Càn Hải thánh tế văn

Do Phương hạ tiến sĩ Hồng lư tự khanh Đỗ đại nhân nghĩ. Phiên đọc từ bản chép tay của đền Quốc mẫu ở Ninh Cường, xã Trực Phú, Trực Ninh, Nam Định.

Cung duy Thượng thánh:

Đoan trang tĩnh nhất,
Chính trực thông minh.

Càn khôn dựng tú,
Hà hải dục tinh.

Vấn kỳ tích tắc tiêu phòng quế dịch,
Văn kỳ phong tắc ngọc diệp kim hành.

Anh hoa chi ngoại chất phi phàm, đốc sinh Dương Thị,
Yểu điệu chi phương tư bất cải, nội trợ Tống kinh.

Gia hệ Cao Tào, khuê khổn nhi mẫu nghi thiên hạ,
Nữ trung Nghiêu Thuấn, miếu đường nhi tử dục lê manh.

Triêm ân nhi huyền quản gia gia, sơn tiêu ngu hổ,
Cảm hoá nhi âu ca xứ xứ, hải thiếp ba kình.

Ta thế sự chi mỹ thường, thiên hôi Tống hoả,
Mục sơn hà chi phi cựu, địa tận Nguyên binh.

Tam bách tải cương thường, trách long nhậm đại,
Thập bát truyền mệnh trẫm, quốc trọng thân khinh.

Phong lôi nhất trận Nhai sơn, dực Tống hà liên phu phát,
Xã tắc trùng an kim đỉnh, cừu Nguyên khẳng cộng chiên tinh.

Tuyết thuỷ độc chiêm Dao Trì, can minh thiết thạch,
Tùng bách bất suy hàn tuế, nghĩa quán nhật tinh.

Uông uông bạch lãng quảng sa, nan tiêu khí phách,
Hách hách thanh thiên bạch nhật, cao biểu chân hình.

Nhi sơn linh tráng kỳ nghĩa liệt,
Nhi hải nhược lẫm kỳ anh linh.

Giang ba vĩnh ấn đan tâm, hoàng phi đế tử
Sơn nguyệt trường minh tố tiết, địa nghĩa thiên kinh.

Khôn duy thử nhật sanh phù, dương dương chính khí,
Càn hải giả phiên linh hiển, lẫm lẫm anh thanh.

Sinh tiền dực Tống nhất thân, thánh đức hàm phu thiên Bắc quốc,
Hiển hậu phù Trần nhất mộng, thần uy trực chấn địa Nam minh,

Tế thế an bang, lịch đại chi cổn ba bưu bính,
Khang nhân phụ vật, ức niên chi miếu mạo tranh vanh.

Tư tắc cương phùng khư tiết, ngưỡng vọng phương hình:

Nghiễm nhã y quan, lẫm long nhan nhi bái khể,
Khanh thương lễ nhạc, thân nghĩ khổn dĩ tiền trình.

Cúc tửu tam tuần, phủ phục nhi hiến phân sơ á,
Tùng hương kỷ triện, cúc cung nhi lễ thượng bái nghinh.

Tại miếu tại cung, ung túc nhi đương tư đại tế,
Chương văn chương vật, tôn sùng nhi giám thử vi thành.

Tại thượng tại tả hữu, thần chi cách tư tỷ nhĩ Đồng Nhân xương sí,
Nhi gia nhi hương quốc, thần chi thính chi uyển nhiên Đại Hữu hoà bình.

Thuỵ khí doanh đình, đào lý địch gia sướng mậu,
Dư hương mãn thất, chi lan tạ dân phu vinh.

Cộng nhạc xuân đài, dung dữ vạn niên hồ khảo,
Khả phong tỷ ốc, di du bách phúc lai thành.

Tích tự thiêm trù, bách thế nhi hồng viên an tập,
Giáng tường tiêu dị, tứ thời chi lộc trật phong hanh.

Thần tích thôn Thượng xã Xối Đông, phần nhà Trần

Trích dịch từ bản thần tích lưu tại đền Tây thôn Thượng xã Trung Đông, Trực Ninh, Nam Định.

… Lại nói, từ đó về sau, trải qua Nhân Tông, Anh Tông, Cao Tông, Huệ Tông. Đến Huệ Tông không có con trai kế tự bèn nhường ngôi cho con gái thứ là tên là Công chúa Phật Kim. Phật Kim sau liền cải hiệu là Chiêu Hoàng. Chẳng bao lâu Chiêu Hoàng nhường ngôi cho Trần Thái Tông. Đang khi đó nước Việt ra ở thôn Thượng Lỗi xã Đông Mặc huyện Mỹ Lộc phủ Thiên Trường đạo Sơn Nam có một nhà họ Trần tên là Phác, lấy bà Cao Thị Mỹ thôn Hạ xã Xối Đông huyện Tây Chân làm vợ. Gia thế Trần công vốn làm quan lớn ở triều Lý. Tới ông Phác thì gia cảnh bần bách, không có kế sinh nhai. Vợ chồng bèn gói ghém gia tài trở về quê vợ cùng xin phụ lão cho được ở lại đó để dạy dỗ con trẻ. Nhân dân vui mừng đều đồng ý nhận, tạo một học đường mời ông về ở đó, dạy dỗ sĩ tử. Qua vài năm trong quận huyện nghe tiếng, cũng đều gửi con đến nhập học. Từ đó gia đình ông trở nên đầy đủ hơn.  Một hôm vợ chồng nói với nhau rằng:

  • Ta tuổi đã ngoài ba mươi mà điềm khăn nỏ còn chưa thấy ở cửa huyền. Chi bằng nay hãy tạo phúc gây công, biết đâu ngày nào đó sẽ được trùm ơn, cũng là để thỏa nguyện bình sinh vậy. Sách nói rằng “tích thiện sẽ gặp được thiện, cầu nhân từ sẽ được đắc lòng nhân”. Sao cứ phải khư khư giữ lấy tài vật cho được vậy.

Thế là bèn phát tán hết gia sản để giúp đỡ người nghèo, chu cấp cho người thiếu, đem tài đem lực để ban phát thập phương, xây dựng một ngôi chùa ở trong dân, tô vẽ tượng Phật. Ngày ngày tiến cúng hương hoa. Thời thời tụng niệm chân kinh. Hễ là cần giúp người độ vật đều cố hết sức mà làm. Khi đó trời nóng bức, bà Cao Thị đi ra tắm gội ở bến sông trở về. Đến đêm hôm đó mộng thấy một thần tướng khoác áo bào màu hồng, đeo thắt lưng châu ngọc, thân cưỡi giao long, hai tay ôm một đứa nhỏ đẹp đẽ, đường đường tiến đến trước mặt nàng. Đang trong mộng bà rất kinh sợ, hô gấp Trần công cùng đến xúm bái. Người đó đưa đứa trẻ cho bà Cao Thị nói rằng:

  • Nhà họ Trần phúc hậu, trời đã biết đến. Ta vâng thiên mệnh đem con của Long cung đến thác nhập làm con nhà họ Trần để sau giúp nước triều Trần. Cẩn thận, cẩn thận. Chớ lộ, chớ lộ.

Khi đó bà ôm được đứa trẻ, chưa kịp làm lễ bái yết, trong lòng rất vui mừng thì đột nhiên tỉnh giấc, mới biết là điềm lành, kể lại cho Trần công biết. Tối hôm đó Trần công cũng nằm mộng thấy có một người tặng cho một bài thơ rằng:

Trời định thủy thần cho họ Trần
Vạn cổ núi sông để tiếng thơm
Phúc dày biết tạo, Trời ban phúc
Thấm ơn hưởng lộc tới muôn năm. 

Đến khi ông nghe bà nói, liên tưởng đến giấc mộng, cho rằng đây tất là điềm mộng lành. Từ đó vợ chồng uyên ương chung gối, loan phượng thành bầy. Chẳng bao lâu sau quả nhiên thấy phu nhân có mang thai. Đến kỳ mãn nguyệt sinh hạ một người con trai (khi đó là mùng 2 tháng Mười hai), diện mạo đẹp đẽ, quả giống như hình đứa trẻ trong mộng. Nhân sinh ở nơi chùa nên đặt tên là ông Phạm. Ngày qua tháng lại trải đã ba năm đã biết đi biết nói. Ăn như gió, đi như mưa. Thường thường ra bến sông rẽ nước mà đi xuống. Qua 7 ngày mới trở về dương thế. Người người thấy đều sợ hãi, gọi là thủy thần xuất thế. Đến năm 12 tuổi không học mà tự biết. Phàm trên từ thiên văn, dưới tới địa lý, không có việc gì là không biết, không có thứ gì là không hiểu, lại thạo cung nỏ, giỏi đọc xem hết binh thư. Bạn bè ai cũng sợ phục. Từ đó tiếng vang xa gần đều biết tới tên.

Khi tên tuổi vang đến triều đình, Thái Tông liền sai sứ thần về thôn Hạ xã Xối Đông gọi Trần công vào triều. Công vâng mệnh vào chầu, dẫn theo người con là ông Phạm cùng vào bái yết Đế. Thái Tông thấy ông Phạm có thể mạo khác thường, thực đúng là bậc tuất kiệt. Vua hỏi về tài năng, ông Phạm ứng đối làm Vua rất hài lòng. Ngay hôm đó Vua bái ông Phạm làm Ngự sử Trung thừa. Nhân vì ông Phác là người có tài, lại là người cùng tông phái nhà Trần nên bái ông Phác là Phủ doãn phủ Thiên Trường. Tất cả binh lương, tô thuế đều cho thuộc quản (ông Phác sau hóa được phong là Từ nhân Tập phúc Dao huống Đại vương, hưởng cúng ở thôn Hạ xã Xối Đông, do có bản chép riêng cho này này nên không chép chung vào bản này).

Lại nói, khi đó thôn Thượng xã Xối Đông có một nhà thi thư xử thế, hiếu đễ truyền gia họ Bùi tên Chấn, vợ là người thôn Trung cùng xã tên Nguyễn Thị Ngoạn. Vợ chầm đẹp duyên cầm sắt, uyên ương cùng hợp, lại thường có lòng tạo phúc, cố gắng làm điều nhân, không hề có tới nửa điểm mưa hại người, một hào tư lợi cũng không có lòng tham. Người người ở địa phương đều gọi là một gia đình tốt đẹp. Một bữa vợ chồng ông nhàn rỗi ngồi chơi uống rượu vui vẻ. Khi rượu đã thấm, phu nhân dựa lan can mơ màng thiếp đi, thấy có hai con gấu mờ mờ ảo ảo nhảy múa trước sân, phút chốc hóa thành hai con chim yến trắng. Phu nhân nắm bắt được hai con bạch yến thì bỗng tỉnh lại. Từ đó trong thân có mang. Mang thai được 10 tháng sinh hạ một bầu, nở ra hai người con trai (ngày mùng 10 tháng Mười hai), đều là vẻ rồng hàm én, mắt phượng mày ngài, khác xa với người thường. Cha mẹ rất vui mừng đặt tên người con lớn là ông Khiết, người con thứ là ông Tuyết. Xuân sinh hạ trưởng, đã được 6 năm. Cha mẹ gửi nhập học với Hoa Đường tiên sinh. Học được mấy năm văn võ kiêm toàn, thông minh xuất chúng.

Đến năm 15 tuổi cha mẹ thay nhau mất. Hai ông làm lễ chôn cất cha mẹ, hương khói phụng sự như nghi thức. Khi ấy gia tài đều đã hết, sáng vay tối nợ, bữa đực bữa cái, bốn bức gió lùa, vườn không cọng cỏ. Lúc đó anh em nghe tiếng vợ chồng Trần công (tức ông Phác) tích đức làm việc thiện bèn cùng nhau đến thôn Hạ xin nương tựa làm con nuôi của Trần công. Trần công thấy hai người anh em đều là những nam nhi tốt, rất là yêu mến, tình tuy là con nuôi mà thân như con đẻ. Từ đó hai ông (tức là chỉ ông Khiết, ông Tuyết) tìm được nơi nương tựa, không lo đói khát, dốc lòng chăm học. Được mấy năm thì sử sách trăm nhà không chỗ nào không từng xem. Khi ấy Trần công đã 49 tuổi, bỗng nhiên không bệnh mà mất. Vua cho ông Phạm trở về chôn cất cha. Lúc ấy phu nhân Cao Thị lại do thương tâm mà thành bệnh rồi mất. Ông Phạm cùng với ông Khiết, ông Tuyết làm lễ chôn cất. Đến sau ba năm đạo hiếu đã tròn ông Phạm lại trở về triều nhận chức, để hai người em ở lại gìn giữ gia đường.

Lại nói, khi Thái Tông lên ngôi được 33 năm thì nhường ngôi lại cho Thánh Tông. Thánh Tông khi mới lên ngôi hạ chiếu cầu người hiền, lệnh các châu huyện cử những người hiếu liêm, hiền lương, chính trực, có tài văn võ thì lên kinh thành để ứng tuyển. Lúc đó ông Phạm tiến cử hai người em với Vua. Vua thấy hai người có diện mạo khác thường, trong lòng rất mừng nói:

  • Trời vì triều ta mà đã sinh người hiền phụ giúp, sao lại gặp được muộn vậy. 

Ngay hôm đó bái ông Khiết là Tả bộc xạ, ông Tuyết là Hữu bộc xạ. Nhân việc ông Phạm tiến cử người hiền liền bái ông Phạm là Tấu thư Bác sĩ. Từ đó va ông ở trong triều giữ chức, thiên hạ thanh bình. Đến khi Thánh Tông truyền ngôi cho Nhân Tông, lấy niên hiệu Trùng Hưng. Khi đó Thái tử nước Nguyên là Trấn Nam vương Thoát Hoan cùng đại tướng Hô Mã Nhi, Nguyễn Bá Linh dẫn quân mạnh ba mươi vạn đến xâm chiếm nước ta nhằm cướp lấy nước. Quân thanh chấn động, tiến đến bờ biển. Nhân Tông tập hợp trăm quan định kế đánh dẹp. Khi ấy Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn kiên quyết xin đánh. Trần Phạm, Trương Long, Bùi Khiết, Bùi Tuyết cũng ra sức xin đánh. Vua bèn bái Hưng Đạo Đại vương là Đại Nguyên soái kiêm Chưởng thủy bộ hai quân, nhận năm vạn quân mạnh trấn giữ ở đồn giữa. Lại bái Trần Phạm làm Tả tướng, Trương Long là Hữu tướng, ông Khiết, ông Tuyết làm Điệu bái binh lương cho các lộ. Các ông vâng mệnh nhận quân chia đạo tiến thẳng. Khi đó Hưng Đạo Vương dẫn quân về trang Vạn Kiếp, xây dựng đồn doanh ở trên đất trang Vạn Kiếp. Ông Phạm trấn cứ ở sông Bạch Đằng nối đến sông Lục Đầu, cùng với Hưng Đạo Vương cùng nghênh giặc.

Còn ông Khiết, ông Tuyết cùng Trương Long nhân quân trở về đạo Sơn Nam xây dựng đồn doanh để làm nơi giữ phòng. Khi ấy ba ông nhân quân về xã Xối Đông chia ra lập thành ba đồn. Lúc đó ông Khiết lập một đồn ở thôn Thượng, gọi là đồn Thượng. Ông Tuyết lập một đồn ở thôn Trung, gọi là đồn Trung. Trương Long lập một đồn ở thôn Hạ, gọi là đồn Hạ (sau đổi thôn Hạ thành thôn Phú Gia). Nếu có lập mưu thì các ông tất đều cùng làm với nhau. Trải qua sáu tháng không phân thắng bại. Sau Trương Long được thủy thần Tam Lang dạy, có thể đi dưới đáy nước, đục phá thuyền giặc. Thuyền bè của giặc mất quá nửa. Khi ấy Hưng Đạo Vương cùng với ông Phạm và các quân liên tiếp giao chiến. Quân Nguyên thạo đánh đường thủy nên các ông bèn lên đánh trên bờ. Bỗng có thần Bạch Mã đến giúp. Quân sĩ Nguyên đều chạy tán loạn. Các ông thừa thắng đuổi dài, chém hơn hai trăm đầu tì tướng giặc, vài ngàn quân lính, bắn sống Hô Mã nhi, Nguyễn Bá Linh dẫn về doanh trại. Trấn Nam Vương Thoát Hoan chạy về nước. Hưng Đạo Vương cùng với ông dẫn Bá Linh ra xử tội, chặt làm 3 đoạn thả xuống cửa sông. Quân Nguyên gửi thư xin hòa. Hưng Đạo Vương truyền đem Mã Nhi về nước Bắc, đền gần cửa sông thì giả bị lật thuyền. Mã Nhi bị chết. Từ đó quân Nguyên không dám xâm phạm đất ta. Lúc ấy Nhân Tông luận công ban thưởng các cấp khác nhau, bèn phong Hưng Đạo Vương kiêm Thượng đẳng thần, thực ấp vạn hộ. Phong ông Phạm làm Khuông quốc hầu Chương tấu Phạm Đại vương. Phong ông Khiết là Dực vận hầu Khiết ốc Đại vương. Cho hai ông về xã Xối Đông lập sinh từ để ngày sau có chỗ hương hỏa hưởng thờ (còn ông Tuyết, Trương Long cũng phong Đại vương, được ghi rõ ở bản riêng).

Khi đó ông Phạm, ông Khiết vâng mệnh trở về xã Xối Đông (do ông Phạm lập đồn ở ba nơi, nên đến sau khi hóa ba thôn đều phụng thờ). Khi hai ông đến thôn Thượng truyền xây dựng một nơi sinh từ ở trong đất gần dân. Nhân dân vâng mệnh, xây dựng hoàn thành. Khi ấy ông Phạm dân biểu tâu xin được đi du chơi thiên hạ, trải xem sông núi. Vua đồng ý. Ông bèn đi xe dạo chơi. Một hôm ông đến núi Kim Nhan ở Hoan Châu, bèn lên núi ngắm cảnh. Đến nơi lưng núi bỗng thấy trời đất mù mịt, hổ thét gào. Rồi không thấy ông đâu nữa (tức ông Trần Phạm). Chỉ có ở chỗ ông ngồi thấy mối mới xây thành một gò đất lớn (khi ấy là 15 tháng Tám).

Lúc đó gia thần quân lính thấy vậy, quay về báo với nhân dân. Do người thôn Thượng xã Xối Đông theo ông Phạm thấy ông Phạm đã hóa bèn quay trở về báo với ông Khiết. Khi đó ông Khiết đang đi xe nhàn chơi. Ông Khiết lại dừng ở đất thôn Thượng, dạy đạo cho nhân dân. Ông bèn dâng biểu tâu lên Vua. Vua nghe tin, rất thương xót công thần có công lớn với nước bèn tặng phong sắc chỉ là Dực thánh Khuông quốc Phù vận Triệu mưu Lậu khê Chương tấu Phạm Đại vương. Cho ông Khiết đón sắc về thôn Thượng phụng thờ. Thế là ông Khiết truyền nhân dân thôn Thượng sửa sang chốn cũ đồn doanh để làm đền thờ mà phụng thờ. Ông Khiết ở lại nơi đất thôn Thượng, lấy nhân nghĩa lễ trí tín để giảng dạy cho nhân dân. Trong vài tháng dân trở nên thuần hậu, phong tục tốt đẹp, đất đai trù phú, đều là nhờ công đức của ông vậy.

Lại nói, ông sống ở đất đó qua 6 tháng. Một hôm ông bỗng nhiên bị bệnh liệt, cầu thần không có hiệu quả, uống thuốc không thuyên giảm. Ông mất ở trong nhà (khi đó là mùng 10 tháng Hai). Nhân dân bèn làm lễ chôn cất ở chỗ bên sông. Chôn cất xong, nhân dân dâng biểu tâu lên triều đình. Vua nhớ công lao lớn của ông với nước nhà liền phong thêm sắc chỉ là Dực vận hầu Khiết Ốc Đại vương, lệnh sứ thần đón sắc về nơi hóa, truyền nhân dân viết thần hiệu phụng thờ. Từ đó về sau các chư vị Đại vương của thôn Thượng có linh thiêng âm phù giúp nước, dẹp nạn trừ tai, cầu mưa cầu tạnh có nhiều linh ứng nên có nhiều đế vương phong thêm mỹ tự, sắc chỉ, vạn cổ hưởng thờ, muôn năm hương hỏa mãi không dứt. Tốt thay!

Phong Dực thánh Khuông quốc Phù vận Triệu mưu Lậu khê Chương tấu Phạm Đại vương.
Phong Dực vận hầu Khiết Ốc Đại vương.
Cho phép xã Xối Đông huyện Tây Chân phủ Thiên Trường đạo Sơn Nam phụng thờ.

Ngày sinh thần các chư vị đại vương cùng với các tiết khánh hạ và chữ húy phải cấm vâng khai như sau.

Linh Lang Đại vương sinh thần ngày 15 tháng Giêng. Lễ dùng trên dâng mâm chay, dưới là thịt lợn, xôi. Vào ngày chính có cỗ trai, bánh dày, ca hát, đấu vật mười ngày thì dừng. Hóa thần ngày 15 tháng Mười hai. Lễ dùng dâng chính mâm chay, trà quả, dưới là thịt lợn một màu, xôi, rượu.

Phạm công sinh thần ngày mùng 2 tháng Mười hai. Lễ dùng thịt lợn, xôi, ca hát, đấu vật năm ngày thì dừng. Hóa thần ngày 15 tháng Tám. Lễ dùng trên dâng oản quả, mâm chay, dưới là thịt lợn, xôi, rượu.

Khiết công sinh thần ngày mùng 10 tháng Mười hai. Lễ dùng thịt lợn, xôi, ca hát ba ngày thì dừng. Hóa thần ngày mùng 10 tháng Hai. Lễ dùng trên dâng mâm chay, dưới là thịt lợn, xôi, ca hát ba ngày thì ngừng.

Đại khánh hạ là ngày 15 tháng Mười một. Lễ dùng cỗ trâu, ca hát, đấu vật năm ngày thì dừng.

Mỗi năm hai kỳ xuân thu cứ hai tháng cuối mùa làm lễ bày tế. Làm lễ vật tùy nghi.

Các chữ húy Lang 郎, Phạm 梵, Khiết 潔, Hiển 顯 là bốn chữ nhất thiết cấm.
Chữ húy của các thánh phụ là Khiết 潔, Chấn 振, Phác 樸.
Các chữ húy tên không được gọi, viết văn không được dùng, chữ đọc đều phải tránh âm.

Mỹ tự có chữ Linh, chữ Quý, chữ Minh, chữ Chương, chữ Tấu, chữ Ốc. Các mỹ tự tên không được gọi , đọc đều phải tránh âm. 

Ngọc phả thôn Thượng, làng Xối Đông, Trực Ninh, Nam Định

Bản chính bộ Lễ quốc triều, thủy thần và nhân thần cùng bộ

Xưa vào thời Lý Thái Tông. Khi ấy nước ta ở trang Bồng Lai huyện Từ Liêm phủ Quốc Oai đạo Sơn Tây có một người con gái họ Dương, tên là Thái nương. Năm lên ba tuổi cha mẹ đều mất. Nương sống nhờ người cậu ruột là Trần Công Tiệp ở phường Thị Trại. Đến năm lên 16 má đỏ môi hồng, mày ngài mắt phượng. Tuy lối xóm truyền nhau cầu phượng, nhưng chọn tuyển màn loan còn chưa có ai. Cho nên thơ Đào yêu vẫn chưa được ngâm đàn vậy.

Vào mùa xuân trời đẹp, Thánh Tông loan giá đi chơi ngoài thành. Người người cùng xem, kéo đến đông như nêm, không biết bao nhiêu mà kể. Khi đó Thái nương cùng với người cậu cũng cùng đến xem. Thánh Tông thấy Nương có nhan sắc đầy đặn, không kém tiên khách Bồng Doanh. Vua trong lòng rất thích, bèn dẫn về cung, lập làm Đệ tam Cung phi. Ngày ngày hầu ở bên không rời. Qua được bốn năm không thấy có việc sinh đẻ. Vua bèn lập riêng một cung ở phường Thị Trại, cho Cung phi ở đó. Từ đó Cung phi về ở nơi cung sở, luyện tập nữ công.

Một hôm mùa hè trời nóng bức. Cung phi đi ra hồ Tây giặt lụa. Đang khi ấy bỗng thấy có một con Giao long thân dày hơn mười thước, đầu đội mũ hoa, vảy giáp đỏ trắng, từ giữa hồ nổi lên đến quấn thân Nương ba vòng. Nương bàng hoàng sợ hãi, muốn chạy nhưng không được, ngã thân nằm như mất tri giác, không biết mê hay tỉnh. Được một lúc thì Giao long tự biến đi. Nương dần dần tỉnh lại, quay về cung sở, tâu lên Vua, kể về sự việc xảy ra. Vua nghe nói rất tức giận, muốn định triệu tập trăm quan viết thư bắn xuống hồ để vạch tội thủy cung. Vua bỗng nhiên thấy tinh thần lơ mơ, mơ màng như mộng, thấy một người thân khoác áo hồng, tay cầm cờ hồng, từ phương Nam đi đến, tự xưng là Thiên sư, nói với Vua rằng:

  • Ba năm sau thiên hạ có giặc Trinh Vĩnh đến xâm phạm, nên Thiên đình mệnh thủy thần xuất thế, đầu nhập làm con của hoàng gia để giúp nước dẹp giặc. Bệ hà xin chớ oán trách.

Nói xong Vua bỗng tỉnh lại, biết là mộng lành. Từ đó Cung phi cảm mà có mang thai. Đến ngày 15 tháng Giêng mùa Xuân năm Nhâm Dần sinh hạ được một người con trai. Đang khi sinh có khí lành bay khắp, hương thơm ngào ngạt. Sinh được trăm ngày Cung phi bế hoàng tử vào triều. Vua thấy vậy rất vui mừng, đặt tên là Hoàng Lang, lại cho Cung phi cùng với hoàng tử về cung Thị Trại để ở.

Qua ba năm thì có giặc Trinh Vĩnh dẫn quân đến xâm chiếm. Thiên hạ chia ba phần thì đã bị mất quá nửa. Triều đình nhiều phen giao chiến đều chịu thiệt hại. Vua bèn sai sứ thần đi chiêu mô người dân các chư huyện phủ xã trong thiên hạ, ai có anh tài, trí dùng dẹp yên được giặc thì sẽ ban cho chức trọng trong thiên hạ. Một hôm sứ thần đi chiêu mộ thiên hạ đến lúc về đi đến phường Thị Trại. Hoàng Lang lúc này tuổi mới lên ba, mới biết ăn uống, còn chưa biết nói năng. Đến khi nghe sứ giả chiêu mộ tới nơi, bỗng hỏi mẹ rằng:

  • Sứ giả chiêu mộ gì vậy?

Cung phi nói:

  • Nay có giặc Trinh Vĩnh đến xâm chiếm. Việc thiên hạ an nguy hệ trọng trong sớm tối. Hoàng tử miệng còn hôi sữa, sao có thể dẹp giặc mà hỏi làm gì?

Hoàng Lang nói:

  • Mẹ gọi sứ giả lại đây.

Cung phi bèn gọi sứ giả vào gặp. Hoàng Lang nói với sứ giả:

  • Ngươi hãy mau trở về tâu với Vua cha cho ta một con voi khỏe cùng một lá cờ lớn, tất cả đều phải dùng bằng đồ sắt, mau chóng đem đến. Quân giặc kia sẽ sớm được dẹp yên.

Sứ giả vâng mệnh về triều, dâng tấu lên Vua. Vua nhanh chóng truyền đúc một con voi sắc, tạo cùng đó một lá cờ lớn, đem đến cung Thị Trại. Khi đó Hoàng Lang thở mạnh một tiếng, bỗng thấy thân dài ra một trượng, tay cầm cờ lớn, nhảy lên voi khỏe, hô to một tiếng rằng:

  • Ta chính là Thiên tướng.

Voi chạy như bay. Voi khỏe rống lên một tiếng, trong miệng có lửa bay ra. Trong chốc lát đã đến thẳng đồn giặc. Hoàng Lang tay cầm cờ lớn chỉ vào doanh trại giặc, hô rằng:

  • Ta vâng sắc mệnh Hoàng thiên đến giúp nước dẹp giặc. Lũ giặc sẽ chết không còn một tên.

Nói xong bỗng thấy doanh trại giặc bốc lửa, trong khoảnh khắc cháy rụi. Lũ giặc đều chết cháy. Hoàng Lang quay trở về bái yết vua.

Thế rồi Hoàng Lang bỗng nhiên bị mắc bệnh đậu mùa. Sau ba tháng mà bệnh không thuyên giảm. Vua thân đến tận nơi thăm hỏi, nhân đó nói với Hoàng Lang:

  • Khanh là con của ta thì chứng đậu mùa này tất sẽ khỏi.

Hoàng Lang cúi mình khóc rằng:

  • Thần vốn là con ở thủy cung, không phải con của bệ hạ. Trước thần vâng theo mệnh Thượng đế xuất thế dẹp giặc. Ba năm đã hết hạn, phải quay trở về nhậm chức ở thủy cung.

Vua nghe vậy bèn nói rằng:

  • Khanh có công lao to lớn với nước nhà, mà chưa được báo đáp. Khanh muốn được như thế nào thì ta cũng sẽ đồng ý.

Hoàng Lang tâu rằng:

  • Thần xin Bệ hạ đem thần ra chỗ bàn đá bên hồ Tây, cùng với con voi chiến và lá cờ lớn mang đến đó. Thần xin được cầm cơ ném lên trên trời. Cờ bay đến nơi nào, xin Bệ hạ cho nơi đó là nơi thần được lưu danh ngàn đời. Thế là thần đã mãn nguyện rồi.

Khi đó Vua truyền quân lính đón Hoàng Lang cùng với voi và cờ đến thẳng trên bàn đá bên bờ hồ Tây. Vua thân đến tiễn, hai bên có các quan đi theo, phía sau là các tùy tùng. Đến chỗ bàn đá, Hoàng Lang tay cầm lá cờ lớn ném lên trên trời. Bỗng thấy trời đất

Mờ mịt, sông nước sóng dân cuồn cuộn. Giao long, ba ba trùng trùng vạn hàng nổi trên nước. Cá kình, cá sấu lớp lớp cuộn ngàn ánh sóng. Hoàng Lang bỗng hóa thành một con giao long trườn thẳng xuống hồ Tây mà hóa. Khi đó là ngày 15 tháng Hai. Con voi cũng phục xuống ở phía trái của bàn thạch bên hồ Tây. Được năm ngày sau lá cờ lớn bay trở về dừng ở bên phải. Vua thấy lá cờ lớn đó rất anh linh bèn phong tặng là Linh Lang Đại vương, cho lập miếu ở nơi bàn đá làm đền chính để hương lửa phụng thờ.

Việc xong Vua ban chiếu truyền thần dân thiên hạ nơi nào ngày trước lá cờ lớn hoặc có bay tới địa phương đó thì đều về kinh thành nghênh đón sắc mang về phụng thờ trong dân.

Khi ấy ở hai thôn Thượng và Trung xã Xối Đông huyện Tây Chân phủ Thiên Trường đạo Sơn Nam là cờ lớn cũng có bay tới, chỉ vào nơi trong dân. Từ đó nhân dân thấy bị động, vật nuôi không yên, nhân dân gặp nhiều thiệt hại. Đến khi nghe thấy chiếu truyền đến người thôn Thượng đã làm lễ lên kinh thành nghênh đón sắc Hoàng Lang về phụng thờ cùng với Quý Minh Đại vương ở cùng một nơi. Từ đó nhân dân được an khang, no đủ, vật nuôi yên ổn, đều là nhờ ơn đức lớn của Hoàng Lang. Trải các đời sau đều có nhiều linh ứng giúp nước giúp dân, nên có nhiều đế vương đều có phong thêm các mỹ tự, sắc chỉ, vạn năm hưởng huyết thực, hương lửa không dứt vậy.

Phong Linh Lang Đại vương. Cho phép thôn Thượng xã Xối Đông huyện Tây Chân phủ Thiên Trường đạo Sơn Nam phụng thờ…

(Phần sau là thần tích 3 vị thần khác, không dịch)

Ngọc phả Hùng Nghị Vương và các Quan lang, Lạc tướng, Mỵ nương triều Hùng thứ 17

Dịch theo bản ngọc phả chép tay hiện lưu tại đình Hội xã Tuy Lộc, Cẩm Khê, Phú Thọ. Những phần in nghiêng là những ý khác so với bản dịch trong Lý lịch di tích của đình Hội.

Ngọc phả triều Hùng
Do Thượng thư bộ Lễ triều Lê, Quản giám Tri điện vâng sao ngọc bảo cổ truyền

Hoàng đế Bệ hạ phụng ban sắc văn thần hiệu như sau:

  • Sắc phong Đương cảnh thành hoàng Tuấn triết Hồng huân Anh linh Hiển ứng Hùng Nghị Đại vương Thượng đẳng thần.
  • Sắc phong Đương cảnh thành hoàng Phổ thông Quảng tế Uy vũ Thần công Cao Sơn Đại vương Thượng đẳng thần.
  • Sắc phong Đương cảnh Thành hoàng Thánh trí Thần tài Nguy đức Phổ huệ Cao Minh Đại vương Thượng đẳng thần.
  • Sắc phong Đương cảnh Thành hoàng Dương võ Trợ quốc Ý đức Thần uy Hổ Lang Đại vương.
  • Sắc phong Đương cảnh thành hoàng Yểu điệu Phong tư Nương ả Diễn Kỳ Công chúa.
  • Sắc phong Đương cảnh thành hoàng Vĩ tích Phong công Lý Lý Cửa Đường Đại vương.
  • Sắc phong Đương cảnh thành hoàng Từ huệ Trinh thục Đoan trang Ý hành Nương nương Nhược Ứng Công chúa tôn thần.

Cho phép trang Áo Lộc, huyện Hoa Khê, quận Lâm Thao, trấn Sơn Tây phụng thờ để giúp bảo vệ lê dân. Vâng thay!

Xưa trời Nam mở vận, vạch ngang núi sông theo sao Dực sao Chẩn. Nước phương Bắc ban đầu được phong thẳng hướng sao Đẩu sao Ngưu mà chia ranh giới. Từ thủa Đế Minh là cháu ba đời của vua Viêm Đế đi tuần thú ở Ngũ Lĩnh phương Nam, gặp thần được nữ Vụ Tiên mà sinh ra Lộc Tục. Lộc Tục hơn hẳn người anh Đế Nghi nên Đế Minh muốn truyền lại ngôi báu. Lộc Tục cố chối từ nhường cho anh. Do vậy Đế Minh lập Đế Nghi làm Thái tử trị vì phương Bắc, còn phong cho Lộc Tục ở phương Nam, hiệu là Hồng Bàng thị, tên Kinh Dương Vương.

Kinh Dương Vương vâng thừa mệnh vua cha đem oai trời đến vùng núi Nam Miên. Thấy núi chạy nhấp nhô, nước chảy quanh co, bèn lập đô ấp để định cho bốn phương đến triều cống. Một hôm nhân nhàn rỗi vua đi tuần thu. Bất chợt thuyền rồng chạy thẳng đến hồ Động Đình. Vua sai dừng thuyền trên mặt nước mà ngắm cảnh. Chợt thấy một người con gái mỏng eo tuyệt sắc, từ dưới đáy nước xuất hiện, dung nhan tuyệt đẹp. Vua sai chèo thuyền đến hỏi thăm. Đáp rằng:

  • Thiếp tên là Thần Long, vốn là con gái của Động Đình Quân.

Vua thích thú bèn dẫn vào trong thuyền. Sau đó hỏi lấy về, lập Thần Long làm chính chủ hậu cung. Thần Long sinh Lạc Long Quân, tên húy là Sùng Lãm. Long Quân lấy con gái vua Động Đình Đế Lai tên là Âu Cơ, gặp ứng điềm rồng, sinh một bầu trăm trứng vào ngày 25 tháng Mười hai. Có Tứ đại Thiên vương giáng xuống bảo vệ mà nở ra trăm trai. Tám tướng nhà trời phù giúp đến khi biết cười nói thì tám tướng bay về trời.

Đế cầu đảo trời đất thì có một người trời xưng là thần Tây thành, sinh vào thời Hoàng Đế, có một cuốn sách trời có thể bói mà biết được trời đất, hô danh chúng tiên, nên đặt được cho trăm tên, trăm hiệu, trăm họ, trăm vương vậy, mà phân thứ tự. Trăm trai chầu nhận tên gọi và thứ bậc. Anh em đều vui mừng, theo như vậy mà lưu truyền. Người con trưởng nối ngôi vua tên là Hùng Lân, hiệu là Hiền, gọi là Thượng thánh Cao minh Nguyên triều Hoàng đế.

Long Quân truyền ngôi cho Thái tử xong thì nói với Âu Cơ rằng:

  • Ta là giống rồng, nàng là nòi tiên. Nước lửa tương khắc, khó mà hợp cùng nhau.

Bèn phân 50 người con theo mệnh cha. 50 người con theo về mệnh mẹ, chia nhau các đầu núi góc biển, đều thuộc mệnh theo Hiền Vương. Những người theo cha về biển gọi là Thủy thượng linh thần. Tuy cùng chia biệt, nhưng cùng ở một thời. Khi nghe có việc thì lập tức đến tương trợ. Do đó triều Hùng trị nước được hơn 2650 năm, thật là lâu dài vậy.

Đến đời Duệ Vương, sự yên bình kể đã lâu, nước chảy đã đầy, nên truyền quốc cho Thục Vương. Thục Vương vốn là Bộ chủ Ai Lao, cũng là tông phái của Hùng Vương. Tuy nhiên, truyền rằng khi cùng chung lửa với trời Nam thì sau đó Thục lập cột đá ở trên núi Nghĩa Lĩnh, chỉ trời mà thề rằng:

  • Trời đất không rời, mãi còn dòng dõi Hùng Vương. Nước Nam trường tồn hệ mạch con cháu.

Kể rằng:

Hùng Nghị VươngThái tử của Hùng Hy Vương. Mẹ là Dương Thị An sinh Nghị Vương vào ngày sinh ngày 12 tháng Ba. Lúc đó ngày đêm đang tranh tối tranh sáng thì sinh ra Hoàng đế. Vua lên ngôi, đường đường nối tiếp 17 nhành họ Hùng, bỏ cung cất giáp, không dùng quân binh để an dưỡng thiên hạ. Nhân dân theo sự giáo huấn sáng suốt. Được năm mươi năm bỗng nghe thư từ biên giới gửi về báo gấp. Chủ bộ phụ đạo Ai Lao cầu viện vì tướng Thục đến xâm chiếm. Nghị Vương bèn tuyển 8 vạn tinh binh, xuất quân sang Ai Lao để cứu Bộ chủ. Lạc tướng Hổ Lang hầu cùng Uy Lang, Huệ Lang và Mị nương nương Diễn Kỳ cùng theo giá đi chinh phạt Đông Bắc. Thuyền rồng đi thẳng đến Hoa Khê thì thấy có một người tên Lý, tự đón quỳ tâu ở bên đường, xin được theo quân đi lập công. Lại thấy có một người con gái xinh đẹp từ mặt nước nổi lên. Vương hỏi thì đáp rằng:

  • Thiếp tên là Công chúa Từ Huệ, là con của Long Vương, xếp hàng thứ 5.

Ông Lý họ Lý đón vào trong trang Áo Lộc. Vua trú quân ở trong trang. Các Quan lang, Lạc tướng vâng mệnh đóng quân ở các nơi trong trang động. Người đời sau nhân thấy linh thiêng nên lập thành đền thờ (cộng có 5 miếu). Nghị Vương cùng với các lang tướng điều quân đánh Thục chúa. Quân Thục nghe tin bèn viết thư gửi tới Nghị Vương mà tạ rằng:

  • Thần đâu dám giơ càng bọ ngựa mà chống lại cỗ xe vạn thặng.

Thục chúa lui quân, không dám dòm ngó Ai Lao nữa. Nghị Vương dẫn quan về thành đô Phong Châu, hưởng nước được hơn trăm năm thì mất (tức ngày mồng 7 tháng Ba). Chôn cất ở núi Quy Bối (nay là chùa Hoa Long). Thái tử Duệ Vương lên ngôi, là đời Hùng thứ 18.

Hùng Cao Sơn là quan, con trai thứ 6 của Nghị Vương. Mẫu là Phạm Thị Doanh sinh Cao Sơn vào ngày mồng 10 tháng Giêng, tên húy là Uy Lang, gọi hiệu là Cao Sơn (nhân việc lên núi Hùng Lĩnh thấy có mây ngũ sắc về mang thai nên đặt như vậy).

Ba năm sau vào ngày mồng 7 tháng Giêng lại sinh một con trai, có thần thái đẹp đẽ, nên đặt tên là Huệ Lang, gọi hiệu là Cao Minh (nhân vào giờ Ngọ ban ngày nên đặt hiệu như vậy).

Hai chàng đến khi trưởng thành, ngày ngày thường ở yên trong lầu Nam mà học xem sách, không cần người chỉ bảo, lại thạo lược thao, hùng tài vượt đời. Khi theo vua cha Nghị Vương đi dẹp giặc Thục đến vùng trên của Hoa Khê, đóng quân tại đồn Áo Lộc. Đến khi xe vua trở về đô thành, lại trừ dẹp được yêu quái, hổ sói, quỷ mị. Dẹp xong mãn nguyện nên đi chơi khắp nơi ở 13 châu. Đâu đâu cũng tới. Cùng ngắm cảnh khắp các núi khe. Sau hóa (Uy Lang hóa vào ngày 12 tháng Giêng, Huệ Lang hóa ngày 15 tháng Giêng) ở trang Lãng Ngọc núi Tam Điệp (nay còn đền ở đó). Hai chàng được 75 trang động phụng thờ.

Hổ Lang Đại vương vốn là người Tam Đới, Phong Châu (tức nay là trang Cẩm Đái). Cha tên Hồ Công Năng, mẹ là Trần Phương Lan. Vào đêm mồng 10 tháng Hai nằm mơ thấy rằng: Năm tới sẽ sinh con, lại được đại quý, là sao sáng Võ Đức giáng sinh để giúp nước trừ tàn, giúp dân dẹp nạn. Dứt lời, Trần Thị bỗng tỉnh lại biết là điềm ứng tốt lành, bèn để nghiệm xem thế nào. Đến sau 3 tháng thì thấy đúng là có mang thai. Đến ngày 16 tháng Mười hai năm Mậu Tuất tối đó thấy ánh sáng chiếu đầy nhà, trở dạ mà sinh ra một người con trai. Mọi người đều vui mừng. Đến khi trưởng thành thì tài kiêm văn võ, phẩm cách kỳ lạ, mặt tựa da sắt, mắt sáng như điện, bước đi như rồng hổ, thực là một người con trai kỳ lạ. Nhân đó đặt tên là Võ Tuấn. Duệ Vương sau ban húy là Hổ Lang tướng, hóa vào ngày 20 tháng Ba. Nguyên theo Nghị Vương dẹp giặc Thục, đóng quân ở trang Áo Lộc. Sau được đặc biệt phong ở đó, ban hiệu là Hổ Lang hầu, có 27 đền thờ phụng. Miếu quay hướng Càn Tốn, rất là đẹp đẽ vậy.

Công chúa là con gái thứ 8 của Nghị Vương. Mẹ là Phạm Thị Doanh. Vào ngày mồng 8 tháng Mười một sinh ở lầu Tây, tên gọi là Công mị nương Diễn Kỳ. Hóa ngày 13 tháng Mười một. Đến ngày 23 thì tế chôn cất ở ấp Thủy An. Nguyên theo Nghị Vương đến Áo Lộc, nhân xem sông núi thấy có một địa thế là đất nơi vạn đời thành hoàng không đổi, nên có khấn người anh nếu có linh thiêng thì hôm sau đến giúp cho được cùng hưởng lộc. Khấn xong Công chúa quay trở về đến bên bờ sông. Bỗng nhiên mưa to gió lớn nổi lên, rồi Công chúa đã hóa.

Cửa Đường Đại vương là người trên trang Áo Lộc trong triều Hùng Nghị Vương. Cha họ Dương kết bạn với Mai Huyền Tiêm. Khi Đế phạt Huyền Tiêm thì ông đổi sang họ Lý. Ngày 15 tháng Mười hai sinh một người con trai, sắc vẻ cùng phong tư chỉnh tề, có tài ba lược sáu thao, văn võ cùng tài. Đến khi lớn thì chiêu quân ý muốn giúp nước. Nhân Nghị Vương đi qua trang, đón Đế đóng quân, theo quân mà lập công. Sau theo nghiệp võ, làm quan tới chức Hữu quân Lạc tướng. Đến khi mất người dân trong làng xem trọng công lao đó với quốc gia, có đức tốt lành với nhân dân mà lập đền để thờ. Rất là linh ứng. Tên húy là Lý. Gặp Nghị Vương ở trên đường nên nhân đó được ban tên là Cửa Đường. Hóa vào ngày 18 tháng Mười một. Đến ngày mồng 8 tháng Mười hai thì chôn cất. Miếu ở bên hướng Cấn Khôn có giếng nước là dấu tích.

Nhược Ứng là con của Long Vương, lên bờ vào ngày mồng 8 tháng Giêng gặp Nghị Vương (lấy làm ngày sinh), xin theo quân lập công. Đến khi dẹp được giặc thì lên phía ngược dòng nước mà hóa (tức ngày 18 tháng Ba). Nghị Vương hỏi thì nói rằng:

  • Tên là Từ Huệ, con của Long Vương.

Cho nên đặt tên thụy là Công chúa Nhược Ứng.

Niên hiệu Hồng Đức năm thứ nhất tặng sắc cho 7 vị, còn những người chưa được gia phong thì phong thêm một bậc. Niên hiệu Cảnh Hưng từ đầu đến năm thứ 42 tặng mỗi vị hai chữ, sắc cho phụng thờ theo như trước, làm rạng sự tích mà làm lễ chay các loại. Công chúa thì dùng nước sạch. Chúa thì dùng rót một phong rượu trắng. Còn lại thì dùng thịt trâu làm cỗ. Đấu vật. Diễn rối ôi lỗi. Nghênh đón voi ngựa, đi đầu đặt ngũ quả, mía, chuối xanh, cỗ bánh.

Lại cung thỉnh:
Đức vua Hao Khắc Đại vương,
Đức vua Hao Sóc Đại vương,
Đức vua Lãng Lương Đại vương,
Đức vua Vực Chỉ Đại vương,
Đức vua Ngã Tư Đại vương,
Đức vua Quỳnh Hoa Công chủ,
Đức vua Quế Hoa công chủ,
Đức vua Bạch Hoa Công chủ,
Cùng hai bên
Hai bộ Tiên cung Nương nương,
Mười ba Vương tử,
Tám vị Long minh vương.

Thần tích xã Ha Xá

Bộ Lễ triều Lê Thượng thư Quản giám tri điện vâng sao ngọc phả báu cổ truyền

Hoàng đế bệ hạ khâm phung sắc chỉ và thần hiệu là:

  • Đệ nhất Tuấn triết Hồng huân tôn thần Thượng đẳng
  • Đệ nhị Linh ứng tôn thần
  • Đệ tam Anh linh tôn thần.

Sắc phong ba vị đại vương

Hùng chấn linh thanh, 
Tôn nghiêm chính thuận.
Anh dục sơn xuyên, 
Tú chung hà hải.
Cao phối thiên, hậu phối địa, bảo quốc hộ dân, 
Hách quyết thanh, trạc quyết linh, truyền phù quốc kỳ.
Nguy đức tuấn liệt, 
Phổ huệ thuỳ hưu. 

Vua kế ngôi truy phong, lễ có tăng phẩm trật, tuyên tặng vị thứ nhất là Thượng đẳng, vị thứ hai và thứ ba là Tôn thần Trung đẳng. Cho phép trang Ha Xá (xã Mỹ Giang cũ) tổng Vĩnh Lại, huyện Đa Cẩm, quận Thượng Hồng, trấn Dương Tuyền, phụ lão vâng lĩnh sắc văn ba vị, rước về phụng thờ, để cùng giúp bảo hộ lê dân. Vâng thay!

Xưa Phiên Ngung là đất danh hương. Đất bằng, sông đẹp. Trong lại có Lục Giả là tướng Lạc hầu. Đương thời Hán Quang Vũ lấy người thiếp cung tần thứ ba, hết mực sủng ái. Bà chuyên tâm tạo phúc, tích thiện, làm điều nhân, sớm tối hương khói thờ phụng Thượng đế, ba sinh hương lửa một cảnh phong lưu dư giả, giàu có sao. 

Vào một ngày tháng Giêng năm Quý Hợi bà cung tần thứ ba Lê Thị Lang nửa đêm mộng thấy ánh sáng đỏ chiếu đầy nhà, chốc lát có một con rắn hoa trắng cuốn khúc bò tới, hóa thành ba đóa hoa sen trắng. Bà họ Lê giơ tay lấy được ba đóa hoa sen trắng đó. Thế là bà có thai. Mang thai được 13 tháng, đến ngày 13 tháng Hai năm Giáp Tý thì trở dạ. Ngày 15 thì đến kỳ sinh một người con mặt đẹp như hoa đào, sắc sáng rọi nước hồ. Người người đều mừng là bậc danh tướng, danh thần, không phải người thường ở nhân gian có được.  

Đến một ngày tháng Giêng năm Đinh Mão, bà Lê Lang lại mộng thấy một cây đào có một cành, nở hoa kết thành hai quả. Thế rồi có mang thai. Mang thai một năm rưỡi đến ngày 12 tháng Chín năm Mậu Thìn thì trở dạ. Ngày 15 thì đến kỳ sinh. Khi sinh hương thơm bay ngào ngạt, diện mạo khác thường, hình dung quý phái. Cha mẹ thấy việc sinh người con thứ nhất mặt đẹp như hoa đào, ôn lương chính trực nên đặt tên là Tuấn Lương. Người con thứ hai và thứ ba sinh đôi cùng bọc nở ra hai anh em, rạng rỡ vạn đời như thánh thần nên đặt tên là Anh Dung và Lang Hà. Tài năng như sông núi, tư chất thông minh, hiểu biết hơn người. Ở yên một phòng mà tự học đọc xem sách, không cần người chỉ dạy. Lại thạo đàn sáo, tinh thông âm luật. Đến khi trưởng thành, văn võ toàn tài.

Khi ấy Hán Quang Vũ đến nước Văn Lang chiêu tập quân sĩ được 13 vạn, phao lên là 30 vạn quân. Đem quân đến nước Văn Lang mưu đồ chiếm nước. Chia thành hai lộ thủy bộ mà đi. Đến Loa thành chia nhau đánh Đông dẹp Tây, bày binh bố trận để đánh với quân Thục. Thục Vương có Rùa vàng tháo móng để làm lẫy nỏ thần, bắn trong một phát diệt được hai ba trăm người, nên quân Triệu đánh không lại, phải về giữ ở quận Vũ Ninh. Lại chọn ngày lành dẫn quân đến đền Phù Đổng ở Tiên Du, lập đàn chay thành tâm bái yết trời đất và bách linh các nơi. Xuất giáng một ông lão cao hơn 8 thước, râu tóc bạc trắng, xuống ngồi ở nơi đàn tế, cười nói nhảy múa. Mọi người thấy vậy lấy làm lạ, vào tâu với Triệu Vương. Vương thân đón ông lão vào trong đàn, rồi hỏi:

  • Nay ta muốn dẹp Thục Vương chiếm nước, trừ tàn. Thắng thua như thế nào, xin được chỉ giáo.

Ông lão tính toán bấm quẻ hồi lâu rồi nói với Triệu Vương rằng:

  • Như nay chiếm nước phải dùng nhân tài, phong tước cho Tuấn Lương cùng với hai người em. Thiên hạ này sẽ được yên trị. Tự nhiên nghiệp đế sẽ hưng vậy.

Lời nói vừa dứt thì bay lên không mà biến mất. Vương biết là lời dạy của thiên thần, bèn lệnh cho sứ giả đi chiêu tập ba người anh em, quả là nhân tài võ nghệ, đại lượng khoan dung. Triệu Vương triệu tập trăm quan, vào ngày lành lập đàn phong tước, bái Tuấn Lương là Tổng thống, bái Anh Dung là Lạc hầu, bái Lang Hà là Thứ sử. Lại ban cho 5.000 binh mã thành một đạo đi hướng Đông. 

Triệu Vương thầm bày mưu kế, cử trăm quan cầu hôn với con gái của Thục Vương. Triệu Vương có con trai Trọng Thủy cầu hôn với Ngốc Nương (tức Mỵ Châu). Vợ chồng hết mực tin tưởng, yêu thương nhau. Trọng Thủy hỏi Mỵ Châu rằng:

  • Vua ta có vật gì là chân quý?

Mỵ Châu nói:

  • Vua cha có lẫy nỏ, chính thực là Rùa vàng đã tháo móng để làm lẫy, có thể địch được trăm ngàn người.

Trọng Thủy ngầm lấy một lẫy nỏ khác mà đổi đi, rồi nói với vợ rằng:

  • Có chiếc gối gấm lông ngỗng này hãy mang theo người. Đến đâu thì rải nơi ngã rẽ để biết dấu đường vậy.

Trọng Thủy trở về, báo với Triệu Vương. Vương lập tức gọi Tuấn Lương đến bàn bạc, định ngày phát binh tới đánh. Triệu Vương dẫn một đạo quân, giao cho quan Tuấn Lương cùng hai ông em dẫn 5.000 quân, lập tức đến thành Phong Khê bày trận đánh Thục Vương. Vương thấy nguy bèn lấy nỏ thì đã thấy mất lẫy. Thục thua to. Vương cưỡi ngựa ngồi ở trước, Mỵ Nương ngồi đằng sau. Chạy tới cửa sông Nghệ Hoan thì gọi: 

  • Rùa vàng cứu ta.

Rùa nổi lên, hô rằng:

  • Kẻ ngồi sau ngựa là giặc đó, Hãy giết đi.

Rùa đón Thục chúa xuống thủy cung. Quân sĩ thua to. Triệu Vương thắng lớn, cùng với quan Tuấn Lương dẫn quân về thành, tụ tập quân sĩ đãi yến ăn mừng. 

Vào giờ tốt ngày mùng 10 tháng Giêng năm Đinh Hợi, Quang Vũ lên ngôi, lập đô ở Phiên Ngung, phong tước thăng cấp cho quan Tuấn Lương, cai quản thiên hạ thái bình, nhân dân no đủ. Bèn phân quan chức, định ra quốc luật. 

Ngày 12 tháng Mười một năm Ất Mùi, Tuấn Lương bị bệnh, thân thể mệt mỏi, dựa vào lan can mà mơ màng thiếp đi. Ngày 14 quan Anh Dung và quan Lang Hà cũng bị cảm sốt. Tuấn Lương trong cơn mê thấy một người, mình mặc áo xanh, tay cầm cờ vàng, tự xưng là thiên sứ, quỳ trước sân mà nói rằng:

  • Thượng đế có sắc sai gọi Tuấn Lương cùng với hai em về chầu Thượng đế.

Tuấn Lương tỉnh ra, dặn lại. Ngày 15, 16 không bệnh mà mất. Quan viên cùng bệ hạ trong triều đều thương xót. Đến ngày 15 tháng Tám, cùng hội nghị xét tên những trung thần có công lớn với nước, giao cho bộ lễ viết sắc thưởng công cho Tuấn Lương ở 72 đền thờ, cho tiền lập miếu, cùng với cấp cho phụng thờ, giao cho Quản giám đem sắc phong thần đến các trang sách chỗ các miếu đình. Khi đi đến huyện Đa Cẩm, dừng ở đó, tề tựu trang Ha Xá, tổng Vĩnh Lại trao cho phụ lão sắc văn ba vị đón về phụng thờ. Phụ lão cùng nhau nghênh thỉnh danh sư đến trang này, xem thiên văn địa lý, thấy đúng là trang Ha Xá có núi bằng nước đẹp, là đất có thế quý, xây một tòa dựa Càn hướng Tốn, dựa Mão hướng Dậu. Tòa nhà này có ấn đường thẳng giữa tạo án, hai sông hợp dải, phía sau có rồng vòng ôm ấp, lại có dòng nước chầu đến, Huyền vũ quay quanh, đất đẹp thế tinh phong, phát nhiều đinh, giàu có, sau này có giai nhân đẹp đã, ngoại giao anh hoa. 

Trang Ha Xá phụng thờ muôn năm hương lửa thêm sáng, trải các đời linh thiêng như còn đó. Khi sinh có võ công rạng rỡ anh linh giúp vận nước. Khi hóa tất được trang sách thờ tự tôn nghiêm, bảo hộ cho sinh dân. Trang này được nhờ ơn đức lớn lao vậy.

Hàn lâm viện Đông các Đại học sĩ, thần, Nguyễn Bính vâng soạn.

Hoàng triều Vĩnh Hữu năm thứ nhất ngày lành tháng giữa thu, Quản giám bách thần tri điện Hùng lĩnh thiếu khanh, thần, Nguyễn Hiền lại tuân theo bản chính của triều trước vâng sao.

Đình Ha Xá

Thần tích Quảng Bác Đại vương ở Thịnh Đức, Phú Xuyên

Triều Lê bộ Lễ bộ Thượng thư tri điện bách thần vâng sao tích báu cổ truyền

Hoàng đế bệ hạ ban sắc chỉ… (phần sắc chỉ không dịch)

Năm Giáp Thìn ngày 15 tháng Giêng Đệ nhị tiên cung tên là Tiên Dung Châu xuất thần, tất là tiên nhân giáng sinh nên nhân đó gọi là Giáng Tiên. Đến khi trưởng thành da trắng mịn màng, trong sáng như gương soi, mày loan như mặt trăng mới mọc, mắt trong như sóng thu. Người xưa nói như hoa như ngọc, đủ đầy mà hình dung đẹp đẽ. Thường ở yên trong nhà tự đọc sách, không cần người chỉ bảo. Lại thành thạo đàn sáo, tinh thông thơ sách, trộm kỹ diệu của Tương Phi, xem tài cao của Lộng Ngọc. Khi nhàn nhã thường đi chơi ở Thăng Long, đất Giao Chỉ. Vì thế mà gặp vua Hùng đời thứ tám là Huy Vương. Vua đem sính lễ kết làm chính thất cung phi.
Được hai năm thì có thai. Mang thai tháng 12 thì đến kì sinh nở. Năm Giáp Ngọ ngày mùng 10 tháng Sáu đi tắm ở sông Nhuệ chỗ ngã ba sông. Tắm đến ngày 12 thì sinh được một bầu năm quý tử. Nên có lời ca ngợi rằng:
Một bầu sinh xuất năm anh em
Vạn đời rạng rỡ một thần thánh.
Tên tuổi bao trùm, nghìn năm ghi trong tín sử, vạn đời tiếng thiêng rờ rỡ, thông minh mưu rộng, công nhiều tích lớn, đuổi di dẹp giặc, thế nước bền lâu, tỏ tường trong sách sử.

Lại nói người đất Phong Châu nước Việt Thường mà đúc nên khí thánh. Vào năm Giáp Ngọ ngày mùng 10 tháng Sáu tắm gội 12 ngày đến kỳ mà sinh. Hôm đó hương thơm bay ngào ngạt, người người vui mừng.
Khi trưởng thành 5 anh em đều nhiều lần lập công lớn, dẹp giặc đem lại yên bình cho đất nước. Triều đình vỗ về, sắc phong quan lớn. Sau khi hóa vua lại ban cho chỉ tặng là Thượng đẳng thần. Cả năm vị quý tử anh em đến năm Thân ngày 12 tháng Mười một thì cùng hóa, được ban sắc phong là Thủy thần. Nhà vua hội nghị trong triều, cử Giám quốc sư đi phát sắc phong thần cho 17 nơi lập đền phụng thờ.

Giám quốc sư đem sắc phong đi đến trang trại Thịnh Phúc, quận Quảng Nguyên, báo với các phụ lão, cho 30 quan tiền để xây miếu đền, dựa Càn hướng Tốn. Trước có ba sông hợp dòng, sau có sông núi ôm ấp, giữa nôi lên 5 gò đất, đúng thế đất người nhiều vật giàu, tất sẽ phát anh tài. Giao cho trang Thịnh Phúc phụng thờ đền thiêng, đời đời tiếp nối. Khi còn sống có võ công vẻ vang, khi hóa thiêng có tiếng thiêng hiển hách, âm phù cho vận nước. Sau khi hóa trang dân địa phương tất tôn nghiêm mà thờ cúng, giữ nước giúp dân, có thờ nên có ban ơn vậy. Tốt thay. Lành thay… (phần lệ thờ và sắc mệnh không dịch)

Đền linh thiêng thờ Quảng Xung Linh Tế Đại vương ở xã Hữu Vĩnh, huyện Hoài An.
Đền thượng đẳng thờ Quảng Bác Uyên Dung Đại vương ở xã Thịnh Đức, huyện Phú Xuyên.
Đền thượng đẳng thờ Quảng Xuyên Linh Quang Đại vương ở xã Quảng Tái, huyện Sơn Minh.
Đền thượng đẳng thờ Quảng Tế Linh Ứng Đại vương ở xã Bài Nhiễm, huyện Duy Tiên.
Đền thượng đẳng thờ Quảng Hoá Cư Sĩ Đại vương ở xã Vĩnh Trung, huyện Thanh Trì.

Sự tích Long Vương

Thần tích vạn Liên Ngạc, xã Liên Ngạc, tổng Phú Gia, huyện Từ Liêm, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông

Danh tiếng Hải Độc Long Vương lưu truyền từ xưa, mà dấu tích thiêng rạng tỏ từ triều Trần. Sự cũ ở phường Hoa Ngạc, nguyên ở bờ Bắc sông Từ Liêm, gọi là phường Võng La, thuộc huyện Yên Lãng, Sơn Tây. Bờ đối diện bên kia sông là ghềnh Thượng Bạc. Phường này quen lấy đánh cá làm nghề nghiệp sinh sống, có một mái đình ba gian dựng bằng gỗ lá cũ nát quay mặt ra phía sông để phụng thờ một vị thủy quan Hà bá. Trải qua tháng năm vào tháng ba năm Canh Tý một đêm có một ông lão trong phường mắc võng ở cuối ghềnh nằm uống rượu, ngủ thiếp đi mộng thấy một người, áo mũ đủ đầy, xưng rằng:

  • Ta là Hải Độc Bát Đại Long Vương. Nay đến đất này để cưới con gái ông Nghị. Nhà ngươi hãy mau cuốn sạch chỗ võng này, nếu không sẽ gặp họa đến đó.

Tối hôm đó mưa gió nhè nhẹ. Ông lão trong phường uống rượu chưa tỉnh, nằm mơ màng ngủ rất sâu. Bỗng sóng lớn trùng trùng nổi lên. Thuyền cá theo sóng dập dềnh trôi ra gần giữa sông. Ông lão trong cơn nguy cấp dập cầu:

  • Lão ngu dốt lỡ say rượu không có mắt, tự thấy vạn lần đáng chết. Cúi xin Long Vương tha thứ.

Đang lúc giữa đêm bỗng nhiên mưa gió rung động, người trong phường đều sợ hãi tỉnh dậy. Chỉ nghe tiếng ông lão kêu to, một tiếng Long Vương, hai tiếng Long Vương. Mọi người đều không biết Long Vương tên gọi cụ thể thế nào. Rồi dưới ánh sét chiếu sáng thấy một con cá lớn dài hơn trượng, nhảy lên ở giữa sông, vảy giáp chênh vênh, đầy sông như thấm phủ một màu trắng. Khi sóng gió ngừng lại, tức thì con cá lớn bỗng hóa thành một người áo mũ đầy đủ đứng trên mặt nước nói nghiêm khắc rằng:

  • Sông suối nơi nơi đều là quản hạt của ta. Lão này đã biết tội nên ban cho được sống trở về.

Ai ai cũng tận mắt thấy sự hiển linh như vậy, mới biết Long Vương là thủy thần, bèn cùng cất tiếng cầu xin:

  •  Toàn phường kính mộ nhờ uy đức Long Vương mà già trẻ được an toàn. Nay sau xin được tạo tượng để phụng thờ, mong được xem xét cho thành việc để báo đức lớn này.

Chốc lát không thấy đâu nữa, sóng gió trở lại như xưa. Đến sáng hôm sau nghe truyền là đêm đó thủy thần đã lấy vợ là con gái ông Nghị ở xã Thượng Thụy, tên là Nhạc phi. Cả nhà 5 người cùng đưa tiễn đến đầu ghềnh thì dòng nước ở đó dẫn vào trong sông mà biến, không biết còn mất ra sao.

Trên đây là điềm thần như vậy. Năm đó, tháng Sáu tháng Bảy nước lũ dâng cao, đầu bãi Võng La bị lở. Sau ba tháng 10 phần lở hết 7-8. Nhân dân phiêu tán. Phường đó mới dời đến nơi bến sông xã Hoa Ngạc, nơi có bãi sông mới bồi để ở tại đó. Nơi đó gọi là phường Hoa Ngạc huyện Từ Liêm, phủ Quốc Oai. Từ đó trong đình kính cẩn phụng thờ chính vị là thần Hải Độc Bát Đại Long Vương, cùng phối thờ Hà Bá Thủy quan. Mỗi khi có việc cầu đảo đều rất linh ứng.

Xưa Trần Độ Tông ra Bắc cung xem đua thuyền bỗng gió lớn nổi lên bốn bề, thuyền đều nghiêng chìm. Vua vội sai trung quan quỳ hướng ra sông cầu đảo, xin Thủy thần hiển linh, nếu cứu vớt được các binh lính trong thuyền, Trẫm sẽ lập tức tặng thêm tên hiệu để báo đáp ơn thiêng. Cầu đảo chưa xong thì đã sóng yên gió lặng. Binh lính đều được cứu thoát không chịu cảnh chết đuối. Vua bèn tăng cấp cho thần sông. Hễ là xã dân nào có phụng thờ thủy thần đều được cho phong tặng sắc. Phong là Thượng đẳng Hộ quốc Hải Độc Bát Đại Long Vương.

Khi quân Minh chia đường hai đạo thủy quân đến xâm phạm, một đạo đóng ở sông Bạch Đằng, một đạo đóng ở bến Vạn Kiếp. Khi đó vua sai các quan chia nhau theo ven sông đi đến các miếu thần sông để đọc chỉ rằng:

  • Giặc Minh dám gây cảnh bạo ngược, người và thần cùng căm phẫn. Các vị thủy thần vốn có tiếng anh dị, sao để thuyền giặc đóng đầy sông như vậy? Nếu như có thể linh hiển lập kỳ tích đuổi quân giặc, khi thành công sẽ phong tặng thêm nhiều.

Bỗng một đêm vào cuối canh hai, gió lớn dồn mây, trời tối như mực, không trông thấy mặt người. Trong quân doanh thuyền giặc như có binh mã xông vào. Mọi người trong lòng đều phấn khích. Trần Quốc Tuấn, Phạm Ngũ Lão nhân đó mà hai cánh trước sau xông đến đánh. Quân Minh thua chạy, chết đuối quá nửa. Truyền rằng đêm qua trong các miếu thờ ở ven sông ngựa gỗ đều lấm bùn đất, đao gỗ đều có vết sứt như là đã có đánh trận vậy. Mới biết đó là thủy thần đã dẫn các âm linh đoạt hồn giặc, hiển giúp quân đội. Bèn sắc phong Thuận thiên Dực vận Hải Độc Trạc linh Thượng đẳng Hộ quốc Quảng nguyên Đại Long Vương.

Vua Thánh Tông triều Lê thân chinh đi đánh Chiêm Thành, thuyền rồng đi đến cửa biển Nhật Lệ. Vào lúc chính Ngọ, bỗng mây đen bốn bề kéo tới, gió lớn sóng cả ngất trời. Thuyền gần lật tới 4 lần. Bỗng trên không trung xuất hiện một vị đại nhân, mũ đen, áo đỏ, đai trắng, cưỡi mây mà tới. Đi đến đâu thì sóng gió lập tức dừng yên. Đêm đó vua mộng thấy một người tự xưng là Quảng Nguyên Long Vương, chức quản các nơi sông biển, nay thấy Vua dẫn quân đi viễn chinh nên đặc biệt đến để trợ giúp, quần áo người này giống như thấy lúc ban ngày. Từ đó ba quân vượt biển như đi trên đất bằng. Khi thắng lợi trở về bèn sắc phong là Thuỷ phủ Chí tôn Cam Lâm Hiển thánh Thượng đẳng Hộ quốc Quảng nguyên Đại Long Vương.

Bảo quốc Trấn linh Định bang Quốc Đô Thành hoàng Đại vương

Xét sách sử trong sách Giao Châu ký cùng với Báo cực truyện, vương vốn họ Tô tên Lịch, là quan lệnh Long Độ, ở làng Long Độ bên sông nhỏ, ba đời anh em nhường nhịn sống chung với nhau. Nhà Tấn cử làm chức Hiếu liêm, cắm cờ biểu dương trước cửa làng, nhân đó lấy tên Tô Lịch đặt cho thôn. Thời Đường Mục Tông, Trưởng khánh Trung đô hộ Lý Nguyên Gia thấy cửa Bắc thành Long Biên có dòng nước chảy ngược bèn tìm đất để dời phủ trị, tìm được đất đó. Khi chuẩn bị xây dựng doanh phủ bèn cho người dân cũ ở đó rót rượu thỉnh mệnh làm thần thành hoàng, lập đền phụng thờ. Đến đêm hiển linh báo với Nguyên Gia rằng:

  • Nhờ ơn sứ quân ủy thác cho tôi làm chủ thành. Nếu ngài có thể giáo hóa được cư dân trong thành cho hết lòng trung hiếu tiết nghĩa, thì mới tôi mới có thể nghe theo mệnh mà cùng ở được.

Nguyên Gia bằng lòng vâng theo. Đến khi Cao Vương xây La thành, nghe chuyện ấy cho tế lễ lập nơi thờ thần là Đô phủ Thành hoàng.

Khi Lý Thái Tổ dời đô, thần thường nhập mộng đến dập đầu bái mừng vạn tuế. Vua lấy làm lạ hỏi tính danh xưng thế nào. Thần tâu lại như trước. Vua cười nói:

  • Thần muốn giữ việc hương lửa trăm năm phải không?

Thần đáp rằng:

  • Chỉ mong cơ đồ đất nước được lâu dài muôn vạn năm, đâu chỉ là hương lửa trăm năm.

Vua hiểu ra, bèn sai quan Thái chúc đem rượu tế, phong thần làm Quốc đô Thăng Long Thành hoàng Đại vương, thường tôn là minh chủ. Năm đầu niên hiệu Trùng Hưng của bản triều sắc phong hai chữ Bảo quốc, năm thứ 4 tặng thêm hai chữ Trấn linh. Niên hiệu Hưng Long năm thứ 21 tặng thêm hai chữ Định bang để mà lưu truyền công thần trợ giúp.

Thần tích xã Liễu Châu

Dịch theo thần tích xã Liễu Châu tổng Phú Xuyên huyện Tiên Phong tỉnh Sơn Tây.

Vào thời Hùng Vương thứ 18 vua Duệ Vương trị vì, đóng đô ở Việt Trì bên sông Bạch Hạc, lập nước Văn Lang, quốc đô là thành Phong Châu. Duệ Vương có hùng tài đại lược, tư chất thánh triết, trong sửa văn đức, ngoài phòng biên phương, dốc sức để hưng bình mà yên Trung Quốc. Than ôi, thế nước đến lúc cáo chung, cơ đồ họ Hùng vào lúc cuối. Vua tuy sinh nhiều hoàng tử nhưng đều theo nhau về với tổ tiên. Duệ Vương sinh được 20 hoàng tử, 6 công chúa, về sau chỉ còn hai vị nữ công chúa. Người thứ nhất là công chúa Tiên Dung, sau gả cho ông Chử Đồng Tử quê ở xã Đa Hòa, huyện Đông An, phủ Khoái Châu, xứ Sơn Nam. Còn người thứ hai là công chúa Ngọc Hoa, cung thiềm còn khóa, cành ngọc vẫn đóng, nhân duyên tốt lành còn chưa định kỳ. Vua muốn tìm người tài để gả, rồi sẽ nhường ngôi báu cho, bèn lập một tòa lầu ở cổng thành Việt Trì, đề là “lầu kén rể cầu hiền”, ban chiếu truyền đi trong thiên hạ ai là người anh tài đức độ, có thể nối được ngôi vị thì sẽ gả công chúa cho.

Ngày ấy có Tản Viên Sơn Tinh cùng với Động Đình Thủy Quân là hai tướng cùng thầy học cùng nhau đến thành dự thi. Vua xem thấy là kỳ tài bèn phán rằng:

  • Nay hai khanh đều là bậc anh hùng. Ánh trăng đèn sách chưa thể định được về tay ai. Ai có thể đem sính lễ đến trước thì Trẫm tất sẽ gả con gái cho.

Thế là Thủy Tinh trở về cung Động Đình, do cầu kỳ tìm vật lạ (nguyên có cuốn sách ước Sơn Tinh đã cầm giữ). Sơn Tinh đi thẳng ra dưới lầu, lấy ở trong túi ra, dùng sách thần mà ước. Bỗng thấy voi trắng chín ngà cùng các kỳ trân dị vật trong chốc lát đã đầy đủ hết. Sơn Tinh đến vâng nạp sính lễ trước. Vua bèn gọi Sơn Thánh đến gả con gái cho. Lễ cưới xong thì đón về động ở núi Tản Viên. Sau thấy Thủy Tinh đem sính lễ đến. Vua nói với Thủy Tinh rằng:

  • Sơn Tinh đã định đặt sính lễ, việc này theo như giao ước trước đây, hối hận cũng không kịp.

Thủy Tinh từ đó về sau oán hận, trở về tâu với Đế Quân, xin binh mã, thường tiến đánh Sơn Thánh, tích thù kết oán. Cho nên tới nay mỗi năm vào tháng 7 tháng 8 thường dâng nước đến đánh. Người dân ở dưới núi đều bị ngập lụt, mưa gió. Các nơi đều bị thiệt hại nặng, đều là do từ việc này mà ra vậy.

Lại nói, Duệ Vương từ khi có được rể hiền là Sơn Thánh thì hưởng nước thanh bình, nhàn du bốn biển, như con vua tiên ông nơi đất xưa quê lạ, sông núi Thần Phù, Yên Tử, cao thấp mặt trời hồng, đám mây trắng, trăng gió ở Hoa Quật, Long Biên, trên dưới non xanh nước biếc. Lúc thì dạo chơi trên sông tiểu hoành ngắm trăng, nhàn thưởng cái thú vị của người câu cá. Đi qua xã Đồng Bảng, huyện Ma Nghĩa mà xây dựng hành cung Bắc. Lại du xuân săn bắn, đi đến xã Tri Lai lại lập hành cung Tây. Đi qua các xã Vật Lại, Cổ Đằng bèn xây dựng hành cung Trung tại đó. Lại đi qua vùng đất huyện Phúc Lộc mà lập hành cung Nam ở Bể Cạn.

Đến xã Vân Già thì lập hành cung Đông. Một hôm (ngày mồng 3 tháng Giêng) thánh giá đi đến xã Liễu Châu phủ Tam Đái, có một ngôi đền thủy thần được người dân phụng thờ từ xưa (Miếu thủy thần này ở xã Liễu Châu đã được xây dựng từ thời Hùng Vương khi Lạc Long Quân sinh được một bầu trăm trứng, nở ra trăm người con trai, bèn phân làm trăm vương. Năm mươi người theo cha là Thủy thần. Năm mươi người theo mẹ là Sơn thần. Năm mươi vị Thủy thần này tùy đang còn tại thế nhưng được phong thần để bảo giữ các nơi. Do đó xã Liễu Châu thờ phụng ba vị như vậy, đều không có tên thần). Đến khi Duệ Vương và hai vị Tả Hữu kiên thần của Sơn Thánh đi qua ngôi đền (tức là đền Thủy thần được xã Liễu Châu phụng thờ), bèn hỏi người dân rằng:

  • Dân các ngươi ở đây thờ phụng đền nào vậy?

Người dân bèn tâu rằng:

  • Từ xưa tới nay tiểu dân ở đất này phụng thờ đền Thủy thần.

Vua cùng với Sơn Thánh nói với dân rằng:

  • Thủy thần ngày nay có thù với nước nhà. Dân các ngươi sao dám thờ vậy? Hôm tới sẽ sai binh sĩ cùng dân các ngươi trừ khứ ngôi đền này đi.

Dứt lời tới ban đêm bỗng thấy trên sông sóng dồn vạn nhẫn, khí mây đầy sông mù mịt nổi lên, dâng nước đập sóng, dẫn đến nơi cung đền. Một chiếc thuyền rồng bỗng nổi lên trên mặt nước. Lại thấy ba người đường đường từ trong thuyền đi tới, đâu đội mũ rồng rạng rỡ, mình mặc áo long bào, giáp lân. Phía trước có hai người ôm một bàn đầy vàng cùng với một thanh ngọc đem tới trước nhà vua. Ba người cùng dập đầu làm lễ. Duệ Vương hỏi rằng:

  • Chức danh các vị thế nào? Ở đâu đến đây?

Ba người tâu rằng:

  • Chúng thần vốn là quan của Thủy quốc. Nay thấy Thánh vương ngự giá đến nơi chúng thần quản trị nên Thủy quốc có tấc lòng đem đến yết diện Thánh vương làm lễ mừng. Xin được chiếu cố cho.

Duệ Vương lại phán rằng:

  • Thủy quốc từ khi xảy ra sự việc tranh hôn sai ước đến nay trong lòng chứa oán tích thù. Bất thường mà dẫn quân đến đánh Sơn Thánh. Ngày hôm nay sao lại có lòng với Trẫm như thế?

Thủy quan tâu rằng:

  • Hôn sự vốn là do Đông Long cung. Nguyên căn là do quan Long hầu gây việc ác, đem họa đến cá nước. Còn Thủy quốc cùng với Dương đình đều có oán. Vả lại việc vị quân đó phản lại nước đều chỉ là do người đó, lỗi này cũng do việc hôn nhân, không phải do chúng thần. Xin Bệ hạ xét tình đó vậy. Nay may mắn được gặp Bệ hạ đi đến địa phương nơi đóng của chúng thần, chúng thần cùng nhau lên tại đây. Tuy là núi sông không cùng, nhưng đều là từ một bầu trăm trứng tạo ra của Tiên hoàng đế (Lạc Long Quân sinh một bầu trăm trứng, nở ra trăm người con trai. Năm mươi người theo cha là Thủy thần. Năm mươi người theo mẹ là Sơn thần, tức là trăm vương). Tí Ngọ cùng chia, nhưng đều cùng chung một nguồn phân phái vậy. Đâu phải là người ngoài.

Vua nghe lời nói đó, hỏi Sơn Thánh rằng:

  • Lời nói này cũng có lý, cũng là người một nhà.

Sơn Thánh tâu rằng:

  • Việc này có thể giải quyết được. Lại có thể phong tặng thêm.

Dứt lời Sơn Thánh cho gọi đón ba vị thủy quan vào trong cung, cùng chầu hai bên nhà vua. Ngày hôm đó sai mổ trâu, mở yến hội lớn, ca hát hơn mười ngày. Mây mưa mù mịt, gió sấm nổi lên. Việc yến hội xong, ngày hôm đó (từ mùng 6 đến 15 tháng Giêng thì ngừng) ba vị thủy quan từ biệt, trở về Thủy quốc. Mưa gió ù ù mà lên. Bỗng thấy giữa sông có một tiếng sấm nổ, mưa gió đều yên tạnh.

Khi ấy Duệ Vương quay giá trở về thành. Còn Sơn Thánh cùng với Tả Hữu kiên thần vẫn đóng quân ở đất đó (tức là Liễu Châu). Đến đêm bỗng thấy gió lớn thổi đến, ở nơi đền Thủy thần có một cây lớn bị gãy. Sáng sớm nhân dân đến nơi xem, lại thấy có một con Giải nằm ở trên cành cây gãy đó. Nhân dân đến đánh đuổi đi thì tự nhiên biến mất. Từ đó nhân dân gặp nhiều bệnh tật. Dân bèn làm lễ tâu với Sơn Thánh. Sơn Thánh nói với dân rằng:

  • Tất là do Thủy quan tác quái.

Ngay hôm đó Sơn Thánh sai mổ trâu, truyền dân đến làm lễ. Sơn Thánh thỉnh rằng:

  • Thủy quốc, Dương đình đều cùng huyết mạch. Nhân dân ở đây đều là thần tử một nhà. Nay trót vô lễ, xin được tạ vậy.

Từ đó, nhân dân đều được yên ổn. Bèn sai sửa chữa đền miếu (tức đền Thủy thần). Khi công việc xong, Sơn Thánh nằm mộng thấy một người, mình mặc áo trắng, cưỡi một con ngựa trắng tiến thẳng vào sân mà bái. Sơn Thánh hỏi rằng:

  • Ở đâu đến đây? Danh chức như thế nào?

Người áo trắng trả lời rằng:

  • Vốn tôi là giang sứ, vâng mệnh Thủy quân đến tạ Thánh vương. Sau có một bài thơ sai thần mang đến, xin ngài hãy xem.

Thơ rằng:

Sơn thuỷ giai đồng hợp nhất nguyên

Hạnh phùng thánh giá vãng giang biên

Thuỷ cung đắc hội sơn tiên khách

Vạn cổ hưởng đồng nhất thốn tiên.

Dịch là:

Sông núi đều cùng hợp một dòng

May thời thánh giá đến bên sông

Thủy cung được hội sơn tiên khách

Vạn thế hưởng cùng một dải hồng.

Xem xong thì bỗng nhiên tỉnh lại, mới biết là mộng. Sơn Thánh lại truyền làm lễ tạ.

Việc xong, ngay hôm đó (tức mùng 6 tháng Hai), nhân dân làm lễ tạ Sơn Thành, đều xin được làm thần tử. Sơn Thánh đồng ý, bèn truyền cho Tả Hữu hai quan trị nhậm hai cung (một là cung Phú Thứ, một là cung Phong Nhẫm).

Một hôm Sơn Thánh lại đến xã Yên Tiết tổng Đường Xá huyện Yên lạc, lại đi qua Sơn Dương, Tam Dương, đi đến huyện Bình Tuyền xứ Thái Nguyên, bèn lập hành cung ở đất đó, gọi là cung Ngọc Lậu. Còn các địa phương mà đã đi qua sau này đều lập đền thờ phụng.

Lại nói, Sơn Thánh cùng với Tả Hữu kiên thần (tức Tả Hữu phán quan, vốn là người động Lăng Sương, cũng là cùng tông phái với Sơn Thánh. Người cha là Nguyễn Ban, mẹ là Tạ Thị Hoan, nằm mộng thấy hai ngôi sao bay lạc vào trong mồm mà nuốt đi, do đó sinh một bầu hai con. Đến tuổi trưởng thành cha mẹ đặt tên là Nguyễn Hiển, Nguyễn Sùng. Khi đó cùng với Sơn Thánh đi học với tiên sinh Lý Đường. Đang khi đi học Sơn Thánh cùng với hai ông đều rất thông minh. Sơn Thánh thường nói với hai ông rằng:

  • Ta nếu có được ngôi trời thì sẽ cho hai ông là phụ tá hai bên.

Về sau cha mẹ Sơn Thánh cùng với hai ông đều mất. Từ đó cùng không đi học nữa, thường lên núi Tản Viên đỉnh Ngọc Lĩnh. Tính cách cương cường dũng mãnh. Người người đều gọi là thiên thần giáng thế. Đến khi Sơn Thánh tạo thành nghiệp lớn, quản được núi thiêng Ngọc Tản thì cho hai ông làm Tả Hữu kiên thần, giữ gìn hai bên núi Tản, làm chủ quản chúng man các nơi động sở. Một người bái là Cao Sơn Đại vương, một người là Quý Minh Đại vương, lấy làm phù tá hai bên cho Sơn Thánh vậy) quay giá về triều. Đến mùa hè tháng Tư, Duệ Vương sai sứ thần ban thêm sắc chỉ về dân (tức xã Liễu Châu), phong thêm mỹ tự cùng với đền Thủy quan (tức ngày mùng 10 tháng Tư). Hôm đó dân ấp làm lễ ăn mừng. Khi ấy mưa gió nổi lên, bốn bề mù mịt bay thẳng đến nơi đền thờ. Người dân đều kinh sợ, phục xuống. Nước sông như vang như sấm, ba ngày thì dừng. Duệ Vương phong thêm mỹ tự là:

  • Phong Thủy phủ Phù Tang Châu Lâm Đại Long Quân
  • Phong Thủy phủ Vô Biên Trang Nghiêm Vân Hải Long Quân
  • Phong Thủy phủ Đại Thiên Long Chủ Bát Hải Long Vương.

Cả xã Liễu Châu đều thờ.

Lại nói, khi Duệ Vương tuổi thọ đã được trăm năm, đến năm Kỷ Mùi, Thục Vương nghe nói Duệ Vương sinh được 20 hoàng tử đều theo nhau về chốn tiên bồng, không có người nối dõi, nhân đó bèn khởi binh đến đánh để chiếm lấy nước. Duệ Vương lo lắng. Sơn Thánh tâu rằng:

  • Bệ hạ khoanh tay rủ áo mà trị thiên hạ, sao phải lo lắng. Như sự thế hiện nay, thần xin được thay công thánh giá, thần xin được tự tìm tướng tài cùng với ba vạn quân mạnh. Thiên hạ trong ít ngày sẽ được yên định vậy.

Vua đồng ý. Thế là Sơn Thánh dẫn hai vị kiên thần động Lăng Sương (tức là các vị phán quan Tả thánh và Hữu thánh, phụ giúp Sơn Thánh vậy). Lại cùng vị cao tăng người xã Vân NHưng huyện Lập Thạch tên là Điểu, phong làm Đô thống Điểu Sơn Đại Vương, cùng với trung quân là Thái phó Nghi Lĩnh hầu theo đường sông Lô mà ứng chiến. Khi việc bày bố đã định, Sơn Thánh bèn dẫn tướng sĩ bản bộ đến bái tạ. Ngay hôm đó tiến đến xã Vân Chương, trú tại đây. Đến đêm vào lúc giữa canh hai, Điểu Sơn tướng quân mộng thấy một người xưng là Đao Sơn tiểu thần, tự xin theo tòng chinh âm phù cho hoàng gia, bỗng nhiên kinh sợ mà tỉnh dậy, bèn đem mộng đó tâu với Sơn Thánh. Sơn Thánh sai mổ trâu để khao tế, cầu đảo bách thần âm phù cho thế nước, đến khi biên giới được dẹp yên tất sẽ tâu lên Vua mà phong tặng (về sau phong Sơn Thánh là Tản Viên Sơn Thánh Quốc Trụ Đại vương, phong Tả thánh là Tản Viên Sơn Tả Thánh Quốc chủ Phù Dực Đại vương, Hữu thánh là Cao Sơn Quốc chủ Quý Minh Đại vương, Điểu Sơn tướng quân là Điểu Sơn Đại vương, Đao Sơn thần là Đao Sơn Đại vương, còn những người khác cũng được phong thêm).

Từ hôm đó đại quân tiến thẳng đến quân Thục, dẫn quân mã của mình, chia quân đánh dẹp, thế như sấm sét, đánh một trận lớn, thu được dấu ấn của quân Thục. Sơn Thánh bèn cho viết một bức thư của Thục chúa gửi tướng Thục, báo rằng:

  • Nước Văn Lang có một thần tướng. Nay các ngươi vâng mệnh dẫn quân đến đánh nước người, thì chớ có khinh động. Hãy đợi đến khi có chiếu thư báo tới thì việc này mới định được.

Viết xong thì lấy dấu ấn của quân địch đóng vào thư, sai người mặc quần áo của quân địch (tức là vị cao tăng hóa hình), tư xưng là sứ giả Thục, cưỡi ngựa đến đồn chính, đưa thư cho tướng Thục. Tướng Thục từ khi nhận được thư bèn ra sức cố thủ, nếu nghe có biến cũng không kịp gửi thư báo gấp. Sơn Thánh bèn dẫn quân ngày đêm đi hơn năm ngàn dặm, thẳng đến thành đô Thục, đánh một trận lớn, bắt sống chính tướng quân địch cùng với tất cả binh mã. Ba nhánh quân thủy bộ tự nhiên phải lùi chạy. Thế là Sơn Thánh quay trở về khải hoàn, đuổi hết quân địch, binh mã về triều báo tin chiến thắng. Ngay hôm đó mà đi gấp, không kể ngày đêm mưa gió. Đại quân tiến đến địa phận xã Vĩnh Thái huyện Quảng Đức (sau đổi thành phường An Thái) thì ngừng nghỉ. Cho nên ngày sau ở đất đó nhân dân đều thờ phụng.

Lại nói, ngày hôm đó Duệ Vương nhường ngôi cho Sơn Thánh. Sơn Thánh cố từ chối không nhận, tâu với vua rằng:

  • Mười tám đời cơ đồ họ Hùng, lòng trời có hạn nên mới bày ra việc Thục Vương thừa cơ gây hấn với Trung Hoa. Vả lại Thục Vương vốn là bộ chủ Ai Lao, cũng là tông phái của Tiền hoàng đế. Thế nước tốt xấu đều do định trước. Vua sao vì yêu mến khung cảnh trời Nam mà chống lại đạo trời vậy? Tất đem đến thế cục chinh chiến chết chóc, hai đến sinh linh. Chi bằng hãy cho cầu hòa mới là bậc hiền quân vậy. Cho gọi Thục đến nhường ngôi, tất là Bệ hạ có đức của Thánh vương vậy.

Vua nói:

  • Lời của ông thật là thiện lành. Rất có lý, có lý. Trẫm sẽ nghe theo lời này.

Bèn cho gọi Thục Vương đến nhường ngôi. Khi đó ngày mùng 9 tháng Giêng năm Giáp Thìn, Thục An Dương Vương nhận cơ đồ họ Hùng, bèn lên ngôi nắm quyền chính thống. Việc xong Duệ Vương cùng với Sơn Thánh và Tả Hữu kiên thần (một quản Lãng Sơn, thuộc phía Đông là vai trái, một quản Nộn Sơn, thuộc phía Tây là vai phải), cùng với vị Cao tăng, công chúa Ngọc Hoa cùng ngày bay lên trời hóa sinh bất diệt, đi mây về gió, ra âm vào dương, hoặc cưỡi xe rồng, hoặc ngồi xe phượng, dạo chơi Lãng Uyển, Bồng Doanh, ngắm cảnh sông núi, thế tục, giữ nước giúp dân, thật có nhiều hiển ứng.

Khi đến trời thu ngày mùng 6 tháng Tám, nhân dân xã Liễu Châu bỗng thấy binh mã của hai ông trở về cung sở. Dân bèn làm lễ bái mừng. Hai ông nói với dân rằng:

  • Địa mạch dân nơi đây có biến bất thường, lại có nhiều nạn lũ lụt.

Bèn truyền nhân dân xây dựng ở hai bên sông hai cung (tức là hai đền ở thôn Thượng, Hạ) để trấn áp lũ lụt, để bảo vệ nếp sống thuần hậu cho dân. Dứt lời thì tự nhiên biến mất.

Lại nói, khi Thục Vượng trị vì, nhân dân thường gặp hạn nặng, hoa mày khô héo. Nhân dân đói khát, bèn cầu khấn bách thần giúp nước, cầu phong ở các đền thiêng có nhiều hiển ứng linh thông thì gia phong mỹ tự là Thượng đẳng phúc thần. Đến mùa đông ngày mùng 10 tháng Mười An Dương Vương lại phong thêm mỹ tự.

  • Phong Thuỷ phủ Phù Tang Châu Lâm Đại đế Động Đình Quân
  • Phong Thuỷ Phủ Vô Biên Trang nghiêm Vân Hải Động Đình Quân
  • Phong Cao Sơn Hữu thánh Quốc chủ Quý Minh đại vương
  • Phong Tản Viên Sơn Tả thánh Quốc chủ Đại vương.

Toàn xã Liễu Châu cùng phụng thờ. Đền thờ ba vị Thủy quan ở chỗ bãi dâu nằm ở giữa, cả xã cùng thờ. Còn hai đền thờ Tả Hữu của Sơn Thánh (một là nơi Đồng Bàn, một là ở nơi Bãi Di) do thôn Thượng, Hạ lập riêng để cúng tế, do các vị cùng sinh cùng hóa nên không phân ra tế cúng riêng được.

Lại nói, qua thời Đông Hán, Ngô, Tấn, Tống, Tề, Lương tổng cộng 340 năm cho tới khi nước Nam trải qua bốn họ Đinh, Lê, Lý Trần, Tiền Lê, Hậu Lê, Tiền Lý, Hậu Lý, khai mở cơ đồ, thường có công giúp nước cứu dân, nên đế vương các thời có phong thêm mỹ tự, vạn năm hưởng cúng tế, hương hỏa vô cùng (các triều Đinh, Lê, Lý, Trần truy phong mỹ tự).

  • Phong Thuỷ phủ Phù Tang Châu Lâm Đại đế Động Đình Quân
  • Phong Thuỷ Phủ Vô Biên Trang nghiêm Vân Hải Động Đình Quân
  • Phong Thuỷ phủ Đại Thiên Long chủ Bát Hải Long Vương
  • Phong Cao Sơn Hữu thánh Quốc chủ Quý Minh Đại vương
  • Phong Tản Viên Sơn Tả thánh Quốc chủ Đại vương.

Hai thôn xã Liễu Châu phụng thờ.

Các ngày sinh hóa, các tiết tiệc lệ cùng với chữ húy, màu sắc phục đều được khai như sau.

  • Ngày mùng 3 tháng Giêng là ngày các vị thánh vương đi đến xã nhà. Làm lễ bái mừng ở nơi thôn Thượng, bày lập ở sân ngoài nơi đền thờ (lợn đen mổ chia làm ba cỗ, gọi là cỗ sồng, rượu ngọt một vò lớn, lấy trúc trắng làm cần, ba cần cùng cắm vào vò rượu, bánh chay ba mâm, cơm ba nồi, xôi xanh và đỏ mỗi vị hai bát, ca hát một ngày đêm)
  • Ngày mùng 6 đến ngày 15 tháng Giêng là ngày chính lệ Sơn Thánh cùng các thủy thần hội yến du xuân (cỗ trâu, lợn đen, ca hát, đấu vật, các xã cùng đến phụ tế)
  • Ngày mùng 6 tháng Hai là chính lệ làm lễ bái tạ, hai đền đều cùng làm lễ (cỗ trâu, lợn đen, rượu ngọt, bánh trôi 30 viên, mâm chay các thứ).
  • Ngày mùng 10 tháng Tư là chính lệ khánh hạ khai sắc ba vị thủy quan, dân làm lễ (trâu trắng lấy da làm chả, trứng gà sống 3 quả đặt vào trong bồn nước cùng với rượu ngọt, ca hát, chèo thuyền 3 chiếc)
  • Ngày 12 tháng Năm là chính lệ ngày sinh hai thánh (lợn đen, rượu ngọt, cỗ trâu các thứ, ca hát). Hai đền Thượng Hạ, trái phải đều tế cùng ngày.
  • Ngày 15 tháng Bảy là ngày khánh hạ cả 3 đền (gà, lợn).
  • Ngày mùng 6 tháng Tám là ngày khánh hạ hai thánh Tả Hữu (lợn đen, xôi, rượu).
  • Ngày mùng 10 tháng Chín là chính lệ hóa thần của hai thánh Tả Hữu (cỗ trâu, lợn đen, rượu ngọt, mâm chay các thứ).
  • Ngày mùng 10 tháng Mười là ngày khánh hạ mở sắc đền Thủy thần (trâu trắng như kê ở trước, trứng gà, rượu ngọt, ca hát các thứ).
  • Các chữ húy Tang, Lâm, Trang, Hải, Long, Hiển, Sùng đều cấm dùng.
  • Lễ phục hai màu xanh và hồng cấm dùng.

Niên hiệu Hồng Phúc năm đầu mùa xuân ngày mùng 5 tháng Ba, Hàn lâm viện Đông các Đại học sĩ Nguyễn Bính vâng soạn.

Ngọc phả Trung Thành Phổ Tế Đại vương ở thôn Phú Nhiêu, xã Bất Nạo, tổng Lương Xá, huyện Phú Xuyên, tỉnh Hà Đông

Ngọc phả Long hầu bộ Thủy Thượng đẳng Trung Thành Phổ Tế Đại vương, là công thần triều Hùng Duệ Vương họ Việt Thường

Chính bản bộ Lễ quốc triều

Xưa nước Việt ta tương truyền triều Kinh 18 nhánh, truyền đến Hùng Duệ Vương tại ngôi, đóng đô ở Việt Trì bên sông Bạch Hạc, lập nước tên Văn Lang, kinh đô là thành Phong Châu. Duệ Vương có lòng nhân đức như trời, có trí tuệ như thần, rủ áo khoanh tay, lấy việc chăm lo cho nhân dân làm gốc. Đương thời khắp nơi đều gọi là bậc vua hiền.

Đang khi đó ở đất Ái Châu, phủ Kinh Môn, huyện An Lão, châu Cửu Giang có một gia tộc danh tiếng họ Đào, tên là Bột, lấy vợ người trong huyện tên là Phạm Thị Hương. Gia tộc ông Bột kế truyền là dòng dõi quan lại, có nề nếp thơ văn lễ nhạc, lấy việc nhân nghĩa làm gốc. Khi ông Bột ở tuổi 16 đã có trí dũng hơn người, tài năng vượt trội, tinh thông văn võ, ra đi thi ứng tuyển được nêu danh. Vua cho làm chức Thiếu phó, bổ nhiệm là Bộ trưởng Hoan Châu.

Nhận chức được 5-6 năm, trong châu đều yên bình, giàu đủ. Vua lại gọi về triều, thăng chức làm Hình tào Thượng thư. Về sau dẹp được giặc ở Hải Dương, một trận quét sạch, Vua bổ nhiệm làm Bộ trưởng Hải Dương, chủ trị một vùng. Chẳng may bà chính phi mất sớm. Ông lại lấy con gái của huyện lệnh huyện Kim Bảng phủ Lỵ Nhân bộ Giao Chỉ tên là Nguyễn Hương, lập làm Đệ nhị phi nhân. Bà tuổi 19, có đức hạnh kiêm toàn, đẹp người đẹp nết, má phấn môi hồng, mày ngài mắt phượng, thân tự tỏa ra mùi hương thơm, nhan sắc tuyệt trần, thế gian không ai sánh. Từ khi ông bộ trưởng Bột lấy về, loan phượng cùng xứng đôi, cầm sắt giao duyên, uyên ương tình nồng mặn mà, cầm sắt hòa thanh ý tốt. Qua 3-4 năm càng thêm hòa hợp ân ái.

Lại nói, khi ông Bột nhận chức bộ trưởng Hải Dương, cả quận được thanh bình, giàu đủ. Một hôm bỗng nhiên mặt biển không có sóng mà nước dâng ngập khắp thành. Khi đó, ông Bột cùng Đệ nhị phi nhân đi tránh nước lụt bèn lên trên đài cao mà ngồi, dựa vào lan can trên lầu. Lúc ấy, bà phi ngoái nhìn ra dòng nước sông chảy, ngắm cảnh trăng trong nước biếc. Đang khi ngắm cảnh bỗng thấy trên dòng nước có 5 quả trứng nổi lên giữa dòng, trôi thẳng đến trước mặt bà phi.

Năm quả trứng tỏa sáng huy hoàng một vùng mặt nước, trôi đến dưới bên đài gác. Bà phi thấy vậy lấy làm lạ. Ông bộ trưởng cũng quay ra xem, rồi chỉ vào đó nói với bà phi rằng:

  • Đây tất là châu báu dưới biển mà Long quân đem đến cho ta. Phi nhân hãy vớt châu lên xem thử trứng đó như thế nào.

Bà phi bèn vâng mệnh vớt trứng lên xem, được một ổ 5 quả trứng đều sáng rực rỡ như ngọc trắng. Ông bộ trưởng thấy vậy lại nói với bà phi rằng:

  • Đúng là vật lạ quý báu của trời ban.

Liền nói với bà phi thu đem cho vào trong áo để cất giữ. Bỗng nhiên trứng tự nhiên vỡ ra, tiếng vang như sấm, chảy thành nước cả, mùi thơm ngào ngạt. Bộ trưởng và bà phi lấy làm kinh sợ sự việc quái lạ dị thường. Đến khi nước rút đi, bộ trưởng cùng phu nhân đi xuống gác về cung, nghĩ lại sự quái dị của mấy quả trứng, bèn lập đàn cầu đảo trời đất trăm thần để xua đuổi điềm trứng quái. Nửa đêm hôm đó ông bộ trưởng nằm mộng thấy giữa trời có một đám mây bay năm màu. Xem kỹ lại thấy có một mặt rồng, hai mắt rất sáng và to, đôi râu rồng dài trắng, miệng ngậm một dải gấm hồng, dài thả thẳng xuống mặt đất. Ông bèn xem dải gấm đó, thấy có viết bốn câu thơ rằng:

Phó hứa Đào gia ngũ noãn [thần]
Nhất bào cụ xuất ngũ long quân
Thiên tài cộng giáng phù gia quốc
Phúc triệu hà nghi hữu quái vân.

Nghĩa là:

Trao gửi họ Đào năm trứng thần
Một bầu sẽ nở năm Long quân
Thiên tài giúp nước đều cùng giáng
Là phúc không sai, chớ ngỡ ngần.

Vị chủ công đọc xong, dải gấm bỗng nhiên rơi xuống phủ quấn ba vòng lên người ông. Vị chủ công bỗng tỉnh lại, biết là điềm trong mộng. Từ đó phu nhân bỗng có thai. Đến năm Đinh Mão ngày 12 tháng Hai sinh được một bầu, nở ra năm người con trai, đều thực là có diện mạo đẹp đẽ kỳ lạ, thân hình cao lớn, ở trên lưng đều có một hàng vảy cá chạy tới hậu môn hình 28 vì tinh tú, đều là vảy màu đỏ. Vị thứ nhất trên đầu hai bên đều có mọc thịt sừng, hình như quả trứng gà. Vị thứ hai ở dưới chân có 10 cái vảy, đầu dài và hình giống như vuốt rồng, màu như đầu ngọc. Vị thứ ba tay dài quá gối, mặt rộng tai to, sáng như mặt trời hồng mới mọc, mắt phượng mày ngài, mũi rồng hàm én. Vị thứ tư tóc như lông lân, hình xoắn ốc lên phía trên. Vị thứ năm mũi rồng hàm én, mắt tròn sáng như sư tử. Cả năm người đều khác xa người thường, thế gian hiếm có.

Đang khi sinh trời đất mù mịt, mưa to gió lớn nổi lên, sấm sét ầm ầm, nước sông dâng lên tràn vào cửa nhà, rắn vào đầy sân. Người người không dám ở đó, đều sợ hãi trộm nhìn. Đến khi sinh được trăm ngày ông bộ trưởng bèn đặt tên cho năm người con tài tử. Ông thứ nhất là ông Cự. Ông thứ hai là ông Hồng. Ông thứ ba là ông Trưởng. Ông thứ tư là ông Thạch Khanh. Ông thứ năm là ông Quý Lân.

Nuôi dưỡng lớn lên tới lúc 7 tuổi, khi đó các ông đều có khí chất vốn kỳ lạ, khác hẳn người thường. Đức tính khoan dung đại lượng, trí dũng hơn người, tư chất chính trực, trung hòa, thông minh kỳ dị, tài cao vượt thế. Khi đi du hành ở ngoài đường trên đều có một đám mây hình tròn, che trên đầu, bốn phía hào quang sáng rạng rực rỡ, một vùng trong mát. Thân hình tựa rồng kỳ quái. Người đời thấy đều sợ hãi.

 Đến năm 15 tuổi các ông văn võ kiêm toàn, có thuật lạ của thánh thần, sức có thể nâng đỉnh, lực có thể bạt núi, tính lại rất ưa nước. Anh em thường ra chơi ngoài bến sông. Ngày thường tắm ở nơi bến nước. Thường đứng trên đầu sóng, đi trên mặt nước như bay, qua sông như giẫm trên mặt đất. Hoặc có lúc lặn ẩn dưới đáy sông, đến cuối ngày vẫn chưa lên. Những hôm như thế tất thiên hạ có mưa to gió lớn nổi lên mù mịt.  Một tháng vài lần chơi mát như thế. Nhân dân xem xét thấy đều cùng kinh hồn lạc phách, đều gọi là năm thánh giáng trần. Khi đó, ông bộ trưởng đã biết năm người con đúng là mệnh thủy thần khác thường, nhưng không dám tiết lộ cho người trong triều đình biết.

Đến khi lên 16 tuổi, bà phu nhân qua đời (tức là ngày mùng 10 tháng 2). Ông bộ trưởng cùng với năm vị làm lễ chôn cất. Lại nói, khi đó thiên hạ gặp nạn hạn hán, khô cháy cây cỏ trong ba bốn năm liền. Nhân dân trong thiên hạ đều bị đói khát, nhiều bệnh tật. Lại sinh ra trộm cướp. Vua trong lòng thương xót sinh linh, bèn mở trường để tuyển người hiền lương chính trực, có hiếu đễ, anh tài, có học vấn uyên bác, văn võ kiêm toàn, có tài đức để có thể giữ nước yên dân. Hịch truyền đi thiên hạ có ai như vậy thì lên kinh vào đình dự thi.

Do đó, năm ông nghe hịch, trong lòng rất vui mừng, bèn đến bái hỏi cha là ông bộ trưởng cho lên kinh dự thi. Ông bộ trưởng đồng ý. Khi đó năm ông đi đường thủy lên đến kinh thành. Lúc ấy vua Duệ Vương đêm nằm mộng thấy có một người to cao 9 thước đường đường, áo mũ rực rỡ, đai giáp huy hoàng, lại dẫn năm con rồng tiến thẳng đến trước mặt gặp vua. Vua bèn hỏi:

  • Ngài ở đâu đến? Sao lại có năm con rồng dẫn đến cho trẫm?

Người đó nói:

  • Vâng mệnh Hoàng thiên là quyền Thiên tào đại sứ, truyền đem năm rồng giáng thế, dẫn đến cho vua để đảm nhận việc nước. Lại đem đến một chương thơ của trời cho vua mở xem.

Vua nghe vậy bèn nghiêng thân làm lễ, vâng nhận thiên chương, mở ra xem thấy có một bài thơ nhỏ rằng:

Ngũ long phó giáng hứa thần quân
Hữu thị quân phân hữu thị thần
Huynh đệ nhất bào Đào thị xuất
Khả phù ư quốc, tế ư dân.

Nghĩa là:

Năm rồng đem đến giao vua đây
Thực là vua sáng, bề tôi này
Họ Đào cùng bọc anh em đó
Trợ nước giúp dân, đã có ngày.

Vua đọc xong bỗng nhiên tỉnh lại, biết là điềm trong mộng báo ứng, bèn mở trường thi để xem có người tài trong thiên hạ. Khi đó anh em năm vị đến vào trường thi, đều đúng là bậc văn võ thánh thần, tài năng kỳ lạ. Trong trường mây khói mù mịt, gió mát khí lành. Anh tài trong thiên hạ, cùng một trường các sĩ tử đều tôn nhường sợ hãi vậy.

Khi đó anh em cùng lọt vào khoa bảng, vào yết kiết sân rông gặp vua. Vua thấy năm ông diện mạo đường đường, khác lạ so với người thường, đúng là hình ảnh của long hầu, dung nhan của thủy quốc. Vua mừng thầm, nói rằng:

  • Ngày hôm nay vua tôi mới gặp gỡ lần đầu, nhưng trời đã có báo trẫm giao phó cho năm khanh. Nay quả được năm rồng, tất nước nhà sẽ không có tai họa nữa.

Ngày hôm đó vua mở tiệc, lập đàn cầu đảo tế trời đất trăm thần. Vua đứng trước đàn. Năm ông cùng đứng chầu ở dưới. Hai bên trăm quan cùng làm lễ. Vua khấn rằng:

  • Phục trông Hoàng thiên Hậu thổ, các vị bách thần tinh túc cùng đến giáng đàn chứng giám. Trẫm trong mông thấy năm rồng được Hoàng thiên ban xuống để giữ nước giúp dân. Nay lại được năm người con họ Đào, đúng được hiển hiện năm rồng mà Thiên đình đã giáng mệnh. Dám xin Hoàng thiên báo ứng tại đàn.

Bỗng nhiên thấy mây gió nổi lên giáng xuống giữa đàn như được sự chứng giám, tỏ rõ sự hiển ứng của Hoàng thiên. Vua khấn xong trong giây lát bỗng trời đất mù mịt, sấm chớp ầm ầm, mưa gió nổi lên giáng xuống đàn. Vua cùng trăm quan đều lấy làm kinh dị. Làm lễ xong thì mây mù đều tự nhiên ngưng tạnh. Trời đất trong sáng.

Ngày hôm đó vua phong ông thứ nhất là Đông long Thái sư. Ông thứ hai là Tây long Thái phó. Ông thứ ba là Nam long Trưởng lệnh, quyền đảm Trung Hoa tể quốc, làm Thổ Lệnh cai quản thống nhất cầm đầu 50 thủy thần. Ông thứ tư làm Bắc long Thái bảo, cai quản thống nhất thuyền rồng, làm tướng quân Thạch Khanh. Ông thứ năm là Thiếu long Chưởng đài Chính ngự. Lại tăng phong cho thân phụ là ông bộ trưởng làm Đại vương.

Khi ấy thiên hạ thanh bình, không có tại họa hạn hán hay ngập lụt, tất cả đều mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt. Nhân dân giàu có, đều không lo đói khát, thực là niềm vui cảnh thanh bình. Khi đó vua bèn giao cho năm vị long hầu đi trấn nhậm các phương, kiêm quản chưởng các dải sông nước để làm chủ tể bảo vệ nhân dân. Khi ấy, ông thứ nhất làm chủ tể quận thành Hải Dương, đóng ở ngã ba sông Hồng. Sau nơi đó đều thành nơi cho gia thần phụng thờ. Ông thứ hai làm chủ tể đạo Sơn Tây ở ngã ba hợp lưu của sông Lâm Thao, sông Đà, sông Chiểu, tục gọi là ghềnh Ba Chậu (Triệu). Về sau đất đó dân đều lập đền phụng thờ.

Ông thứ ba là ông Trưởng là chủ tể quận thành Sơn Nam, đóng tại đất trang Tông Chất, huyện Phù Vân, phủ Thường Tín. Cung điện dựng ngự ở nơi trán rồng chỗ ba sông Lương, sông Du, sông Tô hợp lưu, là đất có địa hình quý chín rồng tranh ngọc, núi dựng nước giao, thật là đất anh linh lớn lao, đóng tại ở chính nơi đất trán rồng, theo hướng chính là hướng Quý Đinh, rồng nước cùng chầu ở mặt chính, phượng hoàng nhảy múa ở hai bên. Ông thứ ba là ông Trưởng xây thành và cung điện ở đó.

Ông thứ tư là ông Quý xây thành và cung điện ở thành Kinh Bắc, ngã ba sông Vũ, sông Cẩm, cung đóng ngự ở thế chính đầu vùng đất chim loan. Ông thứ năm xây thành ở Nam Chân, quận Giao Chỉ, ngã ba sông Vạn và cửa biển, cung ngự đóng ở chính cục đầu con lân.

Ba ông Cự, ông Hồng, ông Quý khi vâng mệnh đi dẹp quân Thục, một trận dẹp yên, rồi về nước đi đảm nhận các nơi cung sở đầu sông, đều hóa thành rắn dài trăm trượng, đi xuống sông mà tự hóa sinh bất diệt. Như thế, ông thứ nhất là ông Cự, ông thứ hai là ông Hồng, ông thứ năm là ông Quý đều cùng hóa trước. Vua truyền cho các vùng đất mà các ông trấn nhậm đầu sông và nơi hóa đều lập đền phụng thờ. Sắc phong là Thượng đẳng (vẫn có những tích riêng).

Từ khi năm ông vậng mệnh triều đình đi trị nhậm các nơi để trấn năm phương, bảo vệ cai quản thiên hạ đều được thanh bình, giàu mạnh.

Lại nói, quan Trưởng lệnh là chủ tể một bộ Sơn Nam. Đất trang Tông Chất đều là gia thần tại đó. Khi ấy, nhân dân ở trong trang (tức trang Tông Chất) có 9 tộc chia thành 8 giáp (khi đó các họ Phạm, Lê, Đặng, Bùi, Đỗ, Nguyễn, Hoàng, Trịnh, Trương là 9 tộc), đều theo quan Trưởng Lệnh làm chân tay, gia thần, cộng tất cả được 289 người, đều là những người khỏe mạnh. Ông bèn lấy ba người ở đất đó (tức là trang Tông Chất) cũng là những người có tài, khỏe mạnh, dũng cảm, cùng làm quản thuộc nội đao, phụ trách các gia thần 289 người, cùng quản trị nhân dân, đều là các tì tướng.

Khi đó ba vị Nguyễn Công Minh, Bùi Công Tài, Đặng Công Cán là người phụ trách nội vụ, theo hầu ông (sau ba vị đều hóa, vua cùng phòng làm Bản thổ thần quan, lập miếu thờ ở trong dân). Từ đó nhân dân trang Tông Chất đều chịu ơn đức lớn của ông Trưởng. Triều đình miễn hết đóng góp quân lương. Người ở đất Tông Chất một phương đều nổi danh hiển hách. Nhà cửa giàu quý, đất đai trù phú, mua thềm đất đai, đều là công đức to lớn của ông Trưởng đã nuôi dưỡng nhân dân. Công tựa núi cao, biển rộng, lòng nhân đức như trời đất vô cùng, đều là công nuôi dưỡng vậy.

Lại nói, khi cơ đồ họ Hùng đã đến lúc cuối, thế nước đã cùng. Vua Duệ Vương sinh được 20 hoàng tử đều theo nhau về tiên hương. Sáu vị công chúa sau chỉ còn hai. Vị thứ nhất là công chúa Tiên Dung. Vị thứ hai là công chúa Mỵ Nương. Cả hai đều là bậc hào kiệt trong giới nữ lưu, là bậc thần thánh trên thế gian, có nhan sắc tuyệt trần, đức hạnh thế gian hiếm có. Công chúa thứ nhất là Tiên Dung được gả cho Chử Đồng Tử quê ở trang Đa Hòa, huyện Đông An, phủ Khoái Châu, Sơn Nam. Công chúa thứ hai là Mỵ Nương được gả cho Tản Viên Sơn Thánh, quê ở động Lăng Sương, huyện Thanh Xuyên, phủ Gia Hưng, đạo Sơn Tây. Khi ấy vua chọn được người con rể thiên tài, bèn nhường ngôi cho. Tản Viên Sơn Thánh không nhận, chỉ xin được giúp việc chính sự quốc gia. Được hơn 10 năm, thiên hạ thanh bình, trong phủ không có việc phải lo.

Khi đó, vua gọi ông Trưởng Lệnh cùng với ông Quý Khanh, cả hai anh em cùng về triều chầu vua. Hai ông vâng mệnh về triều. Từ đó vua tôi hợp đức, thiên hạ yên bình. Được vài năm thì Thục chúa nghe đồn rằng Duệ Vương tuổi cao, không có người nối hậu, nhường ngôi cho con rể Tản Viên, bèn tích trữ binh mã hơn 30 vạn quân đến đánh Duệ Vương để chiếm lấy nước ta. Thư từ biên cương gửi gấp về báo. Vua bèn gọi Tản Viên Sơn Thánh cùng ông Thổ Lệnh Trưởng (Trận đó năm anh em ông vẫn còn đủ. Vua có phong tước, chia các đạo đế chiến đấu. Đến khi yên ổn ba ông về triều rồi hóa trước, có tích riêng) cùng đến chầu vua hỏi kế sách. Sơn Thánh tâu rằng:

  • Thần xin được thay thánh giá, tự chọn tướng tài nghênh chiến với tướng Thục ở các đạo bộ binh.

Ông Trưởng Lệnh tâu rằng:

  • Thần xin được nghênh chiến các đạo quân thủy.

Vua đồng ý. Khi đó vua phong Tản Viên Sơn Thánh là Nhạc phủ kiêm Thượng đẳng thần, cai quản cầm đầu 50 sơn thần. Lại phong cho ông Trưởng Lệnh là  Thuỷ tào kiêm Thượng đẳng thần, cai quản cầm đầu 50 thủy thần, tước vị là Trung Thành Đại vương.

Ông Trung Thành đóng giữ quận Sơn Nam, đến Ái Châu, Hoan Châu, châu Bố Chính, quản đến các cửa biển của sông Lương, sông Ô, sông Cửu Đầu, sông Bạch Đằng các mặt nghênh chiến với đạo quân thủy của quân Thục. Sơn Thánh nghênh chiến từ Tuyên Quang, Hưng Hoá, Cao Bằng, Tụ Long, Bảo Lạc, Côn Lôn, Bắc Tạ đến đất 16 châu. Sơn Thánh cùng Trưởng Lệnh Trung Thành Đại vương cùng dẫn thủy bộ các tướng, mười vạn quân mạnh, một ngàn tàu bè, cùng làm lễ trước bệ rồng. Thủy bộ cùng tiến, thuyền ngựa cùng đi. Một đạo quân của Sơn Thánh tiến thẳng đến các đồn của đại tướng Thục ở Mộc Châu, châu Phù Hoa, Việt Châu.

Một đạo thủy quân của Trưởng Lệnh Trung Thành Đại vương tàu bè thẳng tiến, ra từ cửa biển Thần Phù đến các dải sông từ các vùng Sơn Nam, Hải Dương, Ái Châu, Hoan Châu, châu Bố Chính, sông Ô. Thủy bộ hành quân, cùng ngày đến đánh một trận. Quân Thục thủy bộ đều thua to, chạy tẩu tán. Truy kích chém được ngoài ba ngàn đầu, bắt sống tướng Thục dẫn về kinh thành. Dâng biểu tâu lên là đã dẹp yên quân Thục.

Vua nghe tin rất vui mừng, bèn hạ chiếu triệu hai đạo thủy bộ về. Các đạo đều vâng mệnh trở về triều làm lễ bái yết trước bệ. Vua mở yến tiệc lớn. Từ đó thanh bình. Con vua cháu chúa nhàn du trong thiên hạ.

Khi ấy Trung Thành Đại vương xin vua cho trở về quận cũ (tức các quận Hải Dương, Sơn Nam) để thăm hỏi cha là ông bộ trưởng Bột. Vua đồng ý, ban cho vàng bạc, lụa là, gấm vóc hàng ngàn cân. Ông làm lễ bái tạ, rồi rời xa giá trở về châu quận, trên đường đi đến huyện Kim Bảng, phủ Lị Nhân xứ Sơn Nam thì thấy thân phụ là ông Bột đang về triều để thăm viếng ba vị long hầu đã hóa. Hỡi ôi, xa trông thấy thuyền rồng ở giữa sông Kim Mai thì bỗng nhiên trời đất tối tăm, mưa gió sấm chớp nổi lên. Ngày hôm đó (mùng 10 tháng 11) thuyền rồng của ông Bột chìm mất, ông hóa vậy (Về sau vua phong là Bột Hải Đại vương, lập đền ở nơi đó mà thờ phụng).

Khi đó Trung Thành Đại vương dâng biểu tấu. Vua nghe tin bèn sai quan sứ về nơi hóa làm lễ, truyền cho địa phương lập đền thờ phụng.

Lại nói, làm lễ cho thân phụ xong, vua lại triệu ông về triều, phong là Thổ Lệnh Thống quốc Đại vương, bổ nhiệm nhận thành Phong Châu, trấn giữ thành Bạch Hạc Tam Giang, làm Thống quốc Trưởng Lệnh Đô đài Lạc Long hầu Đại tướng quân.

Từ đó thiên hạ thanh bình, trong phủ vô sự. Quan Trưởng Lệnh xin vua đi chơi thiên hạ, xem xét các nơi là gia thần, tìm xem những nơi đất đẹp có long mạch để lập hành cung thờ cúng. Vua đồng ý. Ông bèn làm lễ ở triều đình. Ngay hôm đó rời xe đi các nơi trong thiên hạ.

Thế là ông đi du chơi vãng ngắm cảnh đến đất quận Sơn Nam. Nhân dân các phủ huyện đều dựng cung nghênh đón, là lễ mừng. Khí đó, ông lập sông Bạch Hạc là cung thứ nhất, thứ hai là bến Tông Chất ở ngã ba sông Lương, ngự ở chính nơi đầu tồng, đều là vùng đất du cung. Cung chính ở đất trang Tông Chất ngự trấn ngã ba nơi sông Lương, sông Du, sông Tô hợp lưu. Đất dựng cung ở tại nơi trán rồng, đều là chín rồng tranh ngọc, tất cả đều quay đầu về chầu ở đất chính cung, mặt trước có án ngọc.

Khi đó ông lại về chơi cung ở thành Tông Chất, truyền dựng một nơi hội tụ ở trong dân ấp. Dòng sông Du chảy tới cung này ở phía trước thì. Thường khi đi lại ông ngự thuyền rồng theo ba sông nhằm hướng sông Du mà tiến vào thẳng đến nơi hội họp trong dân. Ở tại nơi hội họp trước sân còn theo chính cục hướng Quý Đinh, lại lập giếng loa ở phía bên trong ấp để dưỡng khí đẹp của rồng xanh, cho được giàu mạnh người và vật. Ông lại cho làm một nơi bên đường có thế đất một dải vàng để làm cung nơi đất cấm. Năm tháng về đó dừng chân ở lại. Do đó ông là người đã mở ra đất này.

Hai nơi hành cung đều được miễn đóng binh lương. Hôm ấy (tức mùng 10 tháng Tám) xe của ông tiến về đến nơi cung Tông Chất. Nhân dân làm lễ bái mừng. Ông bèn ở lại trong cung (tức là cung sông Lương đất Tông Chất), mở tiệc vui vẻ, bèn gọi nhân dân, phụ lão cùng đến dự tiệc. Đang túc ăn uống tiệc tùng, ông Trưởng Lệnh Đại vương mới làm một bài thơ rằng:

Hà hải chung linh tự xuất thân
Tu my nhĩ mục bất vi bần
Cung đình xứ xứ giai ngô hữu
Hương hoả trường lưu tại xã dân.

Nghĩa là:

Sông biển đúc thiêng vốn xuất thân
Tai mắt tóc mi chẳng thể hèn
Khắp chốn cung đình là ta giữ
Hương lửa mãi lưu trong xã dân.

Lại nói, ông đóng binh ở đó, mở tiệc vui mừng tới hơn 10 ngày. Ông lại rời xe đi chơi các nơi trong thiên hạ, xây dựng hành cung, cộng là 172 nơi. Lại trở về triều, làm biểu dâng tâu xin vua cho các đất có hành cung  làm nơi gia thần sở thuộc. Lại xin ba huyện Phù Vân, Thượng Phúc, Nam Xương đều là nơi gia thần sở thuộc, cùng giữ gìn nơi hội đồng ở cung Tông Chất. Vua đồng ý.

Đến sau đó Thục chúa lại đem trăm vạn quân tinh nhuệ đến đánh Duệ Vương để chiếm nước ta. Vua lại gọi Tản Viên Sơn Thánh cùng với Trưởng Lệnh Đại vương dẫn các đạo quân thủy bộ đánh một trận dẹp yên được. Khi đó ông Trưởng Lệnh ra quân dẹp giặc có làm một bài thơ rằng:

Vạn lý phong lôi, vạn lý vân
Bất từ lao khổ sự quân thân
Trung cần nhất tiết thiên hà phụ
Vạn sự giai phù tại ngã thân.

Nghĩa là:

Vạn dặm gió mưa, vạn dặm mây
Chẳng từ lao khổ, việc vua đây
Một lòng trung cẩn trời không phụ
Muôn sự đều do ở thân này.

Lại nói, sau có giặc rất mạnh ở Hồng Châu. Vua gọi Trưởng Lệnh Đại vương sai đem quân đánh dẹp. Ông vâng mệnh làm lễ tạ, đem quân xuống thuyền rồng, tiến quân theo đường thủy, đánh một trận lớn, bắt được tướng giặc Trương Dũng, chém đều treo dưới cờ chỉ huy. Quân giặc thua to, bỏ chạy. Đuổi theo, chém vô số. Một xe không thoát, một ngựa không còn. Gửi về kinh thành, dâng biểu tấu. Vua bèn hạ chiếu gọi về. Ông vâng mệnh trở về.

Khi đó Trưởng Lệnh Đại vương tiến thẳng về theo đường thủy, dọc vào dải sông Lương nhỏ. Chỉ có hai chiếc thuyền rồng cùng người em ruột là ông Khanh quay thẳng về thành, theo dòng sông lớn là sông Nguyệt Đức mà tiến. Hôm đó (mùng 10 tháng Giêng), hai chiếc thuyền của ông đi thẳng vào trong ấp (tức là ấp trang Tông Chất) theo dải sông Du nhỏ mà vào thẳng cung Hội đồng. Ông bèn bỏ thuyền bên sông mà lên cung. Nhân dân làm lễ bái mừng. Ông mở tiệc vui vẻ, bỏ giáp ngừng ninh, khao thưởng ba quân.

Ở đó đến mùng 10 tháng Sáu, ông lại sai chèo thuyền rồng đi ra chơi bên ngoài cung ở ngã ba sông Lương. Ông lên cung, bỏ ra ngồi nghỉ. Được một lúc bỗng thấy trời đất u ám, giữa ngày mà như đêm, nước sông sóng cả dập dồn. Cá, ba ba, giao long, rắn hoa đều nổi trên mặt nước, cùng hướng về chầu trước cung. Đáy nước ba sông ầm ầm như tiếng sấm vang đến, phá mở một cửa giếng ở trong cung nơi ngự chính. Nước ngập đầy cung. Ông bèn theo dòng nước giếng mà ra trước cung nhập vào ngoài sông. Lại thấy ông cưỡi cá chép, tay cầm thẻ bài ngọc, bỗng nhiên hóa (do đó trước nơi cung có mảng sông nước hình như đuôi cá còn tới nay). Đang khi đó lại thấy thuyền của ông đều có rồng vàng trong thuyền bay ra trước cung ngoài sông thì bay lên trời mà biến. Còn hơn trăm trượng, vảy đỏ rực rỡ. Vạn nhận bỗng mưa to gió lớn.

Khoảng ba ngày sau thấy trời đất trong sáng. Nhân dân đều lấy làm sợ hãi kinh dị, bèn làm biểu dâng tấu lên triều đình. Vua nghe tin vô cùng thương tiếc bề tôi tài giỏi, lại có công lớn với nước, bèn lệnh cho trăm quan đến nơi hóa (tức cung Tông Chất ở ngã ba sông Lương, sau nhà Lê đổi thành cung Đa Chất). Sau cho sửa dựng lại cung sở làm nơi đền hóa chính. Nhân dân địa phương ở đó (tức là ở đền Đa Chất sông Lương) đều phụng thờ. Còn như dân các trang của ba huyện là gia thần sở thuộc về quy tế ở đền hóa chính sông Lương, mỗi năm xuân thu đều đến phụ tế. Để giữ hương lửa ở Tông Chất cho miễn đóng binh lương, ruộng thờ 30 mẫu 3 sào. Hai kỳ xuân thu làm quốc tế.

Trăm quan vâng mệnh đến nơi hóa mà tế. Khi tu sửa đền miếu hoàn thành bèn làm lễ đến xem trong giếng (đi đến nơi đó) thấy giếng ở trong cung nơi ngự chính mà ngài đã hóa có tiếng động ầm ầm như tiếng sấm. Trăm quan thấy việc linh ứng trước mắt, bèn làm lễ tạ. Trở về triều dâng tấu lên vua. Vua nghe vậy thấy đáng xưng là linh ứng. Ngay hôm đó vua phong thêm mỹ tự Thượng đẳng phúc thần, cho vạn năm hưởng tế lộc cùng với nước nhà, mãi là lệ thức. Lại ban cho áo mỹ cùng với các đồ tế khí, cho phép Tông Chất làm nơi hương lửa hộ nhi, đều miễn đóng binh lương, xuân thu quốc tế. Còn ba huyện cùng là nơi hành cung thần tử, xuân thu phụ tế ở trang Tông Chất tại đền ngã ba Lương. Mỗi năm hai kỳ nhân dân ba huyện đến phụng thờ phụ tế ở đền hóa chính Tông Chất. Ba huyện mỗi kỳ phụ tế nộp 100 quan tiền.

Khi đó vua lại truyền hịch đi thiên hạ các nơi có cung sở trước đây đều lập miếu phụng tự. Cộng là 172 nơi được vua phong. Phong Trung Thành Thượng đẳng tối linh Đại vương, cho phép thôn Phú Nhiêu phụng thờ hương lửa.

Lại nói, về sau vua nhớ nghĩa quân thần, bèn lại truyền lập ở thành Phong Châu nơi ngã ba sông Bạch Hạc một quán tên là Tam Thanh. Lại truyền vẽ tượng, vẽ ông Trưởng, ông Khanh hai tướng tay cầm long đao đứng hai bên trái phải của quán. Ngày tháng vua tưởng nhớ diện mạo hai ông, nên thường ra ngự ở quán đó (tức quán Tam Thanh) để xem thể diện của hai ông. Việc xây dựng đã xong.

Khi triều Hùng mạt vận, thế nước đến lúc cuối, vua nhường ngôi cho Thục vương (tức bộ chủ Ai Lao, cũng là dòng phái Hùng Vương). Từ đó trải qua Đông Hán, Ngô, Tấn, Tống, Tề, Lương cộng là 349 năm, cho tới khi vua Đường sai Lý Thường Minh làm quan Đô hộ Nam bang.

Bèn tiến đánh giặc Ai Lao. Một hôm Thường Minh dẫn quân đi đến đền Tông Chất huyện Phù Vân (tức đền thiêng nơi ta), đền thiêng Ba Lương.  Một tối quan đô hộ Thường Minh làm lễ cầu khấn xin được âm phù giúp nước, sau này dẹp được giặc sẽ tâu lên vua Đường tăng phong mỹ tự, vạn đời cùng hưởng với nước nhà, cùng hưởng phúc thanh bình. Khấn xong quan đô hộ nằm ở nơi cung chính trong đền. Mộng thấy một người thân cao mười trượng, tay cầm long đao, đường đường đến đứng ở giữa cùng, mà nói rằng:

  • Tôi nghe ngài khấn thỉnh, nên đã đến đây xin được giúp nước nhà.

Đang nói chưa dứt thì ông tỉnh lại, biết là mộng thần cảm ứng báo cho, bèn làm lễ tạ. Sáng ngày dẫn quân tiến thẳng đến thành Phong Châu, lại thấy quán ở bèn đóng quân một đêm tại đó. Thấy hình dạng hai tướng giống y như người trong mộng, ông  vui mừng báo rằng:

  • Nếu quả như đã gặp trong giấc mộng ở đền sông Lương, xin hãy âm phù giúp dẹp giặc thành công. Sau này tất sẽ tấu xin vua Đường phong tăng làm Nam thiên Thượng đẳng phúc thần, vạn đời hưởng lộc, cùng với nước nha yên lành, mãi là lệ thức không đổi, mãi thịnh vậy.

Lý Thường Minh khấn xong, đến nửa đêm lại thấy đường đường hai tướng, thân dài mười hai thước, mũ rồng, giáp vàng, áo gấm, tay cầm long đao. Hai ông múa đao đi tuần du quan trước sân ba vòng. Bỗng nhiên một ông bước một bước sang bến Việt Trì (đến nay do đó còn dấu chân tại bến đá). Tự nhiên biến mất.

Thường Minh tận mắt thấy sự linh nghiệm kỳ dị bèn làm lễ rạ. Ngay hôm đó tiến quân thẳng đến dẹp Ai Lao, một trận là yên. Sau Thường Minh dẹp được giặc Ai Lai, tâu lên vua Đường. Vua bèn tôn xưng là đền thiêng bậc nhất trời Nam, phong tăng là Thượng đẳng phúc thần, vạn đời trời Nam hương lửa cùng với nước nhà hưởng yên lành. Cho phép trang Tông Chất phụng thờ. Phong Trung Thành Phổ Tế Đại vương Hộ quốc An dân Đại vương.

Lại nói, trời Nam có bốn họ Đinh, Lê, Lý, Trần khai sáng cơ đồ, thường có nhiều lần anh linh giúp nước cứu dân, nên trải các đời đế vương phong thêm mỹ tự Thượng đẳng phúc thần, hương lửa vô cùng.

Trung Thành Vương là thủy thần ngã ba sông Lương. Dọc sông có tên thờ là Thổ Lệnh Trưởng. Năm Vĩnh Huy thời Đường Cao Tông Lý Thường Minh là đô đốc Phong Châu, đi qua bên sông, thấy núi sông tươi đẹp, thắp hương cầu khấn, mộng gặp thần nhân. Một xưng là Thổ Lệnh, một xưng là Thạch Khanh, chạy đến đua tài. Thạch Khanh nhảy một bước tới bên bờ Nam đã thấy Thổ Lệnh đến đứng ở bên sông trước. Thạch Khanh lại nhảy tới bờ Bắc, lại thấy Thổ Lệnh đã đứng ở bên bờ sông đó trước. Do vậy mà kính sợ, cho tô tượng phụng thờ. Lý Thái Tông đi thuyền qua đây, cũng có tưởng nhớ công lao, tăng phong mỹ tự là Trung Thành Đại vương. Các triều đại cũng đều có sắc phong.

Truyện Thổ Lệnh đất Phong châu

Thần vốn là hạo khí của núi sông, tục gọi là Thổ Lệnh Trưởng. Xưa tại thời Hán Tấn, có sự linh ứng, bảo vật phúc dân. Trăm họ địa phương được nhận nhiều ơn huệ. Người dân lập một ngôi đền cỏ để làm chỗ cầu đảo, mãi là quy định, đời đời không đổi. Đến những năm Vĩnh Huy nhà Đường, đô đốc Phong Châu là Lý Tiên Minh, là người ôn hòa, cung kính, phong nhã, biết thương vật yêu dân. Là người quản lệnh ở đây, nên các danh thắng trong châu, không nơi nào là ông không ghé chân qua. Do đó, những việc dù là nhỏ trong dân giam, dù là một cái cây một ngọn cỏ mà có sự hoa lệ không thay đổi thì đều định xuống thành tình khúc để nắm bắt được sự kỳ diệu đó. Khi ấy người người đều gọi là vị quan lệnh tốt.

Một hôm ông đi đến cửa sông Bạch Hạc, bỗng trông thấy một quán nhà tranh ba gian, được xây dựng rất sơ sài. Tiên Minh liền đến xem nơi trú nghỉ cùng với phẩm vị tinh tế thì biết đây là ngôi đền cổ linh thiêng, tự nhiên như có sự cảm nhớ, bèn ngẩng lên trời mà than rằng:

  • Bản chức vâng mệnh đến nơi nhân dân muốn để giúp yên nghiệp.  Nhân dân được nhờ ơn sâu của thần là điều mong muốn của bản chức. Nay thấy như ở đây một mảnh đất trong dân gian đã muốn trở thành cô quạnh hoang vắng, nhưng lại vẫn có mấy gian hương lửa, kính ngưỡng sao vẫn đủ đầy, ngày sóc buổi vọng vẫn thiêng thay.

Nên do đó mà có ý tu sửa. Lại xem địa thế nơi đây, trăm tầng dải biếc, ngàn dặm núi xanh, nước tựa như huyền, cùng núi uốn khúc, bàn long cứ hổ, núi đất sừng sững dựng thành một vạt dải đẹp đẽ. Bèn cho kiến thiết gạch gỗ dựng lại, thợ giỏi vẽ tường, tô vách, đẹp mắt đẹp lòng, trở thành một nơi đại danh thắng linh thiêng vậy.

Lại dựng ba pháp tượng cực kỳ to lớn, dựng riêng nhà giải vũ trái phải, cùng tiền đường hậu đường. Lại sai thợ trang sức tô vẽ tượng thần, tùy theo nơi mà bày trí thêm bớt các đồ tinh diệu, đương nhiên anh khí linh thiêng không thể chê được. Nhân đó mà thắp hương khấn rằng:

  • Tôi là chủ quản châu này. Nhân thấy ngôi miếu tranh sơ sài, việc xây tạo mới đã thành. Bây giờ nếu thần kỳ có linh thiêng, xin sớm hiện chân thân đúng như hình dạng thánh tượng vậy.

Bèn trai giới, tắm rửa tinh sạch rồi đi nằm. Đêm đó sau lúc trống canh điểm ba tiếng, bỗng mộng thấy có hai di nhân đến thẳng vào trong nhà, chia hai bên mà ngồi. Một người ngồi ở bên trái, đầu bù xù, răng lộ ra, mặt như hình quả bí, mũi to, râu ria

thần thái đẹp đẽ, đầu quấn khăn gấm vuông đoạn xanh đoạn hồng, thân mang áo khoác lân gấm viền biếc, chân xỏ giầy mây ngao điểu màu đen, tay trái cầm đằng đao, tay phải xếp khiên trúc. Một người ngồi ở bên phải trán rộng, mắt đỏ, mặt tròn như hình bánh, bảy đoạn căn cột xếp thành so le, mắt hổ môi dầy, hình dung cổ quái, đầu đội khăn gấm vuông xen các màu tím hồng, thêu vàng, mình khoác áo bào hoa thêu xanh trắng, chân đi giày sò tía núi nghiêng, vái chào Tiên Minh nói:

  • Đã lâu nghe đại danh của sứ quân như sấm nổ bên tai, nên muốn vội tới đây yết kiến, sau là để bày tỏ ý trịnh trọng. Nay nhân nhớ đến triều xưa nên đặc biết đến để ngồi tiếp ngài.

Tiên Minh thấy hai người diện mạo phong nhã, nói năng trước sau hợp lễ thức, trong lòng rất kính trọng. Tuy nhiên, ngầm nghĩ đây là ai khó có thể luận được, bèn nói:

  • Bản chức vâng sắc Thượng hoàng đến nhận chức phương Nam đến nay đã chưa được một năm, lại gặp được hai tôn tướng đến tiếp, may mắn được cùng nói chuyện, thật là có duyên. Thiết tưởng không phụ chí chiêu mộ tìm hiền hàng ngày. Song ngày tháng đã qua, có điều còn chưa tỏ tường. Xin thỉnh lời giáo huấn cho rõ để có thể biết được quang cảnh vậy.

Hai người cười nói:

  • Chúng tôi đều ở nơi đây, không phải xa xưa gì. Sứ quân đã có lòng mong muốn gặp gỡ, cho nên chúng tôi đặc biệt đến để tạ, sau là đền đáp lại vạn phần ý tốt đó.

Tiên Minh ngạc nhiên nói:

  • Tôi tuy đã đến nhận nơi quan đường, nhưng được một lần gặp mặt, sao lại có mong muốn gặp gỡ. Xin được biết cho tỏ.

Hai nhân nói:

  • Ngày sau sẽ tự biết, không cần phải giải thích.

Tiên Minh nói:

  • Đã được ơn huệ này thì liệu có thể được một lời về nhân tình không?

Hai người nói:

  • Chúng tôi một tên là Thổ Lệnh, một tên là Thạch Khanh, đều là dân bản xứ. Lúc nhỏ thường tập võ nghệ, ít khi thi đấu trực diện. Nay lại được  cùng sứ quân dự tiếp, xin được ra trước sân để so xem ai hơn ai kém. Ai hơn thì ở trước, ai kém ở sau. Để xem hơn thua như thế nào, sau là khỏi phụ công bình sinh học tập.

Tiên Minh vui mừng, liên tục đồng ý. Thế là hai người đến ở trước sân, cầm khiên đối mặt mà đấu nghệ, như hoa lê bái tuyết, như hổ tranh oai, tiến lui như rồng rắn quẫy động. Thạch Khanh thừa dũng dùng một bước nhảy, lại bước thêm một bước đến giữ nơi cửa giới. Không ngờ Thổ Lệnh đã sớm hơn giữ lấy cửa giới, lại còn đã bước thêm hơn một bước.

Tiên Minh hô “ôi” một tiếng lớn, rồi lại kinh sợ mà tỉnh lại, mới biết là một giấc mộng nơi chốn thiêng. Nhớ lại ký ức mờ mờ mà như trong mộng trông thấy vẽ lại anh em như Lý Lã nhân mà thành gió. Phàm có điều lo nghĩ giàu nghèo thiếu thốn thì đến ở đền cầu khẩn, họa phúc thấy đúng như âm báo.

Các triều đại dẫn quân đi qua địa phương này đều mổ súc vật làm lễ yết tế, tất được kỳ công. Lý Thái Tông dẫn quân đi qua phạt Chiêm Thành, thuyền qua nơi đây cầu đảo, tặng phong là Trung Thành Đại vương. Đến này còn sự tặng phong của các triều đại. Thời Trần Nhân Tông năm đầu Trùng Hưng sắc phong là Trung dực Đại vương, hai năm sau tăng thêm hai chữ Võ phụ. Thời Trần Anh Tông năm Hưng Long thứ 21 lại phong thêm hai chữ Uy hiển.

Về sau triều Trần Hàn lâm viện Thị độc Vương Uy theo giá đi Tây chinh nước Chiêm Thành, đi qua dưới đền, có thơ rằng:

Tỳ hưu thập vạn triển uy linh
Thế lực vân trung tuyết ngoại thành
Giang hữu khu khu hà xứ thị
Phong thanh hạc lệ tẩu Tần binh.

Nghĩa là:

Mười vạn tỳ hưu tỏ oai linh
Thế lực trong mây, tuyết ngoài thành
Bên sông nơi nơi đâu là chốn
Tiếng gió lệ hạc đuổi Tần binh.

Lại có Hàn lâm thị độc Nguyễn Sĩ Cố theo giá đi Tây chinh Ai Lao, trở về có thơ rằng:

Quy ngư phù ấn quải yêu gian
Tiền sự hy cầu phó tướng quan
Bạc đao thư sinh vô vọng xứ
Chỉ lai từ hạ khất bình an.

Nghĩa là:

Ấn phù rùa cá đeo bên hông
Sự cũ theo quan tướng cầu mong
Thư sinh bỏ đao về vô vọng
Dưới đền tìm đến, an lành trông.

Các kỳ sinh hóa cùng các tiết khánh hạ, và chữ húy, sắc phục làm lễ phải cấm vâng khai như sau:

Ngày sinh thần 12 tháng Hai. Làm lễ đón thần từ đền ở cung ngoài ba sông về nơi tế hội đồng, trên bộ đón giá, đường thủy ba chiếc thuyền rồng, trở về đến trước cửa nơi tế. Làm lễ cỗ chay oản quả, dưới dùng lợn đen tuyền, xôi, rượu, ca hát, đánh cờ, đấu vật trong 10 ngày, làm lễ rồi dừng.

Ngày hóa thần mùng 10 tháng Sáu. Làm lễ cỗ chay, trà, oản quả, bánh trôi, xôi rượu, cơm thịt lợn, các đồ vàng mã.

Ngày khánh hạ mùng 10 tháng Tám. Làm lễ cỗ chay, xôi rượu, ca hát ba ngày thì ngừng. Thịt trâu hay thịt lợn đều được.

Ngày khánh hạ 15 tháng Tám. Làm lễ cỗ chay, xôi, rượu, ca hát ba ngày thì ngừng.

Ngày khánh hạ 15 tháng Ba. Làm lễ đón thần bằng hai thuyền rồng, tiền về theo đường thủy tới nơi tế hội đồng, ca hát, đấu vật, cỗ chay, gà, xôi, rượu, ca hát ba ngày thì ngừng.

Ngày khánh hạ mùng 10 tháng Giêng. Làm lễ cỗ chay, lợn, xôi, rượu, ca hát ba ngày thì ngừng.

Ngày khánh hạ 12 tháng Năm. Làm lễ ở cung miếu, chèo thuyền rồng đón giá, cỗ chay, dưới móng lợn, xôi, rượu, bánh trôi, ca hát mười ngày, làm lễ tạ rồi ngừng.

Ngày khánh hạ mùng 10 tháng Mười một. Làm lễ xôi rượu, thịt lợn, ca hát một ngày thì ngừng.

Ngày khánh hạ 25 tháng Mười. Làm lễ thịt lợn, xôi, rượu, ca ba ngày thì ngừng.

Chữ húy  Trưởng, Lệnh, Thổ, Trung, Thành đề cấm tránh cùng âm. Cùng với tên cha mẹ hai chữ Bột, Hương, cùng với các áo màu vàng, tím đều cấm.

Hai kỳ xuân thu ở nơi miếu hóa. Các ngày 15 tháng Ba, 15 tháng Tám làm lễ tam sinh. Các nơi phụ tế đều làm lễ. Ca hát ba ngày thì ngừng.

Năm đầu niên hiệu Hồng Phúc, ngày tốt tháng Giêng, Hàn lâm viện Đông các Đại học sĩ, bề tôi là Nguyễn Bính vâng soạn.

Hoàng triều niên hiệu Vĩnh Hựu năm thứ ba, ngày mùng 1 tháng Năm, Quản giám bách thần Tri điện Hùng lĩnh Thiếu khanh, bề tôi là Nguyễn Hiền tuân theo y như bản trước đây vâng sao.

Ngọc phả truyền thư (Thượng từ đường ở Cổ Lôi)

Ghi chép của trưởng tộc họ Nguyễn tại Thượng từ đường ở Cổ Lôi

Quyển tập thứ hai

Năm Tân Mùi Thái Bình Thiên Quốc, vào ngày lành tháng giữa mùa xuân Đinh Tiên Hoàng nhờ ta triệu tập 12 sứ quân hợp nhất, cùng tôn Đinh Bộ Lĩnh làm Thiên tử. Đến ngày 12 tháng 2 Đinh Tiên Hoàng cùng các tướng đến nhà thờ làm lễ báo ơn công đức các vị tiên tổ Bách Việt, sơn thủy bách thần triều Hùng Vương. Lại phong cho ta cùng người em Nguyễn Bặc làm Quốc công, lập ban thờ, trùng tu miếu điện, cấp chia ruộng để muôn năm hương khói phụng thờ.

Thiết nghĩ, thân cây lớn vạn lá vốn là nhờ có gốc. Nước có ngàn dòng, vạn dòng vốn là nhờ nguồn. Vật còn như thế huống chi con người sinh ra kế thừa sự tốt lành từ tiền nhân mới thịnh vượng mà tỏa đi được xa vậy. Ngưỡng trông tổ tiên ta lấy cần cù mà vun gốc, lấy chắt chiu làm nguồn cho phong tục, tích đức, tích nhân. Không có điều đó thì con cháu làm sao có mà kế thừa. Là con cháu há chẳng nhớ về ngọn nguồn, tìm đạo xa xưa? Vì vậy phải viết lại thành gia phả. Phàm là mộ tổ tiên tại nơi nào, ngày giỗ kỵ là khi nào cùng với các chi nhánh, thế thứ đều có thể ghi lại trong đó, để người kế tự về sau nắm được. Nắm được để mãi mãi noi theo.

Các đời tổ sư xứ Cửu Liên Hoa

Tổ ta từ chân núi Tản Viên dựng nghiệp các nghề thầy thuốc, làm ruộng, trồng dâu, nung gốm, đúc kim khí ở tại Tây Vực, giáo hóa chúng sinh ở Tây Phương Cực Lạc, mở nhà truyền kinh, có công dựng nước, có đức giữ dân, nên người đời sau tôn xưng các tên gọi Tiên Phật để phụng thờ. Toàn thế giới đều chịu ơn lớn, cùng sự tôn sư trọng đạo mà xin làm đệ tử, cùng nhau truy niệm tổ ta ở trong các ghi chép của đền Thần, chùa Phật.

Từ núi Tản Viên đến Tây Phương Cực Lạc, Sài Sơn, Thổ Ngõa, Phụng Châu, Tiên Lữ, đến Phong Châu đất chủ tạo thành thế đất tứ linh Long, Phụng, Ly, Quy. Ba đầu (ba tán) chín lớn (chín miếu tại Phong Châu chính là chín con rồng) đời đời mãi soi. Tứ linh cùng với hình Cửu long là tượng trưng cho địa thế. Tổ ta đóng đô tại Lôi Bằng, rồi đến Lôi Phong, Lôi Đỉnh (Lôi Bằng là nơi định đô thời sơ khai. Lôi Phong là thời Kinh Dương Vương. Lôi Đỉnh là thời Triệu Vũ Đế).

Buổi sơ khai tên nước là Cực Lạc, phật hiệu là Di Đà, sinh ra ở Hòa Bình, ở tại núi Tản Viên, hóa ở Tây Phương Cực Lạc, mộ ở mặt trước núi. Giỗ ngày mùng 1 tháng Tư.

Đế Thiên (Phục Hy), mộ tại Thiên Thị núi Sài, Quốc Oai, Sơn Tây. Ngày giỗ mùng 4 tháng Tư.

Địa Mẫu mộ tại Cực Lạc, bên trái chân núi. Ngày giỗ mùng 1 tháng Tư.

Đế Viêm dùng lửa luyện kim loại cùng với làm gốm, dùng kết thừng làm văn tự, khởi đầu vạch ra Bát quái, phân định Âm Dương, Ngũ hành, thực là người đã khai mở vận hội văn minh vậy.

Địa Mẫu dạy dân cầy cấy, chuyện nghề nông tang, cứu khổ chúng sinh nên đời sau truy tôn là Địa Mẫu Chân Tiên.

Đế Viêm bị một học trò tên là Hiên Viên làm phản, đuổi Đế Viêm ra ngoài nước. Do tuổi cao sức yếu, ngày mất trên đường đi về nước Bắc, hóa ở núi Thổ Ngõa.

Đế Khôi hiệu là Thần Nông, hóa tại Phụng Châu, sau cải táng đưa về chôn trong giếng huyện Đình Sở, Quốc Oai (núi Tiên Lữ, đất Cổ Pháp). Các cụ ông cụ bà đều được chôn ở đất ấy. Ngày giỗ mùng 6 tháng Sáu tại các đền thần, gọi là lễ Hạ điền. Các tiết trong năm như Thượng điền, Hạ điền, cơm mới đều làm lễ báo ơn đức trên toàn cõi Đông Á.

Hữu Sào, Toại Nhân vốn là bạn của Đế Viêm. Khi Hiên Viên làm phản gây loạn, hai vị dùng quân đánh thắng, đuổi Hiên Viên ra ngoài biên cương. Từ đó ông ta tự lập nước ở phương Bắc, tự xưng là Hoàng Đế, đóng đô tại Trường An. Từ đó Hiên Viên dựng nghiệp, giáo hóa chúng sinh, học điều hay làm nông tang, văn tự, luyện kim, nung gốm như nước Nam.

Hữu Sào, Toại Nhân nhiếp chính, trợ giúp Thần Nông giữ nước, giữ dân. Đến khi Thần Nông trưởng thành, lên ngôi là Thiên tử, đóng đô tại Phụng Châu, Long Môn, núi Trầm. Hai vị cáo lão về quê ở tại Sào Vực, chợ Thổ Long, huyện Chương Mỹ, hóa tại đất đó.

Bà mẹ nuôi là nàng Diệu Trinh cùng với ba vị vương tử, văn võ kiêm toàn, giúp Thần Nông bảo vệ vạn dân.

Đế Tiết sinh ở Phụng Châu, hóa ở Thanh Lãm, mộ tại Hoàng Anh Mộc, lễ chính ngày mùng 9 tháng Giêng. Các hoàng hậu, vương phi đều chôn cất tại đó.

Đế Thừa Sở Minh Công sinh tại núi Sở, nên có tên là Sở Minh Công, lên kế ngôi, đế hiệu là Đế Thừa, hóa tại núi Sở, Tiên La, bãi Thuần Lãm. Các hoàng hậu, hoàng phi đều an táng ở khu đó. Giỗ ngày mùng 1 tháng Sáu.

Đế Minh (con trưởng của Đế Thừa), húy là Nguyễn Minh Khiết (sinh tại đất chủ Tiên La tại Định Công, Hà Nội). Ngày giỗ là 12 tháng 2. Mộ chôn tại chân núi Định Công. Hoàng phi, mĩ nhân đều chôn ở khu đó.

Đế Minh lấy nàng Vụ Tiên. Bà sinh tại hồ Tây, hóa tại Phong Châu, chôn tại trong chùa Đại Bi, làng Ỷ La.

Đế Minh lấy thứ phi mà quên tình nàng Vụ Tiên. Bà cùng với 8 người anh em đến động Tiên Phi ở tỉnh Hòa Bình tu hành, giáo hóa chúng sinh. Đến khi Kinh Dương Vương trưởng thành kế ngôi, Vương đón Thánh mẫu trở về Phong Châu tu hành ở chùa Đại Lôi Âm. Bà sinh ngày mùng 8 tháng Tư, hóa ngày 15 tháng Bảy. Đời sau tôn húy là Hương Vân Cái Bồ tát, Sa Bà Giáo chủ, có công sáng lập đạo tên là Bà La Môn. Mộ tại Ỷ La, thành Đại La. Trong đạo Tiên tôn gọi là Thánh Mẫu Đệ Nhất Thiên Tiên, một bầu sinh ba thánh.

Đế Thừa Sở Minh Công sinh ba con trai:

Thứ nhất là Nguyễn Minh Khiết, húy là Đế Minh, làm Hoàng đế phương Nam.

Thứ hai là Nguyễn Nghi Nhân, làm Đế Nghi ở Trung quốc.

Thứ ba là Nguyễn Long Cảnh, hiệu Lý Lang Công Ba Long Đại vương, hóa tại thôn Nguyệt Ánh.

Từ cổ đến đó chỉ có 1 nước, nay phân làm 3 nước, tất có 3 vị vua, cho nên Kinh Dương Vương dùng ba chữ Vương hợp thành một chữ, tức là nước Xích Quảng. Đời sau gọi ba vị là Tam tòa Đức chúa ông. Đạo Tiên gọi là phủ – Tam phủ Công đồng.

(Dịch thep bản chụp chữ Nho từ ngọc phả họ Nguyễn ở tống Xốm Bình Đà)