Thời đại Hùng Vương tính từ Kinh Dương Vương hay từ con của Lạc Long Quân?

Trong “Sách giáo khoa” lịch sử hiện nay thường trích dẫn Đại Việt sử ký toàn thư hay Truyện họ Hồng Bàng trong Lĩnh Nam chích quái rằng Hùng Vương là con trưởng của Lạc Long Quân dựng nước Văn Lang, cho nên 18 đời Hùng Vương là tính người con đầu của Lạc Long Quân. Tuy nhiên các bản ngọc phả Hùng Vương Thánh Tổ lại cho biết 18 đời Hùng Vương bắt đầu từ Kinh Dương Vương, hay cả Kinh Dương Vương và Lạc Long Quân đều là những vị vua Hùng. Vậy phải lý giải sự mâu thuẫn giữa các nguồn tư liệu này như thế nào?

Đột Ngột Cao Sơn Cổ Việt Hùng thị thập bát thế Thánh Vương.

Một số người chủ trương rằng thời đại Hùng Vương bắt đầu từ sau Lạc Long Quân, bởi họ muốn gán thời kỳ Kinh Dương Vương – Lạc Long Quân vào khu vực “châu Kinh” ở “Động Đình hồ”, ý là ở Nam sông Dương Tử. Lý thuyết này tuy có vẻ thích hợp để giải quyết giai đoạn nước Văn Lang của vua Hùng, nhưng lại không giải thích được nguồn gốc của người Việt từ Kinh Dương Vương và Lạc Long Quân. Chả hiểu vì lý do gì mà từ 4.000 năm trước khi còn đang là thời kỳ đồ đá người Việt lại có thể “thiên di” một quãng đường dài mấy ngàn km từ sông Dương Tử về sông Hồng, để quanh quanh lập nước Văn Lang ở miền Bắc Việt? Hùng Vương mà theo kiểu này cứ như là từ trên trời rơi xuống đất Việt Nam vậy.

Đọc kỹ Đại Việt sử ký toàn thư thì mọi chuyện không hoàn toàn như vậy. Sử ký trong phần Kỷ họ Hồng Bàng đã nêu rõ có 3 thời kỳ là Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân và Hùng Vương. Năm bắt đầu của thời họ Hồng Bàng là năm Nhâm Tuất (tức năm 2879 TCN, ngang với thời Đường Ngu). Năm kết thúc theo Sử ký chép là năm Quý Mão, tức là năm thứ 57 đời Chu Noãn Vương (258 TCN), tổng cộng gồm có 2.622 năm. Như thế với mỗi thời kỳ trong họ Hồng Bàng trung bình kéo dài là 874 năm. Với thời gian như thế rõ ràng trong mỗi thời kỳ này không phải chỉ có 1 vị Kinh Dương Vương, 1 vị Lạc Long Quân hay 1 Hùng Vương.

Sử ký ghi KINH DƯƠNG VƯƠNG, Xưa cháu ba đời Viêm-đế họ Thần-Nông là Đế-Minh sinh ra Đế-Nghi. Rồi đó sang tuần phương Nam, đến dãy Ngũ-Lĩnh, tiếp được Vụ Tiên-Nữ, sinh ra Vương (Lộc-Tục). Vương là bậc thánh, trí, thông, minh. Đế-Minh yêu quý lạ, muốn cho nối-ngôi. Vương cố nhường cho anh mình, không dám vâng mệnh. Đế-Minh vì thế lập Đế-Nghi làm con nối dòng, trị phương Bắc. Lại phong Vương làm Kinh-Dương-Vương, trị phương Nam, đặt tên nước là Xích-Quỷ.

Như thế giai đoạn mà Sử ký gọi là Kinh Dương Vương bao gồm cả thời gian của các vị vua Đế Minh, Đế Nghi và Lộc Tục. Đế Minh mới là người mở sử họ Hùng, là vị thủ lĩnh của toàn thể dân tộc họ Hùng đầu tiên. Thiên Nam ngữ lục cho biết Đế Minh chính là họ Hữu Hùng đã thay thế họ Thần Nông:

Tự vua Viêm Đế sinh ra
Thánh nhân ngưu thủ họ là Thần Nông
Trời cho thay họ Hữu Hùng
Con cháu nối nghiệp cha ông thủ thành.

Vì thế Đế Minh mới là vị vua Hùng đầu tiên mà hiện đang được thờ tại đền Hùng trên núi Nghĩa Lĩnh dưới tên Đột Ngột Cao Sơn Cổ Việt Hùng thị thập bát thế Thánh Vương, hay Hùng Vương Sơn Nguyên Thánh Tổ Tiền Hoàng Đế. Nói cách khác người bắt đầu 18 đời họ Hùng Việt cổ không phải là con của Lạc Long Quân, mà là ông tổ mấy đời trước của Lạc Long Quân.

Giai đoạn Kinh Dương Vương như thế ít nhất có 3 triều đại là Đế Minh, Đế Nghi và Lộc Tục. Giai đoạn tiếp theo là giai đoạn theo cha Lạc Long Quân xuống biển, được biết là có nhiều đời Lạc Vương nối tiếp nhau. Gọi là Lạc Vương là để chỉ dòng theo cha Lạc Long Quân, phân biệt với Hùng Vương trong dòng theo mẹ ở giai đoạn sau. Giai đoạn Lạc Vương này cũng kéo dài gần cả ngàn năm.

Giai đoạn Hùng Vương theo mẹ Âu Cơ lên núi lập nước Văn Lang tuy cũng gọi là Hùng Vương nhưng chỉ là 1 trong số những giai đoạn sau của Kỷ họ Hồng Bàng. Gọi là Hùng Vương bởi bà Âu Cơ mới là chính dòng trưởng của vua Hùng Đế Minh (Âu Cơ là con Đế Lai, Đế Lai là con của Đế Nghi, Đế Nghi là con trưởng của Đế Minh). Trong khi đó Lạc Long Quân là dòng thứ từ Kinh Dương Vương Lộc Tục, nên thường chỉ gọi là các Lạc Vương.

Nếu Thái tổ Hùng Vương Đế Minh là người thống trị vạn bang chư hầu thiên hạ, đến thời Hùng Vương lập nước Văn Lang thì chỉ còn trăm nước chư hầu, được cai quản bởi trăm người anh em cùng bọc đồng bào. Phải đến khi Thục Vương thay thế Hùng Vương thì thiên hạ họ Hùng mới trở nên thống nhất trong một quốc gia. Mỗi bước phát triển từ vạn bang – trăm chư hầu đến thiên hạ nhất thống kéo dài hơn 800 năm. Đó mới giống tiến trình phát triển thực sự của lịch sử.

Họ Hùng dựng nước bắt đầu đã 5.000 năm có lẻ từ Hữu Hùng Đế Minh, qua 1.000 năm của thời kỳ Kinh Dương Vương thì tới thời các Lạc Vương theo cha khai phá miền ven biển Đông. Để rồi tới 3.000 năm trước nước Văn Lang do các vua Hùng trong dòng theo mẹ lên núi được hình thành, đứng đầu trong thiên hạ trăm nước chư hầu Bách Việt. Cho nên Hùng Vương là tổ của Bách Việt vậy. Danh xưng Hùng Vương vừa là để chỉ vị Thái tổ Đế Minh, khởi đầu họ Hữu Hùng, cũng vừa để chỉ Hùng Quốc Vương, người con cả của bà Âu Cơ đã lập ra trăm nước, đặt ra trăm họ, sắp xếp trăm quan, phong cho trăm thần… Chính vì vậy mà có cả Hùng Vương là tổ của Lạc Long Quân, cũng có Hùng Vương là con cháu của Lạc Long Quân vậy.

Sách mới: Long Hưng Triệu Vũ Đế, tư liệu và luận giải

Sách LONG HƯNG TRIỆU VŨ ĐẾ, TƯ LIỆU VÀ LUẬN GIẢI.
Nguyễn Đức Tố Lưu, Thích Tâm Hiệp, Nguyễn Đức Tố Huân,
Nhóm nghiên cứu di sản văn hóa Đền miếu Việt

Triệu Đà là vị hiền quân,
Quốc danh Nam Việt trị dân năm đời.

Trong các sách vở lịch sử ngày nay, vị hiền quân Triệu Đà đang phải chịu những nỗi “oan ức” khó giải về thân thế và sự nghiệp của ông. Nhưng có một sự thật không thể bác bỏ đó là vua Triệu được thờ một cách tôn kính ở rất nhiều ngôi đền lớn trên miền Bắc nước ta từ hàng trăm năm nay như một vị Đế vương khai cơ hiển hách của nước Nam người Việt.

Cuốn sách Long Hưng Triệu Vũ Đế, tư liệu và luận giải đã tiếp cận vấn đề nhà Triệu từ những các di tích, di sản văn hóa ở khắp các vùng trên miền Bắc, kết hợp với những phát hiện khảo cổ mới trong những năm gần đây để đưa ra những luận giải có tính đột phá làm rõ thân thế, sự nghiệp không chỉ cho vua Triệu Đà, mà cả thời kỳ nhà Triệu nước Nam Việt.

Triệu Đà xuất thân áo vải, làm quan huyện ở Kiến Xương – Thái Bình, giương cờ khởi nghĩa kháng Tần ở núi Châu Sơn – Bắc Ninh, thấy rồng bay lên ở Long Biên mà thành nghiệp chiếm thành Cổ Loa rồi thống nhất thiên hạ, lên ngôi là Triệu Vũ Đế. Nối tiếp cơ nghiệp của ông là Triệu Quang Phục, chống giặc ở đầm Dạ Trạch, xưng Đế ở Phiên Ngung, lập nên tuyên ngôn Nam quốc sơn hà, đối lập với nhà Tây Hán. Nhà Triệu truyền 5 đời tới Vệ Dương Vương thì kết thúc ở cửa Đại Nha bên bờ biển Nam Định – Ninh Bình.

Lời bài ca trù tế thánh ở đền Đồng Xâm như tóm tắt công nghiệp nhà Triệu:

Nam Hải Kiến Xương cơ, hùng tranh Hán Bắc
Phiên Ngu Chân Định đỉnh, đế thủy Viêm Nam.

Cuốn sách không chỉ là một khảo luận lịch sử độc đáo mà còn là tài liệu hướng dẫn giá trị về văn hóa tín ngưỡng đối với các vị vua nhà Triệu đã khai cơ mở nước Nam người Việt. Khảo cổ các lớp thành Cổ Loa, niên đại các đồ đồng Đông Sơn tìm thấy ở nước ta, con Rồng đá bên Giếng Việt miền Châu Sơn, tấm bia Xá lợi tháp minh ở Luy Lâu… là những bằng chứng vật chất rõ ràng của thời kỳ Nam Việt. Nguồn tư liệu thành văn rất phong phú về phả tích, sắc phong, hoành phi, câu đối, văn tế các vua Triệu được dịch và giới thiệu kỹ lưỡng tại mỗi đền miếu ở từng vùng văn hóa tín ngưỡng liên quan.

Không dừng lại ở khảo cứu các vị vua nhà Triệu, cuốn sách còn luận giải những giai đoạn lịch sử liên quan khác là thời kỳ Thục An Dương Vương và thời Tiền Lý Nam Đế bằng những tư liệu điền dã phong phú và nhận định tổng hợp sâu sắc. Long Hưng Triệu Vũ Đế là cuốn sách không thể thiếu với bất kỳ con dân nước Nam nào quan tâm đến quá khứ hào hùng mở nước trị dân của các bậc tiền nhân người Việt.

Sách in khổ 16×24 cm, dày 568 trang, gồm các phần chính:

Lời nói đầu

  1. Những nỗi oan của vị vua mang tên Triệu Đà
  2. Cổ Loa thành trên Lạc quốc
  3. Chân Định Kiến Xương cơ      
  4. Vũ Ninh dấy nghĩa
  5. Long Biên ngày kháng Tần
  6. Nam quốc sơn hà
  7. Đại Nha hải khẩu
  8. Nam Việt Úy Đà diễn nghĩa
  9. Di tích và lễ hội về nhà Triệu và các nhân vật cùng thời
  10. Thống kê các di tích thờ Triệu Đà, Lý Nam Đế, Triệu Việt Vương
  11. Sắc phong và văn tế vua Triệu

Tài liệu tham khảo

Những khía cạnh trong tín ngưỡng thờ thần bất tử Chử Đồng Tử

Chử Đồng Tử đi vào trong tín ngưỡng dân gian là vị thần bất tử thứ hai trong Tứ bất tử nước Nam. Bản chất của tín ngưỡng thờ Chử Đồng Tử được làm rõ hơn qua nghiên cứu các thần tích dân gian về vị thủy thần cùng vùng sông nước sông Hồng này.

1.      Chử Đồng Tử ở vào thời Hùng Vương thứ mấy?

Truyện Đầm Nhất Dạ trong Lĩnh Nam chích quái ghi Chử Đồng Tử ở vào thời Hùng Vương thứ 3. Một số thần tích như ở đền Đa Hòa (Khoái Châu, Hưng Yên) ghi là đời Hùng Duệ Vương thứ 18. Nhưng cũng có nơi như ở thần tích đình Đa Ngưu (Văn Giang, Hưng Yên) lại ghi là đời Hùng Vương thứ 6. Xét sự tích Chử Đồng Tử mang đầy màu sắc huyền thoại xa xưa thì có thể thấy câu chuyện này không phải ở cuối thời đại Hùng Vương, mà là ở quãng giữa, nghiêng về gần đầu thời kỳ Hùng Vương. Việc đánh số thứ tự các vị vua Hùng là 3 hay 6 thực ra không có nhiều ý nghĩa vì không rõ trong từng trường hợp thứ 3, thứ 6 hay thứ 18 là tính từ vị tổ đầu tiên nào.

2.      Chử Đồng Tử là hình tượng một thủy thần

Việc xác định Chử Đồng Tử là một vị thủy thần đã được nhiều tài liệu nói đến qua hình thức phối thờ với những thủy thần khác như với Tứ Vị Càn Nương, với thần Cá Chép … Nhà Chử làm nghề đánh cá ở bãi Chử Xá, rồi khi cha mất Chử Đồng Tử trầm mình trong nước mà kiếm sống, nên tất nhiên khi hóa thần sẽ là thủy thần của vùng sông nước. Tuy nhiên, khác với các vị như Linh Lang Đại vương hay Quý Minh Đại vương là các “thủy thượng linh thần” trong dòng dõi theo cha Lạc Long Quân xuống biển, Chử Đồng Tử có xuất thân từ trong nhân dân lao động chài lưới ven sông biển, nhờ duyên kỳ ngộ mà đắc đạo thành tiên.

Trong các thần tích ở vùng Khoái Châu, khác hẳn với lời kể của Lĩnh Nam chích quái, Chử Đồng Tử không hề đi buôn bán. Ngọc phả đền Hóa Dạ Trạch kể: … Tiên Dung cũng sợ không dám trở về, mới cùng với Đồng Tử quây màn mà ở bãi Mạn Trù. Từ đó mà có tên gọi là Màn Chầu. Được vài tháng lại dựng nhà ở xứ Quỳnh Viên, châu Hoan. Sau đó Đồng Từ từ biệt Tiên Dung đi chu du bốn biển. Như vậy, Chử Đồng Tử là một vị nhân thần tu tiên đạo, chứ không phải là “ông tổ” nghề thương mại.

3.      Quỳnh Viên, nơi Chử Đồng Tử học đạo là ở đâu?

Bức đại tự trước cung thờ Chử Công Đồng Tử ở làng Đông Tảo Đông (Văn Giang, Hưng Yên) ghi Quỳnh Viên đắc đạo 瓊園得道. Các thần tích về Chử Đồng Tử ghi rất rõ Quỳnh Viên, nơi Chử Đồng Tử gặp lão tiên ông là ở Hoan châu, tức vùng Nghệ An, Hà Tĩnh. Hoan châu cũng là quê mẹ của Công chúa Tiên Dung (theo thần tích mẹ của Công chúa là Hoàng hậu Dương Thị Diễm người Đức Quang ở châu Hoan), nên sau khi Tiên Dung gặp Chử Đồng Tử không quay về triều vua Hùng mà về quê mẹ sinh sống là điều tự nhiên. Di tích và truyền thuyết về Chử Đồng Tử, Tiên Dung ở Hoan châu nay vẫn còn là ở núi Nam Giới tại Thạch Hà, Hà Tĩnh.

4.      Những mối duyên kỳ ngộ của Chử Đồng Tử

Trong sự tích của Chử Đồng Tử có tới 3 mối duyên kỳ ngộ. Thứ nhất là việc gặp gỡ trong một hoàn cảnh bất ngờ với Công chúa Tiên Dung bên bãi sông. Thứ hai là việc gặp lão tiên ông ở Quỳnh Viên. Thứ ba là gặp Tây Cung Tiên nữ trong đầm Dạ Trạch. Ý nghĩa của sự kết hợp nhân duyên này là gì?

Ngọc phả kể khi Chử Đồng Tử ở Quỳnh Viên gặp ông lão bạc đầu hát như sau:
Sơn chi cao hề! Thuỷ chi thâm
Trần trung thiển hữu thức kỳ âm
Thức kỳ âm hề, kết giai âm
Ký kết âm hề, tuy vạn lý diệc tầm.
Ký kết đắc nhi dữ chi du hề
Nguyện đối dữ sơn cao, thuỷ chi thâm.

Dịch là:
Núi cao chừ, nước sâu thăm thẳm
Cõi trần mấy ai hiểu âm này
Hiểu âm này chừ kết giai âm

Đã kết âm chừ dẫu vạn dặm cũng tìm
Đã kết được rồi thì cùng du chơi
Xin sánh cùng với núi cao nước sâu.

Lời hát của lão tiên ám chỉ việc kết hợp giữa “núi cao” và “nước sâu”, là sự việc quý giá, vạn dặm cũng tìm. Sự kết hợp đó sẽ làm nên công trạng “sánh cùng với núi cao nước sâu”. Khi đặt lời hát của tiên ông vào trong bối cảnh của Chử Đồng Tử thì sẽ thấy rõ ràng rằng thủy thần Chử Đồng Tử là “nước”, còn Tiên Dung Công chúa phải là “sơn”. Đây là một sự kết hợp sơn – thủy khác trong truyền thuyết Việt bên cạnh cuộc gặp gỡ của Lạc Long Quân và Âu Cơ hay của Sơn Tinh và Thủy Tinh. Sự kết hợp của 2 dòng lên núi và xuống biển đã được nhấn mạnh nhiều lần vào thời kỳ đầu của thời đại Hùng Vương, là nguồn gốc Tiên Rồng của trăm họ người Việt.

5.      Chử Đồng Tử đắc Tiên đạo hay Phật đạo?

Tất cả các thần tích ở các nơi phụng thờ Chử Đồng Tử đều ghi Chử Đồng Tử ở Quỳnh Viên đã gặp lão tiên ông mà được truyền thụ tiên đạo cùng với gậy và nón thần. Chỉ có Lĩnh Nam chích quái mới gọi vị Tiên ông này là lão Phật quang. Giai đoạn đầu của thời kỳ Hùng Vương (thứ 3) đâu đã có đạo Phật của Thích Ca để mà Chử Đồng Tử tu theo. Gậy trúc và nón tròn là biểu tượng của Âm – Dương rất rõ. Cùng với phép thuật đầu sinh đầu tử, cải hóa cả âm dương của cây gậy trúc thì chỉ có thể nói Chử Đồng Tử đã đắc Tiên đạo. Tín ngưỡng dân gian đã tôn ông là Chử Đạo Tổ. Các đạo sĩ thời Nguyễn đã liệt cả Chử Đồng Tử, Tiên Dung cùng Tây Cung Công chúa vào trong sách Hội chân biên như những vị tổ của Đạo giáo Việt Nam.

6.      Vì sao Chử Đồng Tử là thần bất tử thứ hai?

Trong bộ các vị thần Tứ bất tử nước Nam, Chử Đồng Tử được xếp ở hàng thứ hai sau Tản Viên Sơn Thánh. “Bất tử” là mục đích tu tiêu của đạo Giáo nên đây không phải là cách sắp xếp theo công trạng thành tích của các vị thần được thờ.
Tản Viên Sơn Thánh đứng đầu trong các vị thần bất tử bởi Thánh có cây gậy thần do Thái Bạch Kim Tinh trao truyền, có khả năng cải tử hoàn sinh, đã từng cứu sống con rắn con Long Vương Động Đình ở bên bãi Trường Sa, nhờ đó đi xuống Thủy phủ mà được thêm cuốn sách ước. Thánh Tản không hóa mà đã lên núi Tản Viên trở thành bất tử.
Chử Đồng Tử cũng vậy, nhờ học được phép tiên của lão tiên ông ở Quỳnh Viên, dùng cây gậy trúc cứu sống nhiều người ở xã Ông Đình, Mạn Trù, nên Chử Đồng Tử là thần bất tử. Chử Đồng Tử không hóa, mà một đêm bay về trời, mãi mãi bất tử ở nơi cung trăng.
Còn vị thần bất tử thứ ba là Thánh Dóng, tuy là bất tử bay về trời thành Thiên Vương, nhưng Phù Đổng chỉ có khả năng diệt giặc, mà không có khả năng cải tử hoàn sinh, cứu người chết sống lại như Tản Viên Sơn Thánh hay Chử Đạo Tổ. Do đó Phù Đổng Thiên Vương đứng hàng thứ 3 trong thần bất tử là hợp lẽ.

7.      Tây Cung Tiên nữ

Hiểu biết về thần bất tử trong chuyện Chử Đồng Tử còn đến từ nhân vật Công chúa Tây Nương. Ngọc phả kể: Bà mẹ từng nằm mơ thấy có một con chim xanh từ phương Tây bay đến, bay vào trong trướng, biến hóa thành một người con gái. Kế đó lại thấy một vị nữ nhân nói rằng: Ta vốn là Tây Cung Vương Mẫu ở trên trời. Người con gái này là con gái của ta, nay đem đến gửi cho nhà ngươi ở tại trần gian trong 3 kỷ.
Tây Nương đúng là đã ở trần gian trong 3 lần, lần đầu là sinh ra ở Đông Miên (Đông An, Hưng Yên) rồi mất, nhưng lần 2 lại thường xuyên về thăm gia đình, ruộng vườn, du chơi trên đường cái, cầu kiều. Lần thứ 3 là xuất hiện trong “kính cổ” khi gặp vợ chồng Chử Đồng Tử và Tiên Dung.
Tây Vương Mẫu là vị thiên thần bất tử, đứng đầu các vị thần trên núi Côn Lôn của Đạo giáo. Tây Sa Công chúa là con của Tây Vương Mẫu đã lấy Chử Đồng Tử tức là Chử Đồng Tử đã có được tiên đạo bất tử. Các thần tích còn kể, Tây Sa Công chúa có khả năng chế thuốc chữa bệnh cứu người, điều mà Chử Đồng Tử không làm được vì cây gậy trúc phải đợi người chết đi mới cứu sống lại được. Câu đối ở đình Phương Trù (Khoái Châu, Hưng Yên) kể về việc này:
造化亦無權金鼎靈丹傳不死
神仙安可接石頭廟貌凛如生
Tạo hóa diệc vô quyền, kim đỉnh linh đan truyền bất tử
Thần tiên an khả tiếp, thạch đầu miếu mạo lẫm như sinh.

Dịch là:
Tạo hóa cũng vô quyền, đỉnh vàng thuốc thiêng truyền bất tử
Thần tiên khó thể tiếp, đầu ghềnh miếu mạo nghiêm như sinh.

8.      Chử Đồng Tử lập Trạch quốc

Ngọc phả chép: Việc xong, ba người (Chử Đồng Tử, Tiên Dung Công chúa, Tây Cung Tiên nữ) lại đi. Phàm là trong huyện Đông An nơi nào ba người đến đều dựng gậy ở đất đó, lấy nón đội lên trên, tự nhiên trở thành lâu đài, thành thị, tài vật, hàng hóa. Từ đó gọi tên là bãi Tự Nhiên. Trong triều quan quân vui mừng mà đi đến tụ họp quá nửa. Vua cha Duệ Vương nghi ngờ là làm phản, bèn lệnh dẫn quân đến đánh. Khi đó trời đã tối, quan quân do đó đóng ở bên bờ trái.
Bức đại tự trước cung thờ ở đình Phương Trù ghi: Trạch quốc Tam Thanh 澤國三清, có ý nói rằng ba vị nhà Chử là người khởi đầu của một quốc gia vùng đầm lầy Dạ Trạch. Việc Chử Đồng Tử lấy Công chúa Tiên Dung không theo mệnh vua cha có nghĩa là Chử Đồng Tử đã tiếm đoạt ngôi quyền của vua Hùng, tự lập thành một nước riêng ở vùng đầm bãi ven bờ phải của sông Hồng. Quan quân triều Hùng Vương đóng ở bờ trái.
Tam Thanh là khái niệm 3 vị thánh khởi đầu trong Đạo giáo. Trạch quốc Tam Thanh là 3 vị tổ của vùng đầm Dạ Trạch, gồm có Chử Đạo Tổ là Thủy thần, Tiên Dung Công chúa là Sơn thần và Tây Cung Tiên nữ là Thiên thần (con của Tây Vương Mẫu – Mẫu Thượng Thiên). Khái niệm Tam phủ Thiên Nhạc Thủy như thế đã hình thành từ rất sớm, ngay trong truyền thuyết và tín ngưỡng thờ Chử Đồng Tử ở vùng đồng bằng sông Hồng.

Ban thờ Chử Đồng Tử, Tiên Dung Công chúa và Tây Cung Tiên nữ ở đình Ngự Dội, Khoái Châu, Hưng Yên.
Đình làng Đông Tảo Đông, Văn Giang, Hưng Yên.
Gậy trúc, nón vẽ ở đền Hóa Dạ Trạch.
Hoành phi Quỳnh Viên đắc đạo ở đình Đông Tảo Đông.
Hoành phi Quỳnh Liễu cung ở đền thờ Mẫu trên núi Nam Giới, Hà Tĩnh.
Hoành phi Trạch quốc Tam Thanh ở đình Phương Trù, Khoái Châu, Hưng Yên.
Đình Phương Trù, Khoái Châu, Hưng Yên.

Ngọc phả ba vị triều Hùng Duệ Vương là Chử Công Đồng Tử, Tiên Dung Công chúa và Tây Cung Tiên nữ

Thần tích làng Đông Tảo Đông, tổng Yên Vĩnh, phủ Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên  theo bản khai 1938 số TTTS 12104

Chữ húy nhất thiết cấm là bảy chữ: Toại, Vân, Đồng, Tử, Tiên, Dung, Tây.

Ngọc phả ba vị triều Hùng Duệ Vương là Chử Công Đồng Tử, Tiên Dung Công chúa và Tây Cung Tiên nữ.

Chi Khảm, bộ thứ hai Thượng đẳng

Xưa đất Việt ta dựng cơ đồ phương Nam phân chia theo sao Ngưu, sao Đẩu. Từ triều Hùng Kinh Dương Vương vâng mệnh vua cha phân phong là tông phái đế vương đất Việt ta. Đất tốt châu Hoan kiến lập kinh đô. Hình mạnh Nghĩa Lĩnh xây sửa miếu đền. Cha truyền con nối hơn hai ngàn năm, đều xưng tôn hiệu là Hùng Vương.

Lại nói, thời họ Hùng truyền 18 đời đến khi Duệ Vương ở ngôi, đóng đô tại Việt Trì bên sông Bạch Hạc, lập nước tên là Văn Lang, kinh đô tên là thành Phong Châu. Vương là người có tài cao chí lớn, tư chất thánh triết, kế thừa cơ đồ thịnh vượng của tổ tông 17 đời gây dựng, trong sửa văn đức, ngoài giữ biên phương, cố sức để hưng bình mà yên Trung Quốc. Khi ấy Vương có một Hoàng hậu. Hoàng hậu Dương Thị Diễm người Đức Quang ở châu Hoan. Có 6 quý phi, một trăm cung tần. Sinh hạ được 20 nam hoàng tử, 4 nữ công chúa. Nhưng mệnh trời thương thay, đều đem thân chốn Bồng Lãng, một ngày mà thành người thiên cổ. Hoàng hậu buồn rầu không thôi, ngày ngày rơi nước mắt lẫn máu. Nên khi ấy bèn cùng vài chục người thị nữ loan giá đi chu du giải buồn. Một hôm nghe nói ở huyện Tam Dương phủ Tam Đới có núi Tam Đảo thờ phụng đền Trụ Quốc Mẫu, rất là linh ứng, cầu gì tất được như ý nguyện mong muốn. Hoàng hậu bèn thân cùng các thị nữ đến hành hương cầu đảo. Tối đó Hoàng hậu nằm mơ thấy có một bà lão ôm một đứa trẻ tiên đem cho. Hoàng hậu trong mộng giơ tay nhận lấy, bỗng nhiên tỉnh lại. Sáng ngày ra làm lễ bái tạ rồi trở về. Từ đó cảm động mà có mang thai, đến kỳ sinh được một người con gái (ngày mùng 4 tháng giêng), mặt phấn má đào, sắc rạng mặt hồ, nhan sắc đầy đặn, hình dáng yểu điệu. Vương mở tiệc mừng lớn, nhân đó đặt tên là Tiên Dung, phong hiệu là Công chúa. Đến khi được 18 tuổi Công chúa không muốn lấy chồng, chỉ thích đi du chơi. Vương yêu mến nên không cấm. Cứ mỗi năm vào quãng tháng ba, tháng tư lại trang trí một chiếc thuyền mà đi chơi chốn sông biển. Một hôm thuyền đi đến bến Chử gia ở địa phận xã Đa Hòa.

Trước đó ở xã Đa Hòa có một gia đình họ Chử, tên là Toại Vân. Vợ chồng tích đức làm việc nhân, ba sinh hương lửa, một gối thật là phong lưu, đầy đủ sao. Một hôm bà mẹ nằm mơ thấy có một ông lão đầu bạc ban cho một đứa trẻ. Từ đó mà cảm động có mang. Mùa thu ngày 20 tháng 8 sinh hạ một người con trai, nhân đó đặt tên là Đồng Tử. Đồng Tử vốn tư chất thông minh, bản tính hiếu thành. Năm 13 tuổi bà mẹ bất hạnh mà bị bệnh qua đời. Nhà cửa lại gặp lửa cháy, tài vật đều mất hết, chỉ còn mỗi một chiếc khố vải. Cha con ra vào cùng mặc chiếc khố đó. Đến khi người cha lâm bệnh sắp mất, mới dặn lại Đồng Tử rằng:

  • Con người ta ở đời bần cùng hay phú quý đều không ngoài ý trời. Nhà ta trước giàu sau nghèo đều do trời vậy, không thể nài kéo. Cha nay bị bệnh, số khó tránh khỏi. Nếu vạn nhất như thế nào, hình hài của cha đã có nắm đất che không lộ ra, nên hãy để thân trần mà chôn, giữ lại mảnh khố cho con làm cách che thân.

Dặn xong thờ dải một tiếng rồi mất. Đồng Tử khóc lóc động trời, nhưng tình thế không thay đổi được, đành ôm thi hài mà khóc rằng:

  • Cha ơi! Cha ơi! Sinh con khó nhọc. Nay nhà nghèo thân hèn, không có gì để báo đáp. Con nay còn ở trên đời nếu lòng trời không phụ, tất sau sẽ có nhiều quần áo.  Cha lúc sống đã là người không có tấm áo quần, nay mất đi há lại thành quỷ lõa thể hay sao?

Bèn đem chiếc khố liệm cho cha mà đem chôn ở bãi đất nhạn bay phía Bắc. Từ đó không có quần áo che thân, thật là rất đói rét, bèn ngâm mình trong nước sông, thấy thuyền buôn đi qua thì đứng lên xin ăn. Lại thả cần câu để làm kế sinh nhai.

Hôm đó thuyền của Tiên Dung đi tới. Đồng Tử nghe tiếng chiêng chống, lại thấy giáo mác cờ xí rợp trời. Đồng Tử sợ hãi chạy lên trên bãi, tìm nơi ẩn náu. Ở tại xã Mạn Trù có một chỗ cao có 5-7 khóm lau sậy, bèn nấp vào trong đám lau sậy, lấy tay đào cát thành hố, nằm nấp vào đó, lấy cát phủ lên trên để che thân đi.

Phút chốc thuyền của Tiên Dung tiến đến bãi cát đầu thôn của xã Mạn Trù. Tháng tư trời nắng nóng. Tiên Dung cùng vài người thị nữ đi lên bãi Màn Trù, thấy có một nơi cao ráo, bèn lệnh cho thị nữ quây màn lại để tắm rửa. Nước tắm chảy xuống làm trôi cát. Đồng Tử hiện ra. Tiên Dung kinh hãi, lặng im hồi lâu. Đồng Tử cũng rất sợ, ý muốn tìm cách chạy thoát. Tiên Dung thấy Đồng Tử muốn chạy thoát bèn nắm lấy tay mà nói rằng:

  • Ta vốn không muốn lấy chồng. Nay lại gặp gỡ ở đây, cả hai đều ở trần, tất là trời đã sai khiến vậy. Khanh hãy mau cùng tắm rửa với ta.

Tiên Dung sai ban cho quần áo, dắt tay xuống thuyền, mở tiệc mừng lớn. Đồng Tử kể lại rõ sự việc chôn mình trên bãi cát. Tiên Dung than thở rồi kết làm vợ chồng.

Vua cha Duệ Vương nghe tin, than rằng:

  • Con gái Tiên Dung của ta mà muốn lấy rể Đông sàng thì trong ngoài triều trăm quan đông đúc, sao không kết làm rể Đông sàng, mà lại nửa đường tự theo kẻ bần cùng ăn xin, sao như chuyện nghe tiếng đức mà thăng cho Thuấn được? Lòng ta thật hổ thẹn.

Bèn không cho phép về cung. Tiên Dung cũng sợ không dám trở về, mới cùng với Đồng Tử quây màn mà ở bãi Mạn Trù. Từ đó mà có tên gọi là Màn Chầu. Được vài tháng lại dựng nhà ở xứ Quỳnh Viên, châu Hoan. Sau đó Đồng Từ từ biệt Tiên Dung đi chu du bốn biển. Trên đường gặp một ông lão tóc trắng, tuổi khoảng 8-9 mươi, đầu đội nón tròn, tay cầm gậy trúc, vừa đi vừa hát rằng:

Sơn chi cao hề! Thuỷ chi thâm

Trần trung thiển hữu thức kỳ âm

Thức kỳ âm hề, kết giai âm

Ký kết âm hề, tuy vạn lý diệc tầm.

Ký kết đắc nhi dữ chi du hề

Nguyện đối dữ sơn cao, thuỷ chi thâm.

Dịch là:

Núi cao chừ, nước sâu thăm thẳm

Cõi trần mấy ai hiểu âm này

Hiểu âm này chừ kết giai âm

Đã kết âm chừ dẫu vạn dặm cũng tìm

Đã kết được rồi thì cùng du chơi

Xin sánh cùng với núi cao nước sâu.

Đồng Tử nghe hát biết là tiên nhân đắc đạo, bèn đến chắp tay nói:

  • Vẻ tiên thân tục, may mắn được thấy. Nghìn năm hiếm có sự gặp gỡ này. Xin chớ cho là đường đột.

Ông lão đầu bạc cười mà nói rằng:

  • Ta vốn là tiên nhân trên trời. Nhà ngươi cũng không phải khách trần tục. Nay đã gặp gỡ là thầy trò có duyên. Hơn nữa người tục mà thành tiên đã là điều lạ. Huống chi không phải người tục mà thành tiên thì có khó gì. Nhà người có muốn theo học ta chăng?

Đồng Tử cảm tạ nói:

  • Tiên ông đã mở lòng như vậy, đệ tử rất vui mừng, sai lại không theo.

Tiên ông bèn dẫn Đồng Tử ra ngoài hải đảo, đem hết phép thuật thần tiên, phi thăng, biến hóa truyền thụ cho Đồng Tử. Đồng Tử nhất nhất đều hiểu thấu. Đến lúc giã từ trở về Tiên ông lại trao cho nón vẽ và gậy trúc cùng với một đạo thần chú, dặn rằng:

  • Một đầu gậy có thể cứu người, đầu dưới gậy có thể trừ kẻ ác. Sau này khi về dựng gậy trên mặt đất, lấy nón phủ lên trên, tự nhiên sẽ thành lâu đài, trăm thứ. Người chết có thể sống lại, người bệnh có thể khỏi, đều ở tại trong thần chú của cây gậy trúc này. Chớ có xem thường.

Đồng Tử lại bái tạ mà nhận lấy, chia tay quay về với Tiên Dung. Thế là đã được 3 năm. Đồng Tử mới đem phép thuật thần tiên truyền thụ lại cho Tiên Dung. Từ đó vợ chồng cùng thành tiên. Một hôm vợ chồng lại trở về huyện Đông An, đi chơi ở đất hai xã Đa Hòa, Mạn Trù.

Lại nói, trong trang xã Đông Miên, huyện Đông An có một người con gái gia đình nông dân. Bà mẹ từng nằm mơ thấy có một con chim xanh từ phương Tây bay đến, bay vào trong trướng, biến hóa thành một người con gái. Kế đó lại thấy một vị nữ nhân nói rằng:

  • Ta vốn là Tây Cung Vương Mẫu ở trên trời. Người con gái này là con gái của ta, nay đem đến gửi cho nhà ngươi ở tại trần gian trong 3 kỷ.

Thế là bà mang thai mà sinh là nương (ngày mùng 10 tháng 2). Nương  tính thích thanh tịnh, ăn chay và các đồ hương hoa. Năm 36 tuổi không có bệnh gì mà mất. Thế nhưng có lúc lại hiện về thăm nhà cửa ruộng vườn, có lúc du chơi trên cầu, đường cái. Có người gặp muốn hỏi thì bỗng nhiên biến mất. Mọi người đều lấy làm kinh lạ, cho rằng nương đã đắc đạo thành tiên.

Khi ấy Đồng Tử và Tiên Dung đi đến địa giới hai xã Ông Đình và Yên Vĩ, thấy nương đang du chơi nơi kính cổ. Tiên Dung thấy nương có dung nhan chim sa cá lặn, có tướng mạo hoa nhường nguyệt thẹn, bèn chỉ cho Đồng Tử nói:

  • Lang quân có muốn lấy cô nương này làm thứ thất không?

Đồng Tử mỉm cười. Tiên Dung biết được ý đó bèn tiến đến Tây Nương cười mà nói rằng:

  • Nàng là Tiên hay là người trần? Là phong nữ hay hoa kiều? Lang quân của ta thiên tư cao xa, tài mức thông minh. Nàng làm thiếp cho người đó chẳng phải tốt sao? Ta tuy là con gái vua nhưng không có lòng đố kỵ và kiêu căng. Nàng và ta làm chị em chẳng phải vui sao?

Tiên Dung dứt lời, Tây Nương đáp rằng:

  • Ta chẳng qua nương ẩn trong hình hài này mà thôi. Ta là tiên nữ Tây Cung, còn vợ chồng nàng cũng đã học thành tiên thuật vậy. Nay không hẹn mà gặp, là do trời hay do người đây?

Tiên Dung nói:

  • Mưu sự bởi người, thành sự do trời. Nay trong việc này là do người vậy.

Thế rồi cả hai cùng cười lớn, dắt tay nhau đi đến chỗ Chử Công ngồi, làm lễ kết thành vợ chồng. Đương lúc đó thấy trong ấp Ông Đình đem ra 6 thi thể người chết mang đi chôn. Chử Công bèn nói với Tiên Dung và Tây Nương rằng:

  • Ta có phép tiên có thể cải tử hoàn sinh. Nay thấy có người chết, ta muốn cứu. Các nàng có thuận theo không?

Tiên Dung cùng Tây Nương nói:

  • Cứu người là việc phúc lớn, sao lại không theo.

Dứt lời ba người cùng đến vào Ông Đình, quả nhiên cứu được 5-6 tử thi. Từ đó tiếng tăm khắp xa gần trong huyện Đông An đều truyền tới. Khi ấy xã Mạn Trù gặp bất hạnh, thiên tai hoành hành, bệnh dịch phát tác. Người bệnh trong làng bị 20-30 người. Người chết 5-6 người. Người chết không có người chôn. Người bệnh không có người nuôi. Bèn tìm Chử Đồng Tử cùng với Tiên Dung và Tây Nương ba người mời về trong làng. Đồng Tử nói một cách nặng nhọc rằng:

  • Xã Mạn Trù là nơi ta và Tiên Dung gặp nhau. Ta mải đi chơi thăm thú mà không để ý, khiến cho người dân mắc bệnh và mất như vậy thật là lỗi của ta vậy.

Bèn cùng với Tiên Dùng và Tây Nương đến xã Mạn Trù, theo phép mà tiên ông đã truyền thụ để cứu xã Mạn Trù, người chết được sống lại, người bệnh khỏi bệnh. Thế là nhân dân, nam nữ, già trẻ xã Mạn Trù ai nấy đều vui mừng, nhảy nhót, làm lễ xin được làm thần tử, xin được lập sinh từ để ngày sau lo hương khói. Đồng Tử bèn dựng gậy ở đất Mạn Trù, lấy nón đội lên trên, miệng ngâm thần chú. Tự nhiên biến thành một tòa nhà to lớn, lưu ở xã Mạn Trù để làm nơi ngày sau hưởng thần.

Việc xong, ba người lại đi. Phàm là trong huyện Đông An nơi nào ba người đến đều dựng gậy ở đất đó, lấy nón đội lên trên, tự nhiên trở thành lâu đài, thành thị, tài vật, hàng hóa. Từ đó gọi tên là bãi Tự Nhiên. Trong triều quan quân vui mừng mà đi đến tụ họp quá nửa.

Vua cha Duệ Vương nghi ngờ là làm phản, bèn lệnh dẫn quân đến đánh. Khi đó trời đã tối, quan quân do đó đóng ở bên bờ trái. Đồng Tử cùng với Tiên Dung than rằng:

  • Đạo làm con sao dám chống lại mệnh của cha.

Đến nửa đêm bỗng mưa to gió lớn đập lên nơi đất ở đó. Lâu đài, của cải cùng với Đồng Tử, Tiên Dung, Tây Nương đều cùng một lúc bay lên trời (ngày 11 tháng 11). Trời sáng, quan quân trở về thuật lại sự việc, tâu lên Duệ Vương. Vương mới biết họ đã đắc đạo thành tiên, bèn xa giá đến xem nơi đất đó, thấy bùn đất ngàn dặm, nhân đó gọi là đầm Nhất Dạ.

Đương khi đó thấy một người con gái cưỡi hạc trắng từ phương Tây đến, đứng ở trong đầm, tự xưng là Tây Cung Tiên nữ, vâng mệnh của Đồng Tử, Tiên Dung đến tạ quân vương. “Chúng thần xin nhận tội không trọn đạo làm con, xin vua cha thứ tội.” Tạ xong lại theo trong đầm mà bay lên không mà đi.

Vương cảm việc đó, bèn sắc phong là Nội Trạch Tiên Cung Tiên nữ, cho được cùng thờ hưởng với Đồng Tử, Tiên Dung Công chúa. Lập đền thờ chính ở xã Đa Hòa. Ban chiếu truyền trong huyện Đông An, nơi nào ngày trước ba vị có lập cung đền và có đi qua trú ngụ, thì đến đền chính Đa Hòa nghênh đón thần hiệu về phụng thờ.

Khi ấy nhân dân xã Mạn Trù cũng đến Đa Hòa làm lễ nghênh thần hiệu của ba vị về miếu trước đây Chử Công đã dựng để phụng thờ. Từ đó hễ trong dân có việc cầu xin đều linh ứng. Nên nhân dân đều nghiêm túc phụng thờ thêm, bốn mùa tám tiết hương hoa đúng như nghi thức.

Phong Chử công Đồng Tử Chí thánh Linh thông Thượng đẳng thần.

Phong Tiên Dung Công chủ Thiên tiên Uyển diễm Thượng đẳng thần.

Phong Nội Trạch Tây Cung Tiên nữ Huyền diệu Thượng đẳng thần.

Lại nói, trải đến thời Tiền Lý Nam Đế cùng chống cự với các tướng Lương là Bá Tiên, Dương Sàn. Nam Đế không may nửa đường mà mất, trao lại quyền cho đại tướng Triệu Quang Phục. Triệu Quang Phục bèn dẫn quân trở về đầm Nhất Dạ cố thủ. Một hôm trai giới lập đàn cầu đảo trời đất bách thần. Trong một lúc thấy có một người nam cưỡi rồng

từ trên trời hạ xuống, tháo móng rồng trao cho, để chế ra đâu mâu, đặt trên nỏ, hướng vào đâu nơi đó khắc yên. Quang Phục bái nhận, lại hỏi tính danh. Người nam đó cười rằng:

  • Chử Đồng Tử chính thị là ta.

Rồi lại cưỡi rồng bay lên không mà đi. Quang Phục bèn sai chế tạo nỏ thần móng rồng, một trận đánh mà bại được giặc. Bèn lên ngôi tự lập làm Triệu Việt Vương. Mới truy tôn Chử Công là Hoàng đế. Tiên Dung Tây Nương là Tả Hữu Hoàng hậu. Lại cho phép dân các xã thờ ba vị đều tu sửa miếu điện mà phụng thờ. Xuân thu sai quan đến tế lễ. Từ đó trải Đinh, Lê, Trần, Lý cùng với hoàng gia ta khai sáng cơ đồ, thường có giúp nước cứu dân, cầu mưa tránh lũ đều có nhiều linh ứng, nên có nhiều đế vương phong thêm mỹ tự, để bốn mùa hương lửa, vạn đời là lệ thường. Tốt đẹp thay!

Vâng khai sinh hóa các lễ cùng với các chữ nhất thiết cấm là năm chữ Đồng, Tử, Tiên, Dung, Tây. Y phục hai màu vàng, tím cấm dùng khi làm lễ.

Ngày sinh thần của Chử Công là ngày 12 tháng 8, làm lễ trên hoa quả, dưới lễ tam sinh, ca hát 10 ngày.

Ngày sinh thần của Tiên Dung là mùng 4 tháng Giêng, lễ như tháng 8, ca hát 1 ngày.

Ngày sinh thần Tây Nương là mùng 10 tháng 2, lễ hát y như tháng Giêng.

Ngày hóa thần ba vị cùng ngày là 11 tháng 11, lễ dùng cỗ chay.

Năm Hồng Phúc thứ nhất, giữa xuân ngày tốt, Hàn lâm viện Đông các điện Đại học sĩ, thần Nguyễn Bính vâng soạn.

Đình làng Đông Tảo Đông

Vài điều làm rõ về Linh Lang và Lạc Long Quân ở Bình Đà

Làng Bình Đà ở Thanh Oai có 2 di tích là đình Ngoại thờ Linh Lang Đại vương, là thủy thần xuất thế thời Lý và đền Nội thờ Lạc Long Quân. Bản khai 1938 của làng ghi vậy. Trong bản khai cũ chỉ có thần tích của Linh Lang Đại vương mà không có sự tích của Lạc Long Quân. Tuy nhiên, không hiểu sao sau này lại thấy có sự tích lưu ở đền Nội Bình Đà về Lạc Long Quân được chép với niên hiệu Thái Bình Thiên Quốc, và nội dung ná ná như Cổ Lôi ngọc phả. Rõ ràng đây là tư liệu được đưa vào di tích sau năm 1938, không phải tư liệu gốc của đền.

Bia ở đền Nội ghi khá đơn giản, rõ ràng: Dân có tổ, tổ có miếu, nước thì thờ, làng thì cúng, đều là để tưởng nhớ vậy. Làng ta phụng thờ quốc tổ Lạc Long Quân từ xưa… Không có đoạn sự tích như Cổ Lôi ngọc phả kể từ Kinh Dương Vương, rồi Lý Long Cảnh, Sùng Lãm… Đền Nội Bình Đà đơn giản là một nơi thờ Lạc Long Quân, không có mộ tổ của cụ nào được ghi chép ở đấy cả.

Về bức giá tượng trong đền Nội, các tài liệu ghi là có chữ “Hùng Vương Sơn Nguyên Thánh Tổ …“, tức là nói đến Hùng Vương. Nhưng bản khai 1938 lại ghi rằng bức giá tượng đó có chữ “Ngũ thập tử tòng phụ, ngũ thập tử tòng mẫu “, tức là nói đến truyền thuyết bách noãn của Lạc Long Quân.

Hiện nay, Linh Lang Đại vương ở Bình Đà được làm lễ ngày hóa là ngày 26/2 âm lịch. Theo Cổ Lôi ngọc phả thì Lạc Long Quân hóa ngày 28/2, tức là gần trùng với ngày hóa của Linh Lang Đại vương. Ngày 6/3 âm mà hiện nay đền Nội đang làm chính lễ hội, không phải là ngày hóa của Lạc Long Quân, mà là ngày khánh hạ của làng mà thôi.

Ở đình Ngoại trên bia và trên đại tư cho biết đây là 1 trong 4 đền thiêng của Thanh Oai (Thanh Oai tứ linh từ chi nhất). Câu đối ở đình:

Thần tích thái hy kỳ, lịch đại bao phong, Thanh Oai tứ linh từ chi liệt

Võ công do hách trạc, xã dân sùng bái, Lý triều bát thế kỷ dĩ lai.

Dịch nghĩa:

Thần tích thật kỳ lạ, các đời bao phong, là trong 4 đền thiêng của Thanh Oai

Võ công còn rạng tỏ, xã dân sùng bái, từ thời Lý tám đời tới nay.

Nếu đền thờ Linh Lang Đại vương đã là một trong 4 đền thiêng của Thanh Oai, thì sao đền thờ Lạc Long Quân lại không được xếp trong các đền thiêng này? Rõ ràng ở đây coi đình thờ Linh Lang và đền thờ Lạc Long Quân là 1 cụm di tích, thờ chung 1 vị thần mà thôi.

Điều lạ nữa là trong đình Ngoại Bình Đà tuy thờ Linh Lang là tướng quân, nhưng hai bên lại bày ban văn võ, giống y như bên đền Nội. Có đủ ban văn võ hai bên thì người được thờ phải là vua.

Như vậy thực ra làng Bình Đà vốn chỉ thờ 1 vị thần là Linh Lang Đại Vương, cũng là Lạc Long Quân. Đình Ngoại là đình thờ, chỉ có bài vị. Đền Nội là đền thờ nên có bức giá tượng. Việc trùng ngày hóa của 2 vị, cùng là Thủy thần hiển linh thời Lý, cùng 1 đền thiêng của Thanh Oai… là những dẫn chứng cho nhận định rằng Linh Lang Đại vương chính là quốc tổ Lạc Long Quân.

Bia ở đền Nội Bình Đà
Bức giá tượng Ngũ thập tử tòng phụ, Ngũ thập tử tòng mẫu ở đền Nội Bình Đà
Bia đình Ngoại Bình Đà
Hoành phi: Nhất tứ linh từ, ở đình Ngoại Bình Đà
Bụi Trúc hóa long ở sân đình Ngoại Bình Đà
Bài vị cổ Linh Lang Đại vương ở đình Ngoại Bình Đà
Ban Võ ở đình Ngoại Bình Đà
Ban Văn ở đình Ngoại Bình Đà

Mười tám đời Hùng Vương là những ai?

Theo Hùng Vương Thánh Tổ Ngọc phả, sưu khảo bởi Nhóm nghiên cứu di sản văn hóa Đền miếu Việt thì 18 đời Hùng Vương gồm:

Giai đoạn Sơn triều Thánh tổ:

1. Hùng Vũ Vương, bắt đầu vào quãng 5.000 năm trước. Tên thường gọi là Thái Tổ Đế Minh. Tên thờ là Đột Ngột Cao Sơn, hay đầy đủ là Hùng Vương Sơn Nguyên Thánh Tổ Tiền Hoàng Đế. Chính đền thờ tại núi Hùng Nghĩa Lĩnh.

2. Hùng Hy Vương, tên thường gọi là Đế Nghi. Tên thờ là Viễn Sơn Thánh Vương. Đền chính tại núi Hùng Nghĩa Lĩnh. Khu vực thờ khác là ở núi Hồng Lĩnh của Nghệ Tĩnh.

3. Hùng Anh Vương, tên thường gọi là Lộc Tục. Tên thờ là Ất Sơn Thánh Vương. Đền chính ở núi Hùng Nghĩa Lĩnh. Khu vực khác là ở vùng chân núi Lịch, Sơn Dương, Tuyên Quang.

4. Hùng Việt Vương, tên thường gọi là Kinh Dương Vương. Tên thờ là Nam Thiên Thủy Tổ Tản Viên Sơn Thánh. Chính đền ở vùng núi Ba Vì.

Giai đoạn Kinh triều Lạc thị:

5. Hùng Hoa Vương, quãng 4.000 năm trước. Tên thường gọi là Lạc Long Quân. Tên thờ là Linh Lang Đại vương hay vua cha Bát Hải Động Đình. Chính đền ở An Phụ, hồ Dâm Đàm. Đền thờ ở nhiều nơi khác trên vùng Đồng bằng Bắc Bộ và ven biển.

6. Hùng Uy Vương, là triều đại phục hưng sau sự gián đoạn bởi Trạch quốc của Chử Đồng Tử. Hoa sử gọi là nhà Hạ Trung hưng.

7. Hùng Huy Vương, người Dao gọi là Bàn Vương, sáng lập ra nhà Thương ở vùng Nam sông Dương Tử.

8. Hùng Duệ Vương, là triều đại nhà Ân sau khi theo Bàn Canh vượt Dương Tử tiến lên Hoàng Hà.

Giai đoạn Thục triều Văn Lang:

9. Hùng Chiêu Vương, quãng 1.100 TCN. Tên thường gọi là Văn Lang. Tên thờ là Âu Cơ. Đền chính ở Hiền Lương, Hạ Hòa, Phú Thọ.

10. Hùng Quốc Vương, tên thường gọi là Vũ Ninh. Tên thờ là Hùng Linh Công. Đền chính ở Y Sơn, Hiệp Hòa, Bắc Giang

11. Hùng Tạo Vương, tên thường gọi là An Dương Vương. Hoa sử gọi là Đông Chu Vương. Đền chính ở Cổ Loa.

12. Hùng Nghị Vương, tên trong Hoa sử là Dịch Hu Tống của nước Tây Âu hay Chu Vương thời Chiến Quốc.

Giai đoạn Hoàng triều Triệu Hiếu:

13. Hùng Định Vương, tên thường gọi là Tần Vương. Tần Thủy Hoàng xưng đế năm 221 TCN.

14. Hùng Trịnh Vương, tên thường gọi là Lý Bôn hay Lưu Bang. Tên thờ là Triệu Vũ Đế. Đánh đổ nhà Tần năm 206 TCN. Chính từ thờ tại Đồng Sâm, Thái Bình.

15. Hùng Triệu Vương, tên thường gọi là Triệu Quang Phục. Lập quốc Nam Việt và xưng đế năm 179 TCN. Đền chính ở vùng Dạ Trạch và các đền ven cửa Độc Bộ ở biển Nam Định, Ninh Bình.

16. Hùng Hiếu Vương, tên thường gọi là Lý Phật Tử. Hoa sử gọi là nhà Tây Hán.

17. Hùng Trưng Vương, bắt đầu quãng năm 110 TCN. Tên thường gọi là Bà Trưng. Tên thờ là Ả Lã Nàng Đê. Đền chính ở Hát Môn.

18. Hùng Tân Vương, tên thường gọi là Vương Mãng. Trên đất Việt là giai đoạn các thái thú Đặng Nhượng, Tích Quang.

Hỏi kỹ chuyện qua mà chép sử
Thấy rành như vẽ mới làm thơ.

Link bản đồ: