục thuần phác đương khi được thấy. Hưng công nghiệp cai trị đời sau mà làm rạng rỡ nghiệp đời trước. Người đời đều khen là vua hiền.
Vua nghĩ tới việc các vị thánh trước đây cắt đất chia phong, bèn lập các hoàng đệ là Sơn tinh, Thủy tinh, cùng chia làm trăm nhánh, làm chủ cai trị các nơi để hưởng lộc, rồi lại đổi làm trăm họ, chia ra ở đầu non, góc biển, trấn giữ từng phương. Năm mươi vị trấn giữ các đầu núi đều gọi là Phiên thần Phụ đạo. Năm mươi vị trấn giữ các góc biển đều gọi là Thủy thượng Linh thần. Để tiện cho bảo hộ nhân dân, giữ gìn tông xã.
Thời khi Quốc Vương ngự trị, thiên hạ nhiều khi nước to ngập lụt. Nhân dân thường bị giặc nước xâm hại. Bởi vì Quốc Vương vốn là mệnh Thủy thần còn đang ngự trên trần thế nên nhiều khi nước lụt tiến đến Dương gian. Nhân dân rất khổ sở. Quốc Vương sai chia 50 vị hoàng đệ của Thủy bộ cho trị giữ các bờ sông, góc bể, quản lý các vùng đất đai, để chống đường nước xuyên vào các nơi có dân mà phá hại.
Lại nói, đạo Hưng Hóa, phủ Gia Hưng, phủ Yên Tây, cùng phủ Đà Giang, Văn Chấn, Trấn Yên, Yên Lập, Văn Bàn, Thủy Vĩ, Thanh Hậu, Thuận Châu, Bản Châu, Phù Việt Châu, Mai Châu, Lai Châu, Luân Châu, Quỳnh Nhai, Chiêu Tấn, Sùng Lăng, Khiêm Châu cùng huyện Bất Bạt, Phúc Lộc và các hướng chân núi trên đất liền là những nơi bị thủy quan xuyên phá làm khổ sở. Hoặc phá thông đường nước chảy vào nơi dân cư, dâng thẳng lên chân núi để lấy gỗ lạt. Hoặc xuyên đục các đầm khe vực sâu. Hoặc theo bắt nhân dân, phụ nữ. Khi đó ở các phủ, huyện, châu, trang, động, sách của xứ Hưng Hóa bị nước hại nặng nề. Vương bèn khiến hoàng đệ là quan Hải Công ngự trên các xứ miền Hưng Hóa, chủ giữ các đường nước đầu sông mặt đất.
Đức Hùng Hải Công (tức sau gọi là Hải Vân Long Vương Động Đình Thủy Đế) vâng mệnh Quốc Vương đến nhậm xứ Hưng Hóa. Khi Hải Công đến nơi, ngay hôm đó nhân dân các phủ, huyện, châu, trang, động, sách tề tựu tại đó làm lễ mừng. Đức Hải Công sai các gia thần đưa hịch cho các đầu sông cửa nguồn, những nơi nước xoáy vào nơi dân ở, mỗi nơi một tờ hịch buông xuống dòng nước. Ông truyền hịch xuống các dòng nước xong hết thì đến ba ngày sau các nơi nước lớn ngập trời đều vỡ thành khe ngòi, ra khỏi các vùng đất có dân cư mà chảy xuống các lòng khe. Từ ấy nước lụt được yên. Nhân dân không phải lo lắng hoạn nạn, mùa màng được bội thu, đều thực là do nhờ vào đức lớn của Hải Công vậy.
Đến mùa xuân tháng Giêng, hoa cỏ rợp đất, cảnh sắc núi sông đâu đâu cũng thấm gió xuân. Đức Hải Công cùng bà Trang Hoa Phu nhân (Trang Hoa Công chúa là người quê ở Mai Châu, là con gái quan Lạc hầu, nhan sắc đẹp đẽ, tính nết trong sạch, rất có hiếu đễ, thái độ hiền hòa. Ngài lấy về rất sủng ái, lập làm Đệ nhị phu nhân) xuống thuyền rồng theo dòng nước cùng mấy trăm gia thần chơi xem phong cảnh sông núi, thăm thú nhân dân và hình thế thủy văn. Nếu chỗ nào mà bị giặc nước băng phá, mạch đất khuyết lở, thì quan Hải Công lại sức nhân dân địa phương bồi đắp đê để trả lại mạch đất. Ngài đi từ sông Hán, sông Nhị, sông Lô, sông Thao đến Tuyên Quang, lại quay thuyền về Hưng Hóa, Thập Châu, Thanh Nguyên, Bạn Hà. Hễ đi đến nơi đâu có dân địa phương, thấy phong cảnh hữu tình, dân tục thuần hậu thì bèn lập hành cung ở đấy. Ngài lại cho dừng thuyền, đóng quân du chơi tại đó.
Khi ấy thuyền của Ngài đia ra khỏi sông Bạn, về đến đất trang Thọ Xuyên. Hôm đó (ngày 10 tháng Giêng) nhân dân địa phương lập hành cung bái mừng. Ngài thấy nơi ấy non xanh nước biếc, nước sông Bạn thâm sâu chảy bao bọc bốn bề, nơi trong dân ở rất đẹp. Quan Hải Công cùng bà phu nhân đỗ thuyền ở bãi Thọ Xuyên, lên ở hành cung dạo chơi quãng hơn 10 ngày. Một dải sông sâu ở đất đó giao long, cá, giải, rắn hoa hơn trăm bầy đều đến hội chầu ở nơi vực sông đó (tức là vực sông Thọ Xuyên), hướng theo nơi Ngài ở, khắp bốn bề dân cư. Khi đó nhân dân đều sợ hãi không dám ra đường. Nhân dân đều làm lễ kêu với Ngài. Ngài bảo dân rằng:
– Ta là chức Thủy quan, quyền giữ Động Đình. Do vậy thủy binh đến hội chầu theo mệnh của ta. Dân các ngươi đừng sợ hãi. Đã có chủ giữ, các thủy binh không dám phạm đến dân các ngươi đâu.
Ngài nói với dân xong lại mắng thủy binh rằng:
– Thủy quốc, nhân gian khác nhau. Các loài thủy tộc không được lộ hình cho nhân gian thấy, đó là trọng trách vậy.
Ngài mắng xong, bỗng nhiên thủy binh chìm cả xuống đáy nước tự yên. Nhân dân cả mừng, làm lễ xin được làm hộ nhi hương. Ngài bèn đồng ý. Sau dân dựng đền thờ (các triều đình sau phong làm Hiển ứng Hộ quốc Tế thế Đại vương. Trang Thọ Xuyên phụng thờ).
Một hôm thuyền của Ngài lại đến động Dị Nậu (Động Dị Nậu đó có một vị quan lang ở ấy, vốn là con Lạc Long Quân trong trăm trứng, thuộc về bộ Sơn thần, là ông Hùng Huệ Vương. Sau triều đình phong làm Cao Sơn Hiển ứng Tế thế Đại Vương, Dị Nậu phụng thờ). Hùng Huệ Vương ở đất đó (cũng là em ruột của Hải quan Long Vương, theo Sơn bộ). Ngài Hải Công đến chơi với ông Huệ Công, dừng thuyền ở bến đó (tức bãi Dị Nậu, cũng là trên dòng Bạn Hà xưa).
Đến nửa đêm hôm ấy Ngài cùng ông Huệ Công ngồi trong thuyền uống rượu nói chuyện. Bà Trang Hoa phu nhân nằm ở trong màn ở bên trái thuyền, mơ màng ngủ đi, mộng thấy lại đi lên đến cung Thọ Xuyên. Phu nhân lội qua giữa dòng nước, chợt thấy có con rồng vàng nổi trên mặt nước mà đi qua trước mặt. Lại thấy 3 con rồng nổi lên mặt nước mà đi nối theo sau. Bà phu nhân cũng nổi lên rẽ nước mà đi, thẳng đến nguồn xã Đào Xá. Phu nhân bỗng thấy có một phiến đá lớn ở giữa dòng nước. Phu nhân bèn lên ngồi trên phiến đá đó. Con rồng đi trước phu nhân cũng lên trên hòn đá, biến ra quan Hải Công, cùng ngồi với phu nhân.
Ba rồng con theo sau thẳng đến trước mặt mà chầu. Sau là giao long, rắn giải ngoài ngàn con đều chầu quanh nơi phiến đá. Phu nhân trông thấy sợ, hét lên một tiếng rất to rồi tỉnh dậy.
Quan Hải Công nghe thấy tiếng kêu đó, hỏi rằng:
– Cái gì mà hét to thế?
Bà Trang Hoa phu nhân nói rằng thấy giấc mộng như thế. Ông Huệ Công theo đó đoán rằng:
– Mộng của phu nhân và của Hải Công là điềm sinh quý tử. Vả lại anh trai quyền quản thủy bộ, chức chưởng Thủy đình, ấy là dòng Long Quân vậy. Nên mộng điềm rồng ấy quả là không sai. Xin chớ nghi hoặc.
Quan Hải Công nói rằng:
– Đệ công nói phải vậy.
Hôm đó (tức là ngày 26 tháng Giêng) thuyền rồng của quan Hải Công đi đến xã Đào Xá. Ngài thấy địa thế hương dân có kiểu đất hay, long đình đới ấn, đáy nước chứa châu, bên tả có chim phượng lại chầu, bên hữu có voi rùa. Đằng sau có tinh phong dẫn mạch, đằng trước có đầm sâu nước lớn. Ngài truyền dựng hành cung ngự ở đầu rồng.
Ngay hôm đó (ngày 27 tháng Giêng) nhân dân làm lễ bái mừng. Đến nửa đêm hôm ấy Ngài nằm ở chính sở chợt ngủ, thấy trên trời có năm sắc mây, dưới vực nước cồn sóng rợn. Lại có ba con rồng theo mây thẳng xuống giữa vực, mờ ảo biến thành ba người, mũ rồng rực rỡ, áo gấm huy hoàng. Quân ngựa thầy tớ hàng trăm, ầm ầm rẽ nước từ đầm vực mà lên trước sân chỗ Ngài ngồi. Đầu tiên, một người hai tay bưng cái mâm ngọc. Trên mâm có ba con cá chép, đặt trước mặt đức Hải Công. Ngài hỏi rằng:
– Các quan ở đâu lại và có lễ gì vậy?
Ba người thưa rằng:
– Chúng tôi vâng lệnh Thiên Đế, là ba quan Thủy phủ, chức quản quyền Thủy phủ. Nay vâng mệnh Động Đình Long Quân Thủy Đế phân thuộc theo ngài để định nơi bổ nhậm. Xin vào đầu thai làm con ngài. Động Đình Thủy Đế lại còn giao cho một bài thơ, xin dâng để Ngài xem.
Đức Hải Công đón lấy bài thơ, mở ra xem, có tám câu thơ rằng:
Tam vị Long quan phó hứa quân Trang Hoa kim nhật định nhâm thần Thọ Xuyên, Đào Xá giai đồng mạch Bạn thủy, Thao hà nhậm lưỡng tân. Tri thủy thanh sơn cung Thủy phủ Thâm uyên bác trạch bạn giang thần Linh long đĩnh xuất phù ư thế Nhất phó Tam Long nhậm Hải Vân.
Diễn âm:
Long quan ba vị phó cho ngài Bà vợ ngày nay hẳn có thai Trang Thọ, sách Đào cùng một mạch Nguồn Thao, sông Bạn quản hai nơi Rừng xanh nước biếc làm lầu điện Vực cả đầm sâu ấy Thủy đài Nảy giống rồng thiêng ra giúp nước Ba rồng đưa lại mặc quan ngài.
Ngài đọc xong rồi tỉnh dậy, biết là mộng. Ngài nghĩ thầm, nhớ tới lời dạy của đức Lạc Long Quân đã báo thư, giao cho ba Long quan thuộc về ta, đầu thai vào làm con, ra trị đời giúp vận nước hưng thịnh, để phù giúp tông xã được lâu dài. Hôm đó (ngày 28 tháng Giêng) quan Hải Công truyền cho nhân dân mổ trâu bò mà lễ tế đức Tiên Hoàng (tức là Lạc Long Quân). Đang khi làm lễ bỗng thấy trên trời có đám mây mờ mịt, dưới sông cồn dồn, bốn hướng gió lớn nổi lên, một vùng mưa lớn ì ầm. Ngài đang lúc làm lễ thì bỗng thấy ba con cá chép nhảy vào thuyền rồng. Ngài bèn nói rằng:
– Con ta cho ta thấy đúng như lễ trong mộng vậy.
Lễ xong rồi thì gió mây tan hết, trời yên đất lặng. Lại thấy giữa dòng nước trước hành cung có năm sắc mây nổi trước mặt nước. Ngài bèn chèo thuyền rồng ra đến nơi đó xem, thấy một phiến đá trắng lớn ở giữa dòng nước. Trên mặt đá có ba quả trứng để đấy. Nơi đó bốn phía của phiến đá giao long, rắn hoa đều chầu hội. Ngài cầm ba quả trứng đem đặt vào trong thuyền, mang về hành cung đưa cho bà Trang Hoa phu nhân. Ngài bảo bà Trang Hoa rằng:
– Ấy là con ta đó.
Bà Trang Hoa giơ tay cầm lấy. Ba quả trứng tự nhiên lay động, quay múa trước thềm. Được một lúc ba quả trứng vỡ ra thành nước dãi thấm khắp vào mình bà Trang phu nhân, đều là mùi thơm sực nức. Bà phu nhân từ ấy có thai, trong lòng buồn bực, tinh thần chuyển động, nói năng thất thường, lại muốn có bà đồng múa hát, tính muốn hương hoa ăn chay. Bấy giờ thuyền rồng của quan Hải Công trở về trị sở ở Hưng Hóa. Đức Hải Công thấy bà phu nhân ngày càng thêm sợ hãi, ăn nói thất thường, lại thích bà đồng, hoa nương.
Thời bấy giờ thuộc phủ Gia Hưng đất Việt Trì có bà Quế Hoa, họ Trần, tên là Văn. Mẹ là Đinh Thị Viện. Bà Quế Hoa vốn là dòng bà đồng có phép diệu thông huyền, có tài hay thuật lạ. Khi đó quan Hải Công nghe tiếng, sai sứ thần mời bà đồng Quế Hoa lại chầu, ngày đêm múa hát. Bà phu nhân từ khi có bà Quế thì tinh thần mới được yên lặng, tính khí yên vui. Bà phu nhân cùng bà Quế rất là yêu mến, ngày thường ca múa, mỗi bữa đều không thiếu, tình tuy là thầy trò, mà xem bằng tình sâu như chị em.
Đến năm Đinh Sửu ngày mùng 1 tháng Giêng, Quốc Vương ngự tại điện Hương Lâu, mơ màng như mộng. Bỗng thấy một sứ nhân, mình mặc áo đen, tâu rằng:
– Tôi vâng mệnh đức Lạc Long Quân Động Đình Thủy Đế, xin mời Quốc Vương lại hỏi chuyện.
Vương bèn theo quan sứ vào đế đài, thấy Long Quân ngự ở chính tòa cung Thủy tinh. Hai bên tả hữu trăm quan ngồi hầu. Tướng lân, Long hầu hàng ngàn. Kình binh, ngư giáp hàng trăm đội. Quốc Vương vào chầu trên điện ở bên đầu hàng tả hữu. Đức Lạc Long Quân phán rằng:
– Nhà ta là một trăm con trai, Quốc Vương là đầu. Lại chia làm hai bộ. 50 về núi, chia trị các nơi. 50 là xuống nước chia trị các nguồn sông bể. Nhà ngươi tóm trị cả. Nay Dương đình riêng phó cho nhà ngươi trị vị. Nay hoàng đệ Hải Công là vị thứ 19, nhậm trị Thao, Đà hai sông ở Hưng Hóa. Nay ở Thủy đình ta lại khiến ba vị Long hầu đến để thay trị hai dải Thao, Đà, phân ở các vực cửa nguồn đầu sông cửa khe, để trấn giặc nước. Một là Đạt Linh Long, hai là Mãn Linh Long, ba là Uyên Linh Long. Nay Thủy đình đã định ngày mùng 3 tháng Giêng lên quản nhậm ở hai sông. Còn Hải Công cho rời đổi về nhậm cửa sông Nhị hà, xứ Hải Dương. Còn ba vị Long hầu thì sông Thao, sông Đà khe nguồn hai phái hợp nhau, đầm vực cùng thông. Một ở Thọ Xuyên, địa hình rồng bay phượng múa, thủy thế vực nguồn chín khúc, cho ba Long hầu cùng đóng làm nơi chính. Còn ven sông Ngọc Tháp cho Đệ Tam Uyên Linh một mình trị nhậm. Đào Xá có kiểu đất rồng thiêng dâng nước, chim phượng ngậm châu, vực lớn đầm sâu, chiêng trống cờ hình, Đà Thao hợp phái, nghịch thuận cùng giao, cho Đạt, Mãn Long quan cùng phó nhậm để trấn giặc nước xâm nhập, ngự làm chính sở.
Vua phán xong rồi ba quan bái tạ Long đình. Long Quân lại giao phó cho Quốc Vương. Lại cho thủy quân hơn một nghìn viên theo ba Long quan cùng Quốc Vương mà đi. Quốc Vương nhận mệnh giao phó của Tiên Hoàng (tức là Lạc Long Quân), khấu tạ trở về. Bỗng tỉnh dậy, biết đó là mộng. Quốc Vương mời hoàng đệ Hải Công lại phán rằng:
– Ta có mộng lạ.
Vương kể lại đầy đủ sự mộng cho Hải Công biết. Hải Công tâu rằng:
– Trước đây đã có điềm trứng, từ đó bà Trang Hoa có thai. Nay nhà vua lại cũng có mộng như thế. Việc đã rõ vậy.
Hải Công từ tạ nhà vua, trở xe về nơi trị sở Hưng Hóa. Đến ngày mồng ba thì thấy mây mưa tối tăm, sấm sét ì ầm. Thấy có một đám mây tản che trên nóc nhà chính. Bà phu nhân bỗng thấy trong lòng chuyển động, réo như tiếng sấm. Phu nhân tinh thần hoảng hốt, hồn phách mê man, mơ màng như mộng. Quan Hải Công mời bà đồng Quế Hoa lại bảo rằng:
– Nay phu nhân đến cữ đầy tháng mà chưa thấy bà Quế Hoa đến. Vì vậy mời lại để hầu múa.
Bà Quế Hoa vào hầu múa được một lúc, chợt thấy hơn trăm con rắn từ ngoài sông Thao đi thẳng vào chỗ cung, nằm chầu hai bên trái phải của phu nhân. Quan Hải Công biết là thủy binh đã đến, bèn lập đàn cầu đảo trời đất, làm lễ đức Lạc Long Quân Thủy Đế. Xong rồi đến đêm hôm ấy bỗng thấy hai người tướng mạo đường đường, đi thẳng vào sân đình bảo Ngài rằng:
– Vâng lệnh Thủy quốc báo trước cho Ngài biết, ngày mai là lúc sinh ba vị Long quan, nên kíp sắm ba chiếc thuyền rồng, thả xuống ở sông Thao, để ở giữa sông, dừng thuyền ở trên mặt nước mà đợi long quan sinh ra.
Nói xong ra cửa mà biến đi. Đến ngày hôm sau Ngài cứ theo lời giang sứ bảo, dong xe đưa bà phu nhân. Khi đó phu nhân nằm mê man, đặt phu nhân xuống thuyền. Bà đồng Quế Hoa cùng hoa nương chầu theo múa hát vài trăm người, bơi ra đến giữa sông Thao thì neo nối ba thuyền ở đấy. Giữa trời mây mưa tối tăm, mặt nước sóng rờn vạn nhận. Giao long, rắn giải, cá lại chầu bốn mặt hàng trăm vạn. Trong thuyền thấy réo o o như tiếng sấm lớn.
Bấy giờ Quốc Vương cùng Hải Công và các quần thần đều ngự thuyền rồng ở tại Tam Tản (tức Vĩnh Lại, xứ Tam Giang) mà xem. Đương lúc ấy chợt thấy dưới đáy sông có ba tiếng sét lớn chuyển động trời đất. Bà phu nhân sinh ra một bọc có ba trứng, nở ra ba con rắn. Đột nhiên biến nên to lớn, dài hơn mười lăm trượng. Mặt rồng mình rắn, vây vảy năm vẻ, mũ hoa sặc sỡ. Rồi xuống sông rẽ nước mà đi. Mây theo mưa ruỗi, gió thổi sấm vang. Đi theo hai bên có giao long, rắn giải, cá lớn ngoài trăm ngàn dặm, nổi đầy mặt nước, đi theo hai bên bờ sông.
Bà đồng Quế Hoa cùng các hoa nương hầu hạ hai bên múa hát. Thuyền rồng theo sau. Ba ông Thủy quan thẳng đến ngự Quốc Vương, cúi đầu làm lễ. Quốc Vương lấy trong mộng mà đặt tên ba ông:
1. Đạt Công Long Vương. 2. Mãn Công Long Vương. 3. Uyên Công Long Vương.
Quốc Vương đặt tên xong rồi khiến đình thần sắm mười chiếc thuyền rồng đưa theo sau. Ba ông chia đường cứ giữa dòng sông mà lên. Một ông Quý Công, tức Uyên Công Long Vương, thẳng đến bờ sông Ngọc Tháp. Khoảnh ấy nhân dân địa phương cửa nhà tối tăm, mây mưa mờ mịt. Người đều sợ hãi náu núp. Đình thần bèn lên bờ sông dựng cờ giương lọng, truyền cho nhân dân làm lễ mừng. Thủy quan nằm trên án. Rắn hoa chầu hai bên. Nhân dân khiếp sợ không dám ngửa trông. Được một lúc lại xuống vo vo mà đi, trở về Đào Xá hội với hai ông. Đình thần bèn khiến dân Ngọc Tháp lập chính cung thờ phụng ông Quý Công.
Lại nói, còn hai ông thẳng đến Thượng Nông. Các quân binh rồng, rắn, cá, giải xuyên mở một đường nước thẳng vào đầm Đào Xá. Ông Quý Công tiếp theo đến hội đầm Đào Xá chỗ bàn đá. Rắn hoa, cá, giải, giao long nổi lên mặt nước chầu xung quanh (tức đá thần trước đền Đào Xá). Bấy giờ trời đất tối tăm, mưa gió ì ầm. Đình thần truyền làm lễ bái tạ (tức ngày mùng 3 tháng Giêng), thiết lập cung ở đấy.
Lại nói, đến trang Thọ Xuyên, Quốc Vương khiến đình thần cùng quan Hải Công đến đất ấy, lập cung đền phụng thờ. Đương lúc dân lập cung đền, ông Hải Công ngồi trước xem đấy. Bấy giờ mặt trời đã xế núi. Chợt thấy hai thuyền rồng đi từ đầm lớn thẳng đến bến Thọ Xuyên. Ba quan ở dưới thuyền đi lên, tướng mạo uy nghi, tinh thần lẫm liệt. Xe loan, kiệu phượng, binh sĩ hai hàng thẳng vào trước cung khấu đầu làm lễ. Đức Hải Công hỏi rằng:
– Quý quan ở phương nào lại mà nhún mình quá lễ như vậy?
Ba quan tâu rằng:
– Chúng tôi là con đức Hải quan vâng mệnh Thủy Đế Động Đình cho lên cai trị các xứ miền Dương đài để chống giặc nước xâm phá vào nơi để dân ở được yên, quốc mạch lâu dài. Nay chúng tôi phó nhậm đã yên các chốn, thân về lễ tạ ơn cha mẹ khó nhọc.
Đức Hải Công biết ba con mình là Long quan. Vậy báo ba quan rằng:
– Dương đài, Thủy quốc đều một là mạch gốc từ nhà Hùng, dần chia ở các xứ, nhưng núi sông cũng là một con nhà cả. Nay trời đã cho xuống ở đời giúp dân, giúp nước, lại nhập đầu vào làm con ta. Thật là mừng lắm. Vả lại đức Tiên Hoàng (tức Lạc Long Quân Động Đình Thủy Đế) đã báo cho vua Quốc Vương giao cho ba quan lên Dương đình trị nhậm các xứ. Trước đây đã định, vậy nên truyền cho nhân dân (tức ở đất trang Thọ Xuyên) thiết lập cung đền để ba quan đến nhậm vị. Nay ba quan đã đến, cá nước một nhà gặp gỡ, cha con cùng hội họp tại đây. May lắm, may lắm. Mừng lắm, mừng lắm.
Ngay hôm đó (mồng mười tháng Giêng) truyềnnhân dân làm lễ bái tạ. Việc xong ba quan từ tạ quan Hải Công, xuống thuyền tự nhiên chìm biến.
Lại nói, khi ấy quan Hải Công cùng các đình thần truyền cho nhân dân lập cung đền các chốn đã xong (tức là ba nơi chính Thọ Xuyên, Ngọc Tháp, Đào Xá), chia các quan (tức là ba Long quan) đến nhậm. Các dân đều phụng thờ đấy. Việc xong lại khiến quan Hải Công (tức chính là Hải Vân Long Vương, con của Lạc Long Quân Động Đình Thủy Đế. Trong số 50 người của thủy bộ, Hải Công là ở thứ 19, sinh được các vị Long Đạt, Long Mãn, Long Uyên. Ba vị đều cũng là các long vương vậy. Còn Hải Công là thánh phụ, cũng đều là một dòng phái nhà họ Hùng) rời về xứ Hải Dương nhậm lỵ nguồn vực sông Nhị. Đức Hải Công vâng mệnh về phó nhậm sông Nhị.
Một hôm (ngày 10 tháng 2) bà Trang Hoa phu nhân dong thuyền dạo chơi ở đầu sông (tức là chỗ sông Nhị và sông Thao giáp nhau). Ngài ra tắm rửa ở đấy, thấy thuyền rồng nổi mặt nước. Lại nghe trong thuyền có tiếng người gọi rằng:
– Ba con lên đón mẹ hôm nay về Thủy quốc.
Tự nhiên thấy bà phu nhân vội vã xuống thuyền, tự chìm hóa đi. Sau ở đất ấy dựng đền thờ (về sau đức Hải Công cùng bách thần hóa ở điện Nghĩa Lĩnh. Trăm vương đều cùng hóa ngày ấy).
Lại nói đến lúc bà đồng Quế Hoa vào chầu múa hát. Một hôm bà Quế Hoa đang ở trong đền múa chầu. Khi đó bà Quế Hoa cùng các trinh đồng năm sáu người theo hầu, ra chơi bến nước trước đền rửa mặt. Bỗng gieo xuống nước chìm đi. Hôm đó (tức ngày mùng 3 tháng Giêng, cùng ngày sinh nhật ba quan). Nhân dân hô hoán, lại khiến người lội xuống nước đều không thấy hình tích gì.
Được trăm ngày sau nhân dân đều sinh tật bệnh không yên. Khi ấy rắn đến có hàng trăm, nằm đầy trong đền, thường gặp người dân thì xua đuổi. Hôm đó (ngày mồng mười tháng hai) nhân dân địa phương lập đàn cầu đảo. Vào buổi chiều tà, bỗng thấy ở đầm lớn trước đền nước dồn sóng rợn, bão lớn tứ tung. Giao long, rắn, cá, giải nổi đầy mặt nước, tất cả đều quay chầu vào nơi tiền tế của đền. Chợt thấy nước rẽ nổi lên hai chiếc thuyền rồng, thẳng đến cung đền. Lại thấy ba quan lên đi trước, đi sau là kiệu phượng của bà Quế Hoa. Nam binh, nữ tốt ngoài nghìn người đường đường vào ngồi trong cung đền. Nhân dân được gọi đến. Ba vị quan cùng nói rằng:
– Chúng ta cùng vâng mệnh Thủy đế, quyền cai Dương đình. Hoàng thiên đã định nhậm ở hình đất tứ linh Thọ Xuyên, ở phiến đá hình rùa lập làm chính cung. Còn địa hình Đào Xá có hai rồng quấn thủy, lập làm chính sở. Cảnh thiêng địa tạo mà thành tứ linh Long Ly Quy Phượng. Các Thủy quan đến nhậm để quản các linh vật, để bảo hộ phong tục nhân dân được thịnh vượng. Nay có bà Quế Hoa, có công với phu nhân trước, cũng có công lao với Thủy đình, được vào trong đền nhậm sở truy phối thờ cùng với chúng ta, nhưng lại chưa có nơi ở riêng. Bởi thế nên trách đến dân các người vậy.
Nói xong xuống thuyền tự chìm biến đi. Dân cả sợ. Ngày đó (ngày 15 tháng 2) lập nơi thờ bà Quế Hoa ở bên phải đền, rồi làm lễ tạ. Từ ấy dân làng được yên, nhân vật thịnh vượng. Thời thường khi nước cầu, dân cầu có nhiều khi linh ứng, biến hiện ra vào khôn lường. Cung thờ hương đèn không ngớt. Giữ nước giúp dân có nhiều ơn vậy.
Lại nói, triều Kinh 18 nhánh truyền đến vua Duệ Vương ở ngôi. Than ôi, vận nước đến lúc cáo chung, cơ đồ họ Hùng vào cuối. Duệ Vương tuy sinh nhiều hoàng tửu (20 hoàng tử), nhưng đều theo nhau về chốn tiên hương, không có người kế vị. Sau lại sinh hai con gái, một là Tiên Dung, hai là Ngọc Nương. Một gả cho Chử Đồng Tử, một gả cho Tản Viên Sơn Tinh.
Khi ấy Thục Vương nghe tin Duệ Vương không có người kế vị, muốn truyền ngôi cho con rể là đức Tản Viên, bèn đem quân sang nước Nam đánh Duệ Vương để lấy nước. Vua Duệ Vương khiến các quan đến các nơi thờ bách thần (bách thần là từ trăm trứng Hùng Vương vậy) cầu đảo âm giúp quân sĩ theo đức Tản Viên đánh giặc cho được thành công. Nếu ngày sau được thanh bình thì sẽ bao phong mỹ tự.
Một hôm quan sứ đến tế lễ ở đền Tam Công tại Đào Xá. Đương khi làm lễ chợt thấy có ba con rắn lớn dài hơn mười trượng, mũ hoa rực rỡ, theo cùng hàng ngàn rắn nhỏ, vảy giáp năm sắc, từ dưới nước lên đi thẳng vào đền. Sứ quan cùng dân đều khiếp sợ. Tự nhiên trời đất mù mịt, mưa gió nổi lên. Tế lễ xong tự nhiên mây tan gió tạnh, trời đất quang đãng. Các vật tự biến đi.
Sứ quan trở về tâu vua. Vua phán rằng:
– Dẫu sơn thủy bách thần đều là dòng phái nhà Hùng từ Tiên Hoàng, nay nước có biến, không lẽ điềm nhiên mà không phù giúp. Tất phải có hiển ứng linh thiêng. Việc ấy quả nhiên là ta thắng vậy.
Lập tức hôm đó vua khiến Tản Viên Sơn Thánh đem mười vạn quân mạnh chia đường thủy bộ cùng tiến đến thẳng chỗ quân Thục, đánh lớn một trận. Mây gió hợp sức, trời đất tối tăm, ầm ầm bốn hướng. Quân Thục (tức là Ai Lao vậy) bị phá tan, bắt sống tướng Thục cùng hàng trăm quân, còn lại đuổi hết về nước. Giặc được dẹp yên, vua mở hội yến lớn, rồi bao phong mĩ tự cho bách thần, hưởng hương lửa không ngừng. Phong:
– Đệ Nhất Long Vương Uyên tĩnh Quảng thánh Đại vương.
– Đệ Nhị Long Vương Dực vận Đại vương.
– Đệ Tam Long Vương Hải lâm sơn Đại vương.
Xã Đào Xá phụng thờ đấy.
Lại nói, cơ đồ họ Hùng đã hết, còn truyền lại các hậu duệ đời sau. Đến đời vua Nhân Tông nhà Lý có quan Chiêu thảo sứ nhà Tống là Quách Quỳ và Triệu Qua hợp cùng với nước Chiêm Thành và Chân Lạp đem quân mạnh sang lấn nước ta. Vua nhà Lý sai ông Lý Thường Kiệt đem quân đến chống giặc Tống.
Một hôm ông Lý Thường Kiệt tiến quân đi đến xã Đào Xá, định vào đóng quân ở đền Tam Công. Một đêm, khi đi tới cửa đền, chợt thấy hai ông Rắn nằm giữa cửa đền. Quân lính đi trước đến nơi thấy các ông rắn thì không dám vào. Trung quân của Lý Thường Kiệt tiến đến thấy vậy bèn bảo ông rắn rằng:
– Nay ta vâng mệnh vua đem quân đi dẹp trừ giặc Tống. Bây giờ (tức ngày mùng 10 tháng 7) tiến quân đến đền. Nếu trời đất cho ta mệnh dẹp yên được giặc ấy, quan Xà tướng giữ cửa nên tránh đi cho quân ta vào đến trú ngụ.
Nói xong thì quan Xà lui vào trong đền biến mất. Ông Lý Kiệt đem quân vào đóng trong đền. Hôm đó (ngày 10 tháng 7) nhân dân làm lễ bái mừng. Ông Thường Kiệt hỏi nhân dân rằng:
– Ở đây dân các người thờ vị thần nào?
Dân thưa rằng:
– Thờ ba vị Thủy thần, vốn dòng dõi vua Hùng Lạc Quân, từ xưa đến nay dân đều phụng thờ nơi đây là đền chính.
Ông bèn làm lễ khấn:
– Xin âm phù giúp nước dẹp giặc thành công. Đến ngày sau thanh bình xin tâu vua gia phong mỹ tự Thượng đẳng Phúc thần, hưởng cúng tế vạn đời.
Khấn xong đến khoảng nửa đêm ông Thường Kiệt nằm ở ngoài cung đền, chợt thấy một trận mưa gió từ Tây Bắc thẳng đến trước nơi cửa đền. Ông trông ra ngoài đầm thấy hai chiếc thuyền rồng và hơn trăm người hò reo bơi thuyền thẳng đến trước đền. Ông tưởng rằng quân nhà Tống lại đánh mình. Ông bèn sai đánh chiêng trống dàn quân ra chống cự. Hỏi là thuyền nào, thì nghe trong thuyền có tiếng người nói rằng:
– Thủy quan đến nơi đền để cùng ông dẫn quân đánh dẹp giặc Tống. Xin đừng ngại.
Nói xong thấy ba tướng đường đường lên bờ đi thẳng vào đền. Quân sĩ đứng chầu hai bên thành hai hàng. Nhân dân đều trông thấy cả. Ông Thường bèn truyền lệnh quân sĩ cùng nhân dân mổ trâu bò, làm rượu ngon, cỗ sòng để dâng lễ mừng Thủy quan.
Lúc ấy ông Lý Thường Kiệt thưa rằng:
– Nay nhà nước có giặc Tống sang lấn, gây sự binh đao. Tôi vâng mệnh nước nhà đem quân đi dẹp Tống. Hôm nay may gặp thấy được dung nhan ba vị Thủy quan. Xin thần ra sức giúp cho vận nước nhà, âm phù tôi cất quân đánh giặc được thành công, là trông ơn đức ba vị đó.
Ông Lý Kiệt nói xong, vị chính quan không nói gì. Vị hữu quan không nói gì. Chỉ có vị tả quan đọc bài thơ rằng:
Nam thiên dĩ định đế Nam quân Đại đức giai do đức nhật tân Thất quận sơn hà đô nhất thống Tống binh bất miễn tán như vân.
Dịch là:
Trời Nam đã định vua nước Nam Đức lớn đều do đức mới thêm Non sông bảy quận cùng thống nhất Tan sạch như mây ắt Tống quân.
Đọc xong hò reo ba tiếng, xuống thuyền theo dòng nước biến đi. Đến sáng ngày làm lễ tạ. Đến ngày 13 ông Lý Thường Kiệt lại làm lễ mật đảo, tiến quân thẳng về đến sông Như Nguyệt, đón đánh quân Tống. Ngày hôm đó lại gặp đại binh của quân nhà Tống đang theo dòng sông Nguyệt thủy bộ cùng tiến. Ông Lý Thường Kiệt đánh lớn cùng tướng Tống là Quách Quỳ tại cửa sông Như Nguyệt. Bỗng thấy một trận gió cuốn, trời đất tối tăm, dưới sông sóng rợn muôn trùng. Hơn nghìn con rắn nổi chật sông. Thuyền chiến của thủy đạo quân Tống lật đắm hết cả. Quân Tống khiếp sợ, chạy tan tác, chém hơn ngàn người. Quân nhà Tống đều nhảy xuống đầy sông, nước không chảy được.
Ông Thường Kiệt dẹp yên giặc rồi, ngày khải hoàn trở về làm biểu tâu vua. Vua thấy có nhiều linh ứng bèn phong thêm là Thượng đẳng Phúc thần. Xuân thu hai kỳ sai quan đến tế, cho dân làm nơi phụng thờ. Vua Lý Nhân Tôn phong thêm mỹ tự là:
– Phong Đệ Nhất Long Vương Uyên tĩnh Quảng thánh Bác trạch Đại vương.
– Phong Đệ Nhị Long Vương Dực vận Linh ứng Phổ đức Đại vương.
– Phong Đệ Tam Long vương Hải lâm sơn Tế thế Đại vương.
Lại nói, đến thời nhà Trần vua Nghệ Tông ở ngôi, có kẻ gian thần là người Dương Nhật Lễ làm loạn cướp ngôi vua. Ông Cung Định Vương (húy là Ngung) tránh nạn chạy lên phủ Đà Giang. Tháng Chạp mùa đông vua cùng bà hoàng hậu và bà công chúa thứ hai là Phương Dung, mới mười 18 tuổi, nhan sắc dịu dàng tựa người khách cung trăng, hình dung nghiêm cẩn giống người vườn Lãng Uyển, không phải người thường chốn trần gian. Khoảng ấy vua cùng hoàng hậu và công chúa ngự xe dạo xem phong cảnh, nhân dân, ngắm địa thế non sông. Một hôm vua đi đến xã Đào Xá, nhân dân lập hành cung ở đó. Vua dừng xe ngự chơi ở đất đấy (hành cung chính ở đất phía Nam của trang). Ngày ấy (ngày 15 tháng Chạp) nhân dân làm lễ bái mừng. Vua thấy nhân dân thuần hậu, non nước phong cảnh hữu tình, ngày ngày nhà chơi nơi đồng ruộng, vui với phong cảnh. Vua ngự chơi ở đất đấy (tức trang phía Nam của xã Đào Xá) năm, sáu tháng. Đến mùa xuân ngày mồng ba tháng Giêng, dân địa phương có lệ làm lễ sinh thời Tam Công, mở hội làm vui, đánh cờ múa hát. Nhân dân đón vua Nghệ Tôn (tức là Cung Định Vương) cùng hoàng hậu và công chúa ngự xe vào đền xem ca hát.
Lúc ấy khi vua đang ngồi xem. Trời sắp tối, chợt thấy gió mưa kéo đến, trên mặt nước trước đền mây nổi năm sắc. Trong đầm sóng vỗ, giao long, cá giải, rắn hoa đến chầu cả trước nơi đền. Đương lúc vua xem hội, công chúa chầu bên cạnh. Bỗng thấy một gói khăn hồng tự trên không rơi vào trong lòng công chúa. Công chúa hoảng sợ, cầm khăn mở xem, thấy trong khăn có trăm miếng trầu cau vàng và một bức thư. Công chúa sợ hãi, tâu với vua. Vua sai thị thần mở thư ra xem. Trong thư rằng:
Long hầu Thuỷ quốc ký nhất thư vân. Thục nữ tuy Dương đình vương nữ, Quân tử giai Thuỷ quốc nam quân, Nhất tâm thúc ước. Lưỡng quốc tương thân, Hảo thuật dĩ xứng. Nguyện kết hôn nhân.
Dịch là:
Long hầu Thủy quốc gửi bức thư đây Thục nữ tuy con gái vua Dương đình, Quân tử cũng là con trai vua Thủy quốc. Một lòng kết ước, hai nước cùng thân. Tốt đôi đã xứng, xin kết hôn nhân.
Vua thấy thị thần đọc xong, cười mà bảo rằng:
– Ta có ngọc Lam Điền, kén rể tài lương. Nay Thủy đế yêu thương, ta bằng lòng gả. Nhưng tuy Dương đình, Thủy quốc phong thủy không cùng, song lễ nghi cùng giống. Nay chỉ thấy trầu cau, thư đến, lại chưa biết mặt rể hiền. Ta mong được một lần gặp mặt.
Vua nói xong, chợt thấy đám mây trắng ở giữa đầm sâu nổi lên mặt nước, thẳng đến trước mặt vua. Âm u mù mịt một phút rồi tan. Bèn thấy một người con gái tuổi ngoài hai mươi, áo vóc khăn hồng rất là đẹp đẽ, đứng trước sân bên phải. Gái trinh trẻ tuổi hơn mười người, bưng một con trâu bạc ở trước. Bên trái có một tướng con trai, mũ rồng áo giáp rực rỡ, đứng sau hơn mười người trai gái, bưng một trâu vàng đến đặt đôi bên trước sân. Hai người tâu rằng:
– Một gọi là là Sùng Chu tì tướng. Một gọi là Quế Hoa vu nữ. Nay vâng mệnh Tả Long quan Thủy quốc khiến chúng tôi hiến lễ hai con trâu để cầu hôn con gái vua.
Hai người dập đầu làm lễ trước vua, rồi biến đi. Vua thấy hai con trâu vàng, bạc để trước nơi vua ngự. Lòng vua nghĩ thầm rằng:
– Duyên trời đã thế. Dương gian Thủy quốc khác gì. Cháu chúa con vua cũng xứng đáng. Là thiên tử không lẽ nói đùa mà không nhận sính lễ. Vua sai các đình thần làm lễ cầu đảo, ngầm chúc rằng:
– Xin âm phù cho vận nước lại được thanh bình. Gian thần Nhật Lễ cướp ngôi. Vua phải lánh nạn. Nay muốn đem quân về phục quốc, đón vua về kinh đô, dẹp gian thần Nhật Lễ. Xin âm phù cho ngôi vua được vạn toàn. Đến khi giành lại ngôi vua ắt có gia phong, thưởng hậu và gả con gái cho.
Khấn xong vua bèn trở xe về cung (tức Đáo Xá Nam cung). Chợt thấy có sứ của ông Cung Tuyên Vương (tức em vua Nghệ Tông) cùng công chúa Thiên Ninh lại báo tin, xin rước vua về kinh để trừ Nhật Lễ, không nên bỏ nước cho người. Vua bèn xuống thuyền rồng cùng quân sĩ trở về. Vua đến bến sông, chợt thấy dưới nước có tiếng đọc trong trẻo rằng:
Người sang Dương đình Người xuống dưới nước. Đấy sang đây quý Ta rước nhau đi. Thiên binh Thủy quốc Nghênh đế hồi quy. Nhật Lễ tự tán Đế vị thùy y.
Đọc xong thấy công chúa Phương Dung tự nhiên ngả mình xuống nước mà chìm đi. Bỗng nhiên mưa gió như bay. Thuyền đi vùn vụt. Lòng vua nghĩ thầm, việc đã định trước, không thay đổi được, đành yên lòng vậy.
Vua còn về Ái Châu (tức Thanh Hóa). Công chúa độ bảy tám tháng mà chưa trở về thành. Một hôm vua nằm ngủ bỗng thấy một người tướng mạo đường đường, cưỡi con ngựa trắng, đằng sau là công chúa Phương Dung đi kiệu phượng. Hai bên hầu hạ khoảng hơn nghìn quan lân, cá binh, thẳng đến trước vua, xuống ngựa khấu đầu làm lễ. Vua thấy Công chúa, hỏi rằng:
– Người ấy là rể hiền ta chăng?
Bà thưa:
– Vốn là Tả quan Thủy quốc, kết với con gái làm con rể vua. Nay xin vua quay về với việc nước, để chúng con âm phù giúp nước. Xin vua chớ vì lo lắng trong lòng mà bỏ cơ nghiệp to lớn của nước nhà.
Nói chưa xong, vua bèn tỉnh dậy mới biết là mộng, nghĩ thầm rằng là Thủy quan báo đến lúc trở về nước để âm phù giúp, không gặp hoạn nạn gì. Lúc ấy (tức ngày 12 tháng 11) vua bèn đem quân sĩ trở về kinh thành. Quần thần phù giá đón vua. Nhật Lễ nghe tin vua về, tự nhiên lòng hoảng sợ, rời bỏ ngai vị ra hàng chịu tội. Vua bèn phế giết Nhật Lễ, rồi lên ngôi Hoàng đế, cải hiệu đại xá, xưng làm Nghĩa Hoàng Thuần Hiếu Hoàng đế. Quần thần mở tiệc yến lớn. Từ ấy, vua tôi hợp đức, thiên hạ thái bình. Phong thêm mĩ tự cho bách thần.
Khi ấy (ngày 10 tháng 12) vua khiến sứ thần ban sắc chỉ về đền xã Đào Xá, lại truyền Nam trang là nơi vua từng ngự lập đền thờ bà vương nữ. Bèn gia phong là Phương Dung Vương nữ Công chúa. Đào Xá phụng thờ (tức là đền ngoại thôn bây giờ). Phong:
– Đệ Nhị Long Vương Phụ mã Dực vận Phu quốc Hiển linh Đô thống Phổ đức Hoành vĩ Đại vương.
– Đệ Nhất Long Vương Uyên tĩnh Quảng thánh Vệ hiển Uy linh Bác trạch Uyên trừng Bác đạt Đại vương.
– Đệ Tam Long Vương Hải lâm sơn Tế thế Dụ trạch Đàm ân Đôn mẫn Linh uyên Đại vương.
Chính đền ở Đào Xá phụng thờ. Xã Đào Xá là nơi sở tại, xuân thu nhị kỳ ban thêm việc quốc tế. Còn như Thọ Xuyên, Ngọc Tháp đều có đền chính sở tại, còn di tích để bộ sau, cùng với hành cung hai bờ sông phụng thờ. Còn có sự tích riêng. Từ Đinh, Lê, Lý, Trần, Tiền Lê, Hậu Lê, Tiền Lý, Hậu Lý nhiều khi linh ứng, hộ quốc cứu dân cho nên các đời đế vương truy phong Thượng đẳng Phúc thần, nghìn năm hương hỏa, hưởng phúc lâu dài, mãi cùng đất nước. Tốt thay, thịnh thay.
Còn như sinh hóa, hiển ứng cùng các ngày lệ, chữ húy, sắc mặc, vâng kê ở sau:
– Ngày sinh thần ngày mồng 3 tháng Giêng. Lễ chính 5 mâm cỗ chay, bánh lênh lang, bỏng, chín cây hoa bông, một đôi trâu vàng, bạc làm bằng xôi, ngoài bọc giấy vàng, giấy bạc. Từ mồng 1 đến mùng 3 tuyển bà đồng, xin âm dương bên chỗ bà Quế Hoa ứng nhập, được thì dân cử người đến mời vào đền chầu múa bông, cùng hiến lễ xuân ngưu. Trứng 3 quả dùng sống đựng trong mâm rồng. Có nước 3 cỗ sòng. 2 bình rượu ngọt, 2 cần sậy. Mổ trâu, ca hát, đánh cờ các thứ.
– Ngày 27, 28, 29 tháng Giêng là ngày khánh hạ đức Thánh phụ, Thánh mẫu và Tam vị Đại vương. Chính lệ lễ nghi cá chép con kho chín bày toàn thân, bày làm 3 cỗ, tiến thượng ban, trâu bàn 3 cỗ, bánh lênh lang 3 mâm. Cỗ sòng rượu ngọt, cần trúc. Trứng 3 quả dùng sống để trong mâm rồng tích thủy. Ca múa các thứ.
– Tháng Bảy từ ngày mùng 10 đến ngày 15 là lệ hiển thần phù giúp vua nhà Lý đánh giặc Tống. Lễ vật như 28 tháng Giêng, duy không có cá chép, lại có bơi chải mở hội trong ba ngày. Xin âm dương được mới thôi.
– Ngày 10 tháng 2 là chính lệ lập đền thờ thần hiệu bà Quế Hoa. Ba mâm cỗ chay, xôi rượu thịtlợn. Ca hát một đêm.
– Ngày trùng ngũ mùng 5 tháng 5 là lệ Khánh hạ. Năm mâm cỗ chay. Thịt lợn, rượu, ca hát một đêm.
– Ngày trùng cửu mùng 9 tháng 9 là ngày lệ Khánh hạ. Ba mâm cỗ chay, thịt trâu, thịt lợn, rượu, trứng gà. Ca hát một đêm.
– Ngày 10 tháng 12 là lệ mừng vua nhà Trần phong sắc. Năm mâm cỗ chay, thịt gà, thịt lợn, xôi, rượu. Ca hát một đêm.
– Ngày 15 tháng 12 là lệ đức Thánh mẫu hóa. Năm mâm cỗ chay, thịt lợn, rượu các thứ.
– Ngày 12 tháng 3 là lệ mừng vua nhà Lý phong sắc và ngày đức Thánh phụ hóa. Cỗ chay, thịt lợn, rượu các thứ.
Chữ húy nhất thiết cấm là 10 chữ Hải, Vân, Hoa, Phương, Dung, Đạt, Mãn, Linh, Uyên, Quế. Sắc phục màu đen và tím nhất định cấm.
Vào tháng Giêng từ ngày mùng 1 đến mùng 3 chọn bà đồng đến chầu múa, hoa bông, lại chọn những người con trai trong làng mà có còn đầy đủ cha mẹ cùng với bà đồng dâng hiến cỗ trâu vàng, trâu bạc cùng thịt lợn và mâm trứng. Các bánh mâm chay cùng với bánh lênh lang trong các tiết đều đặt ở trên ban trên của nơi chính sở, cùng với hai bên là ba mâm cỗ sòng. Cỗ trâu, thịt lợn, rượu ngọt, rượu cần đặt ở ban dưới hai bên khi làm lễ.
Ngày lệ mùng 10 tháng Bảy bơi thuyền đến ngày 15 thì dừng. Trong lễ tế này không có trâu vàng, trâu bạc cùng hoa bông. Chỉ có cỗ sòng, rượu ngọt, rượu cần, trứng gà như lễ vật trước. Lại có một lễ cơm gà đặt ở ngoài nơi thuyền rồng, cầu đảo Tam vị Đại vương cùng với ông Sùng Thống quản Thủy quân Thị vệ Đốc trấn Long quan Đại tướng quân. Trong lễ này dùng xôi gà cùng với ba đấu gạo sống đặt trên ban bảo hộ, khấn được âm dương thì hạ thuyền xuống để bơi.
Vào ngày lệ mùng 1 tháng Giêng cùng với lệ tháng Bảy trước đó phải dọn dẹp đường thủy từ Thượng Hạ Nông về cho đến đền làm lễ đón thánh vị tắm rửa ở gò đất giữa đầm lớn.
Niên hiệu Hồng Phúc năm thứ 2 (1573) ngày 17 tháng 6, thần, Hàn lâm viện Đông các Đại học sĩ Nguyễn Bính vâng chép.