Lão Tử hóa … Việt kinh

Dinh Tho Ha
Đình Thổ Hà – xã Vân Hà – Việt Yên – Bắc Giang

Bên bờ sông Cầu, quê hương của những làn điệu quan họ, di sản văn hóa thế giới, có một ngôi đình làng cổ nổi tiếng. Đình Thổ Hà đã có trong danh sách xếp hạng di tích của Viện Viễn Đông Bác Cổ từ thời Pháp. Đình này nổi bật bởi nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc rất tinh xảo của xứ Kinh Bắc. Có điều khi xem đến vị thành hoàng được thờ ở đây thì mới thực sự là điều bất ngờ. Thành hoàng làng Thổ Hà tên là … Lão Tử, Thái Thượng Lão Quân. Trích thần tích chép từ văn bia Cung sao sự tích thánh tại  đình:
Đời vua Thục An Dương Vương phả lục chép rằng có một vị đại vương cấp bậc Thượng đẳng thần thuộc bộ Càn Hào. Sau khi Hùng Vương thứ 18 mất ngôi, vua An Dương Vương nối ngôi. Có một người từ Bắc quốc đến đạo Kinh Bắc, phủ Bắc Hà, huyện An Việt và ở nhờ chùa Đoan Minh Tự của trang Thổ Hà. Ngày đêm giảng kinh đọc sách, có sức màu nhiệm như thần, trong trang có nhiều con em theo học.
Một hôm Người bảo học trò rằng: ta sinh ra từ thủa Hồng Mông, trời đất mới mở mang, cho nên ta thông minh khác thường. Năm xưa mẹ ta kể chuyện rằng: mẹ vốn là người từ bi, huyền diệu mà sinh ra, tên là Mỹ Thổ Hoàng. Có một đêm mẹ ta nằm mơ thấy nuốt một vì sao ngưu tinh, thế là mẹ có thai đủ 81 năm. Đến ngày 7 tháng giêng năm Canh Thìn nách tay phải của mẹ rung động rồi sinh ra ta. Khi ta mới ra đời đầu đã bạc, chân có chữ, ta không có bố, khi đẻ mẹ vịn vào cây mận cho nên lấy họ ta là Lý, tên là Lão Đam, tên chữ Lý Bá Dương, lại có tên là Thái Thượng.
Quanh vùng nơi ở của người không ai xảy ra tật bệnh, nên người trong trang thường bảo nhau rằng: đó là khí sinh thánh tổ, chẳng phải người thường, các nơi cũng đến xin làm thần tử. Từ đó danh vang thiên hạ, người đến theo học càng đông. Lúc bấy giờ trong nước có giặc Quỷ mũi đỏ, một vị quan thị hầu vua bị bệnh ngã nhào xuống đất và sau đó bệnh tật lan khắp mọi nơi, trong nước nhiều nơi mắc bệnh, người ốm người chết thiệt hại rất nhiều. Nhà vua vội truyền hịch đi các nơi: nếu ai trừ được giặc Quỷ vua sẽ gia phong tước lộc. Lão Tử liền vâng mệnh đến nơi có giặc Quỷ, người liền niệm chú rằng: “Đạo pháp bản vô đa, nam thần quán Bắc Hà, đô lai tam thất tự, tận diệt thế gian ma”. Đọc chú xong, Người lại thư phù vào gậy trúc và phóng đi bốn phương, các nơi đều yên ổn.
Quan địa phương tâu với triều đình, vua liền mời Lão Tử đến ban thưởng, mở tiệc khoản đãi và phong người là Đệ nhất nhân (người tài nhất). Lại cho ngài được hưởng thực ấp ở vùng An Việt huyện. Người bái tạ đức vua và trở về Thổ Hà trang. Về tới nơi Người liền cho xây dựng cung doanh trị sở. Khi xây xong Người cho mời các bô lão trong trang và tất cả học trò đến mở tiệc ăn mừng. Lúc sắp sửa ăn bỗng thấy đám mây năm sắc từ từ sa xuống đất, trong mây thấp thoáng có bóng người mặc áo đỏ, Lão Tử liền theo đám mây cưỡi rồng đỏ mà biến mất. Bấy giờ là năm Giáp Tý ngày 22 tháng 2 (đời vua An Dương Vương) Người đã hóa…
Mặc dù thần tích không hề nói Thái Thượng Lão Quân của làng Thổ Hà là Lão Tử nổi tiếng của Trung Hoa, nhưng tên của vị thành hoàng này hoàn toàn trùng với tên Lý Lão Đam – Lý Bá Dương. Lão Tử Trung Hoa lập công nghiệp rồi hóa thần ở Việt Nam, chuyện này phải giải thích sao đây?
Xem vào câu đối cổ trong đình Thổ Hà:
Đẳng Thích Già nhân tế quần sinh, phật pháp thiên cổ / thần tiên thiên cổ
Dữ Khổng thánh công thùy vạn thế, Xuân Thu nhất kinh / Đạo Đức nhất kinh.
Dịch:
Sánh Thích Ca nhân nghĩa giúp chúng sinh, phật pháp nghìn đời kiếp / thần tiên nghìn đời kiếp
Cùng Thánh Khổng công đức trùm vạn thế, Xuân Thu một bộ kinh / Đạo Đức một bộ kinh.
Câu đối này dùng hình thức trình bày khá hiếm gặp. Trong một vế đối có đoạn được tách làm 2 một cách song song. Hình thức và nội dung này nêu bật quan niệm Tam giáo đồng nguyên: Đạo giáo của Lão Tử, Nho giáo của Khổng Tử và Phật giáo của Thích Ca sánh cùng nhau, song hành trong dân gian.
Một câu đối khác:
Huyền tham Thích điển công tỉ Vô Sơn, Đạo Đức nhất kinh truyền chí bảo
Quyết bản Khương công thuật khai Hoàng Thạch, thần tiên chung cổ hiển linh tung.
Dịch:
Huyền diệu vào tích Thích Ca, công đức như núi Vô Sơn, Đạo Đức kinh một bộ truyền báu vật.
Phù quyết gốc từ Khương Công, pháp thuật mở tảng Đá Vàng, thần tiên tự cổ xưa sáng dấu linh.
Câu đối nói tới sự hiện diện của Lão Tử trong phật điển. Đây là truyện “Lão Tử hóa hồ kinh”, kể rằng Lão Tử sau khi xuất quan ải đã đi sang Ấn Độ mở đầu phật giáo ở đó. Chuyện “Lão Tử hóa hồ” đã là đề tài tranh cãi của hai phái Đạo và Phật trong nhiều thời đại.
Vế sau ở câu đối trên còn nêu một điển tích khác, nói tới pháp thuật của Khương Thái Công Lã Vọng, người giúp Chu Vũ Vương nên nghiệp thiên tử ngàn năm. Khương Thái Công sau lại hóa hình là Hoàng Thạch Công, truyền sách binh pháp cho Trương Lương phò trợ Lưu Bang lập nhà Hiếu (Sử ký).
Qua những câu đối trên thì không còn nghi ngờ gì nữa: vị thành hoàng thờ ở Thổ Hà chính là Lão Tử, người mở đầu Đạo giáo, viết Đạo Đức kinh, cùng Khổng Tử dựng nên nền văn hóa tín ngưỡng Trung Hoa xưa. Thực ra đình Thổ Hà không chỉ là đình của làng mà đây là nơi từng được xuân thu quốc tế, tức là Thái Thượng Lão Quân ở đây là một vị thần mang tầm quốc gia của các triều đại Việt Nam xưa.
Theo Hoa sử thì Lão Tử sống muộn lắm cũng là vào đầu thời Đông Chu (thời Xuân Thu). Nhà Chu bị Tần Chiêu Tương Vương diệt vào năm 256 TCN. Còn nhà Thục của Việt Nam theo sử sách chép sớm lắm cũng chỉ bắt đầu từ năm 257 TCN. Từ thời Xuân Thu tới thời Thục An Dương Vương có cả vài trăm năm. Vậy làm thế nào Lão Tử của nhà Chu lại có thể giúp vua Thục ở nước Việt trừ yêu dẹp quỉ được?

Nam VietDong Chu

Đông Chu phong vũ thị hà thì, biệt bả thanh hư khai đạo Giáo
Nam Việt sơn hà duy thử địa, độc truyền ảo hóa tác thần tiên.
Dịch:
Mưa gió Đông Chu đây một thời, riêng tay nắm chốn thanh hư, khai mở đạo Giáo
Núi sông Nam Việt chỉ đất đó, một mình truyền phép màu nhiệm, tạo tác thần tiên.
Vế đầu câu đối trên cho biết Lão Tử, người mở đạo Giáo sống vào thời “Đông Chu” của Hoa sử. Còn vế dưới lại nói rõ “Nam Việt” là nơi “duy thử địa”, vùng đất duy nhất mà Lão Tử đã hóa thần tiên. Kết hợp hai vế đối này thì chỉ có cách hiểu hợp lý duy nhất là: nhà Chu của Hoa sử chính là nhà Thục của Nam Việt. Chỉ có vậy mới có thể giải thích vì sao Lão Tử Trung Hoa lại có mặt trong một triều đại ở Việt Nam.
Xem lại tiểu sử của Lão Tử được chép trong Sử ký Tư Mã Thiên, nguyên văn như sau:
Lão tử giả, Sở Khổ huyện, Lệ hương, Khúc Nhân lý nhân dã. Tính Lý thị, danh Nhĩ, tự Bá Dương. Thụy viết Đam. Chu thủ tàng thất chi sử dã. Khổng tử thích Chu, tương vấn lễ ư Lão tử…
Thường được dịch là:
Lão Tử là người thôn Khúc Nhân, làng Lệ  huyện Khổ, nước Sở. Ngài họ Lý, tên Nhĩ, tự Bá Dương, thụy là Đam. Làm quản thủ thư viện nhà Chu. Khổng Tử đến Chu, hỏi Lão Tử về lễ…
Phần dịch trên đã không theo sát nguyên văn về quê hương của Lão Tử. Sử ký chép “Lão Tử người huyện Sở Khổ”, chứ không hề nói Lão Tử là người nước Sở. Đọc phần tiếp theo, Lão Tử “làm quản thủ thư viện nhà Chu”. Nhà Chu là thiên tử, là triều đại chính của thời Lão Tử nên trong đoạn văn không cần nêu “trong triều Chu” thì vẫn phải hiểu Lão Tử là người nước Chu, huyện Sở Khổ. Vì Lão Tử ở nước Chu nên Khổng Tử mới đến Chu tìm gặp.
Một sách khác là Lão Tử Minh chép về xuất xứ của Lão Tử, nguyên văn như sau:
Lão tử tính Lý, tự Bá Dương, Sở Tương huyện nhân dã. Xuân thu chi hậu, Chu phân vi nhị, xưng Đông, Tây quân. Tấn lục khanh chuyên chinh, dữ Tề Sở tịnh tiếm hiệu vi vương. Dĩ đại tính tiểu, Tương huyện hư hoang, kim thuộc Khổ. Cố thành do tại. Tại Lại hương chi đông oa thủy xứ kỳ dương, kỳ thổ địa uất ông cao tệ, nghi sinh hữu đức quân tử yên.
Dịch:
Lão Tử tính Lý, tự Bá Dương, người huyện Tương nước Sở. Sau thời Xuân thu, Chu triều chia làm hai gọi là Đông quân, Tây quân. Lục khanh nước Tấn tự ý động binh gây chinh chiến. Tấn cùng với Tề, Sở tự xưng vương. Nước lớn thôn tính nước nhỏ. Huyện Tương trở nên hoang vu, ngày nay thuộc Khổ. Thành lũy cũ nay hãy còn. Phía đông làng Lại có con sông chảy qua. Vùng này là một khu đất cao cỏ cây tươi tốt, dễ sinh ra một bậc thượng nhân tài đức.
Tương tự như Sử ký Tư Mã Thiên, Lão Tử Minh cũng không nói Lão Tử người “Sở quốc” mà nói Lão Tử người “Sở Tương huyện”. Câu tiếp theo ở xuất xứ này lại một lần nữa nói tới nhà Chu. Rõ ràng phải hiểu Lão Tử là người nước Chu ở huyện Sở Tương.
Đoạn trên trong Lão Tử Minh còn có nói “Sở tự xưng vương”, thế mà “huyện Tương” lại “trở nên hoang vu”? Nước Sở xưng vương thì huyện Tương nước Sở phải thịnh vượng mới đúng chứ sao lại trở nên hoang vu?… Huyện Tương hoang vu bởi vì huyện này không nằm ở Sở, mà nằm ở Chu.
Chữ Sở trong Sở Khổ hay Sở Tương huyện có thể chỉ là từ chỉ phương hướng: Sở = Sủy = Thủy = nước là tượng của phương Bắc ngày nay. Như vậy lai lịch của Lão Tử theo Sử kýLão Tử Minh trùng với thần tích của đình Thổ Hà về việc có một nhà hiền triết đến từ phương Bắc. Mạnh dạn hơn nữa, có thể Sở Khổ hay Thủy Khổ phiên thiết cho chữ Thổ, chính là Thổ Hà, tên làng thờ Lão Tử ngày nay. Làng này có con sông Cầu chảy qua đúng như sách Lão Tử Minh chép.
Câu đối ở đình Thổ Hà:
Do Chu ngật kim, nhất kinh truyền đạo đức
Tại hà chi tứ, vạn cổ chấn anh linh.
Dịch:
Từ thời Chu tới nay, một bộ kinh truyền đạo đức
Cạnh sông Cầu bên bến, chục ngàn đời chấn linh thiêng.
Về hàng trạng của Lão Tử trong Lão Tử Minh chép:
Lão tử vi Chu tử tàng thất sử. Đương U vương thời, tam xuyên thật chấn dĩ Hạ Ân chi quí, âm dương chi sự, giám dụ thời vương.
Dịch:
Lão Tử là quan coi thư viện nhà Chu. Thời U vương, vùng ba sông bị động đất. Lão Tử dựa vào những biến động của nhị khí âm dương về thời Hạ, Thương, để cảnh cáo nhà vua.
Nhà Chu có vùng Tam Xuyên (ba sông) như trong sách dẫn trên. Tam Xuyên là đất Đông Chu, nơi Tần Thủy Hoàng sau khi diệt Chu đã lập quận Tam Xuyên. Nhưng: Tam Xuyên = Tam Giang. Tên này còn lưu trong tên thánh Tam Giang, tức Trương Hống – Trương Hát, hai vị thần bên dòng sông Như Nguyệt, con sông chảy qua làng Thổ Hà.
Thần tích ở đình Thổ Hà về Lão Tử:
Vua (Thục An Dương Vương) xây thành (Cổ Loa) có những u hồn và tà ma quấy nhiễu, cứ xây xong lại đổ. Vua lo lắm, liền xa giá đến Thổ Hà trang cầu đảo. Chợt có thần nhân hiện lên bảo vua rằng: xin vua cứ hồi kinh, không lo ngại gì. Rồi Người sai Thanh giang sứ (tức thần Kim Quy) đến giúp, giết Bạch kê tinh trong núi Thất Diệu, lại đào được hài cốt Bạch kê đem đốt đi, từ đó yêu ma tan hết, lại đào thấy nhạc khí thời cổ (như chiêng trống đồng).
Có thể thấy truyền thuyết An Dương Vương xây thành Cổ Loa và cơn “địa chấn” lúc giao thời Tây – Đông Chu chỉ là một. Diễn biến việc này có thể như sau: Lão Tử sống vào cuối thời Tây Chu (Chu U Vương) sang tới đầu thời Đông Chu. Khi nhà Chu chuyển về phía Đông, tới vùng Tam Xuyên – Tam Giang, thì gặp trận động đất lớn. Thanh lang thành (Lạc Dương) bị rung chuyển. Lão Tử nhân đó nói là âm khí của thời Hạ Thương phát hại, nhằm răn khuyên thiên tử Chu. Truyền thuyết Việt chép thành vua Thục (vua Chủ) xây thành Cổ Loa bị đổ, phải nhờ Lão Tử phái Thanh Giang sứ giả (Thương sứ) tới giúp dẹp yêu quỉ thì thành mới xây được.

Cua vong

Cửa võng đình Thổ Hà

Câu đối ở cửa võng đình Thổ Hà:
Qui giải hiệu linh, Thất Diệu sơn trung truyền dịch quỉ
Long năng thừa hóa, ngũ vân trang hạ ký đăng tiên.
Dịch:
Rùa biết nghiệm linh thiêng, núi Thất Diệu truyền chuyện sai khiến quỉ
Rồng tài mau biến hóa, trang Ngũ Vân lưu tích bốc lên tiên.
Thần tích, câu đối trong dân gian Việt chính là những “bộ kinh” còn truyền thiên thu về lịch sử Hoa Việt chói ngời. Nhà Chu từ lúc Khương Thái Công câu cá bên sông … Tô Lịch,  Chu Vũ Vương cùng … Thánh Gióng đánh giặc Ân, tới Lão Tử người … “huyện Thổ Hà” khai mở Đạo giáo, Chu Bình Vương dời đô về Cổ Loa… Tất cả đều còn lưu trong bia đá, bia gạch, bia gỗ, bia giấy, bia miệng … ở Việt Nam.

Văn nhân góp ý:
Lão Tử là quan coi thư viện nhà Chu, kinh đô phía đông nhà Chu gọi là Đông đô. Đông đô là tên gọi khác của Hà thành … vì thế … mới có …
Đông Chu phong vũ thị hà thì, biệt bả thanh hư khai đạo Giáo
Nam Việt sơn hà duy thử địa, độc truyền ảo hóa tác thần tiên.

Dịch:
Mưa gió Đông Chu đây một thời, riêng tay nắm chốn thanh hư, khai mở đạo Giáo
Núi sông Nam Việt chỉ đất đó, một mình truyền phép màu nhiệm, tạo tác thần tiên.

Long mạch Tản Viên

Tản Viên Sơn Thánh (Sơn Tinh) được coi là vị đệ nhất phúc thần của nước Việt, đứng đầu trong tứ bất tử. Tương truyền rằng thần rất linh thiêng và ứng nghiệm. “Linh khí không thể lường được. Vượng khí đời nào hết” (Truyện núi Tản Viên – Lĩnh Nam chích quái). Ngọn núi Ba Vì hay núi Tản Viên của Sơn Tinh cũng được cho là nơi phát gốc long mạch cho kinh đô nước Việt… Vậy thần phép của Tản Viên Sơn Thánh là gì? Lần theo thần tích Việt và thần thoại Trung Hoa, sẽ cho câu trả lời về phép thần của Sơn Tinh và long mạch của núi Tản.
Quê hương và thời niên thiếu của Sơn Tinh
Theo các thần tích vùng Sơn Tây, Vĩnh Phú thì Tản Viên Sơn Thánh là người ở động Lăng Xương (Thanh Thủy – Phú Thọ ngày nay), tên là Nguyễn Tuấn (Nguyễn Tùng), con ông Nguyễn Cao Hạnh (Hành) và bà Đinh Thị Điêng (Đen). Khi lớn lên nhận bà Ma Thị Cao Sơn ở núi Ngọc Tản làm mẹ nuôi.

LangXuong

Đền Lăng Xương, nơi sinh ra Thánh Tản

Động Lăng Xương có thể là Lang Xương, trong đó Lang là Vua. Động Lăng Xương như vậy có nghĩa là nơi quê gốc của Vua. Vua ở đây chính là thần Tản Viên.
Mẹ đẻ của Nguyễn Tuấn là bà Đinh Thị Điêng hay Đen, còn gọi là Thái Vĩ. Đinh là hướng Tây. Đen là tên của sông Đà xưa. Đinh Thị Đen có nghĩa chỉ Thái bà (Thái Vĩ hay Thái Thủy) là người ở Tả ngạn sông Đà (dòng sông Đà ở quãng chân núi Ba Vì đổi hướng chảy lên phía Bắc, nên tả ngạn sông nằm ở phía Tây).
Bà mẹ nuôi Ma Thị Cao Sơn có lẽ cũng chỉ có nghĩa là Mẫu Thượng Ngàn vì: Ma = Má = Mẫu, Cao Sơn = Thượng Ngàn. Bà Ma Thị Cao Sơn ở Ba Vì được thờ như Mẫu thượng ngàn, là người cai quản núi Ba Vì trước khi “di chúc” lại cho Thánh Tản.
Long mạch Tản Viên
Tản Viên Sơn Thánh đã đi khắp nơi, dựng nhiều hành cung trên đất Việt. Hiện tại hệ thống các hành cung của Tản Viên còn lại gồm:
Thượng cung thần điện là đền Thượng, nằm trên đỉnh Tản của Ba Vì.
Tây Cung gồm đền Trung trên núi Chàng Rể và đền Hạ ở bờ hữu sông Đà, đối diện với quê Lăng Xương.
Nam Cung là đền Ao Vua.
Đông Cung là đền Và ở cạnh thị xã Sơn Tây, cạnh sông Hồng. Hội đền Và khi tổ chức còn có sự tham gia của làng Duy Bình, nơi có đền Dội ở đối diện bên kia bờ sông Hồng, tương truyền là nơi Thánh Tản đã lấy nước tắm bên sông.
Bắc Cung là đền Thính ở Tam Hồng – Yên Lạc – Vĩnh Phúc. Thính là đọc tránh âm của Thánh. Bắc Cung Thượng là đền Tranh ở Trung Nguyên – Yên Lạc – Vĩnh Phúc. Yên Lạc cũng là nơi có di chỉ khảo cổ Đồng Đậu, với tầng văn hóa từ thời Phùng Nguyên.
Theo thần tích đền Và thì cung Trung và cung Hạ (Tây Cung) là nơi cầu đảo, tế lễ. Đông Cung là nơi “nghe tâu bày các việc”. Bắc Cung là nơi nghỉ ngơi.
Tuy gọi là Đông – Tây – Nam – Bắc cung nhưng nếu nhìn trên bản đồ thì các cung này nằm gần như trên cùng một đường thẳng chạy theo hướng Đông Bắc – Tây Nam, cắt vuông góc với sông Hồng ở gần Sơn Tây.  Đây là cũng là hướng “tọa Cấn hướng Khôn”, hướng của đền Thượng như ghi trong thần tích đền Và.
Longtruong
Lĩnh Nam chích quái cho biết Sơn Tinh đã “làm một con đường thẳng như sợi dây từ Bạch Phiên Tân lên thẳng phía Nam núi Tản Viên tới động An Uyên”. Có thể thấy con đường này chính là từ bến thuyền trên sông Hồng cạnh Sơn Tây (nay là phà Mông Phụ – Vĩnh Thịnh), chạy thẳng lên đền Thượng theo hướng Đông Bắc – Tây Nam (hướng Cấn – Khôn).
Liệu việc bố trí “ngũ hành cung” theo một đường thẳng, với phương vị nhất định như vậy có phải chính là long mạch của núi Tản? Có phải đây chính là cây gậy thần của Sơn Tinh chặn ngang dòng sông Hồng để trị thủy? Trước các đền thờ Tản Viên người ta đều xây giả sơn và thờ ngũ hổ (ngũ hành). Sơn Tinh có thể là ông tổ của môn phong thủy địa lý học phương Đông.
Đế xuất hồ Chấn
Đông Cung Tản Viên nay là đền Và, ở làng Vân Già, cạnh thị xã Sơn Tây. Tương truyền khi Tản Viên đi qua đây thấy có đám mây che phủ, cho là điềm lành, nên dựng hành cung ở đây, gọi là Vân Già. Thực ra Vân Già chỉ là tên phiên thiết âm Nôm của từ Và mà thôi.
Đông Cung là nơi có cung điện chính, được chép là nơi Tản Viên “nghe tâu bày các việc”. Đền tới nay được dựng với hệ thống tượng như một triều đình. Như vậy thì rõ ràng Tản Viên đã lên ngôi vua. Đền Và = Vua = Vũ.
Nam Cung Tản Viên đóng tại Ao Vua. Thần Tản Viên được người Mường gọi là Bua Thơ hay Bua Ba Vì. Bua = Vua. Rõ ràng Tản Viên không phải chỉ dừng lại là con rể của Hùng Vương cuối cùng (thứ 18) mà chính là một vị vua Hùng, có tên là Vua=Vũ. Quê Tản Viên ở Lăng Xương hay Lang Xương cũng khẳng định thêm điều này. Vua Vũ Tản Viên đã dựng hành cung khắp nơi. Nếu Tản Viên chỉ là con rể vua Hùng thì đã không thể dựng nhiều hành cung như vậy.
Hoành phi ở đền Và:
XuathoChan
Xuất hồ Chấn
Và đôi câu đối ở nghi môn:
Đề vu Tây, hỗ trấn nguy nguy thiên bính thọ?
Xuất hồ Chấn, cố cung hách hách nhật đồng quang.
Những câu này lấy ý trong thuyết quái truyện của Kinh Dịch: “Đế xuất hồ Chấn”. Chấn là quẻ của phương Đông. “Xuất hồ Chấn” ý nói đế vương tại Đông Cung (đền Và). Thông tin này một lần nữa khẳng định Tản Viên đã là bậc đế vương, là một vị vua Hùng. Tản Viên chính là vua Vũ, là Đại Vũ trị thủy trong Hoa sử.
Tiên trượng ước thư
Theo thần tích đền Và, phép thuật của Tản Viên bắt đầu từ việc đi chặt cây trên núi Tản gặp Thái Bạch Thần Tinh, được truyền cho cây gậy thần đầu sinh đầu tử. Từ đó Nguyễn Tuấn xưng là Thần Sư, bắt đầu đi cứu dân độ thế. Bảo bối thứ hai của Thánh Tản bắt đầu từ việc cứu được con rắn thần, là con trai Long Vương ở Động Đình. Sau khi xuống thăm Long cung Tản Viên đã được tặng quyển sách ước. Tản Viên từ đó dùng gậy thần và sách ước đi khắp nơi, lấy được công chúa Ngọc Hoa, chiến thắng Thủy Tinh, đánh quân Thục,…
Hiện nay ở các cung điện cũ của thần Tản Viên đều có nhắc đến 2 bảo vật gậy thần sách ước trên. Câu đối ở đền Và (Đông Cung) ở thôn Vân Già, Sơn Tây:
Tiên trượng ước thư truyền dật sử
Đông cung Tây trấn ngật linh từ.
Dịch:
Gậy thần sách ước dã sử truyền
Cung Đông trấn Tây đền linh tỏ.
Hay câu đối khác cùng một ý tại đền Và:
Thần vi chi linh, địa vi chi linh, diệc nhân sùng vi chi linh, ngật nhĩ Đông cung Tây trấn
Sơn đắc kỳ thuật, thủy đắc kỳ thuật, túc kim dục đắc kỳ thuật, diêu hô tiên trượng ước thư.
Dịch:
Thần linh thiêng, đất linh thiêng, vĩ nhân linh thiêng, Cung Đông trấn Tây cao ngất
Núi thành thuật, sông thành thuật, đạo đức thành thuật, gậy thần sách ước diệu kỳ.

BacCungThuong

Bắc Cung Thượng – Đền Tranh

Câu đối khác ở chính điện đền Tranh:
Tây Tản di truyền, trúc trượng anh linh phù quốc thịnh
Bắc cung hiển thuật, sách ước thiểm? pháp độ dân an.
(? là những chữ Nho không đọc được)
So sánh với chuyện vua Vũ trong thần thoại Trung Hoa:
… Vũ đang đứng trên bờ quan sát sức mạnh của dòng nước thì thấy một ông già mặt trắng trẻo, mình cá, nhảy lên từ dòng sông … Ông già tự xưng là Hà Bá. Vị thần này cho Vũ một phiến đá to màu xanh… Đó chính là Hà Đồ”.
Rồi tiếp theo còn có chuyện Vũ gặp một con rắn thần ở trong hang, rắn dẫn Vũ tới gặp Phục Hy và Phục Hy trao cho Vũ một thanh Ngọc giản, có thể đo đạc được trời đất.
Có thể thấy chuyện Sơn Tinh được gậy thần sách ước và chuyện Đại Vũ được Hà đồ, Ngọc giản chỉ là một. “Ông già mặt trắng” có thể chính là Thái Bạch Thần Tinh. Thái Bạch = Thái Hạo (Hạo là sáng, bạch), cũng là tên khác của Phục Hy trong truyền thuyết. Phục Hy tương truyền có mình rắn. Phục Hy là người tìm ra Bát quái nên hoàn toàn có thể Phục Hy chính là Thái Bạch Tử Vi thần tướng. Phục Hy là vị thần chấn Đông nên cũng có thể là Long Vương Động Đình.
Theo truyện Dịch thì Phục Hy là người đã chép Hà đồ từ lưng con Long Mã (= con rồng, rắn thần). Còn vua Vũ vẽ Lạc Thư từ lưng con Thần Qui. Có thuyết khác lại cho rằng cả Hà đồ lẫn Lạc thư đều do Đại Vũ nghĩ ra. Dù thế nào thì rõ ràng phép thần của Tản Viên Sơn Thánh chính là Hà Lạc, được tiếp thụ từ tiền nhân và sáng tạo thêm trong quá trình trị thủy.
Sơn Tinh – Thủy Tinh
Trong các câu đối đã nêu tại Đông Cung có nói tới “Tây Trấn”, “đề vu Tây” (ở tại phương Tây). Tại sao lại là Tây? Lý do rất rõ: Tản Viên (Nguyễn Tuấn, Nguyễn Tùng) là Tốn Vương, Tốn là quẻ chỉ hướng Tây. Tản Viên Nguyễn Tuấn chính là vị Tuấn Lang (Hùng Việt) trong Hùng triều ngọc  phả.
Thủy Tinh là con trai Long Vương Động Đình, điều này cho thấy Động Đình chính là biển Đông ngày nay, chứ không phải đầm Vân Mộng ở Vân Nam. Hơn nữa cơn đại hồng thủy thời Sơn Tinh là một cơn đại hồng thủy biển, chứ không phải lũ lụt sông thông thường. Lĩnh Nam chích quái còn chép hướng tiến công của Thủy Tinh là “mở một dải sông Tiểu Hoàng Giang từ Lý Nhân ra Hát Giang, vào sông Đà Giang để đánh ập sau lưng núi Tản Viên” (Lý Nhân có thể là Nhân Lý, một làng ở gần thị xã Sơn Tây). Với hướng đi thế này thì cơn hồng thủy phải là đến từ biển Đông. Nước từ biển Đông dâng sang Sơn Tây của Tản Viên.
Sơn Tinh đánh Thủy Tinh tương ứng với Đại Vũ trị thủy. Theo thần thoại Trung Hoa thì Đại Vũ khi trị thủy đã đánh nhau với thần nước Cộng Công. Như vậy Cộng Công chính là Thủy Tinh trong truyền thuyết Việt.
Cộng Công quyết một phen sống mái với Vũ nên đã dâng nước lên cao, cao đến tận đất Không Tang”.
Không Tang phiên thiết cho từ Khang. Đất Không Tang chính là vùng Khang ấp của vua Vũ. Khang cũng là tính chất của phương Tây. Nói cách khác, Không Tang là vùng Sơn Tây, nơi xảy ra cuộc chiến giữa Sơn Tinh và Thủy Tinh. Khang Ấp chính là Tây Trấn – Sơn Tây, nơi có Đông Cung của vua Vũ (Và).

Nghimon-1
Nghi môn đền Và

Người lạ dùng ảo thuật ở Gia Ninh
Lĩnh Nam chích quái, truyện núi Tản Viên: “đại vương Sơn Tinh họ Nguyễn, cùng vui với các loài thủy tộc ở đất Gia Ninh, huyện Phong Châu”.
Việt sử lược về sự thành lập của nước Văn Lang: “Đến thời Trang Vương nhà Chu ở bộ Gia Ninh có người lạ, dùng ảo thuật áp phục được các bộ lạc, tự xưng là Hùng Vương, đóng đô ở Văn Lang, hiệu là nước Văn Lang, phong tục thuần hậu chất phác, chính sự dùng lối kết nút. Truyền được 18 đời đều gọi là Hùng Vương.”
Tới đây ta hiểu, “người lạ dùng ảo thuật ở bộ Gia Ninh” đã áp phục các bộ lạc chính là Tản Viên Sơn Thánh, người đã tập hợp nhân dân Việt trong cuộc đấu tranh chống nạn hồng thủy. Phép “ảo thuật” ở đây không gì khác là Hà đồ và Lạc thư, là Dịch học của người họ Hùng. Quốc tổ họ Hùng không phải là một thầy phù thủy, mà là một nhà khoa học vào thủa bình minh của dân tộc.
Tản Viên Sơn Thánh là người đã dựng nghiệp họ Hùng của dân Việt từ việc trị thủy an dân thắng lợi, là Hùng Việt Tuấn Lang trong Hùng triều ngọc phả, là Đại Vũ, người lập nên nhà Hạ, mở đầu thời kỳ lịch sử của người Hoa Việt trên 4000 năm trước.

Bát Hải Động Đình

Trong tín ngưỡng Đạo giáo ở Việt Nam có một vị thần khá đặc biệt là vua cha Bát Hải Động Đình. Đền thờ vị thần này tới nay còn lưu lại ở nhiều nơi như đền Đồng Bằng ở Thái Bình:

Bát Hải Động Đình là vua cha của nhiều vị thần khác trong đạo giáo:
– Quan lớn đệ nhị thượng ngàn, là con thứ hai của vua cha Bát Hải Động Đình, cai quản miền núi.
– Đệ tam thoải phủ, là con thứ ba. Đây cũng là Mẫu Thoải, là thủy thần.
– Đệ ngũ Tuần tranh, con thứ năm, bị lưu đày và thờ ở đền Kỳ Cùng Lạng Sơn.
– Ông hoàng Mười ở Nghệ An.
Tất cả những vị thần Đạo giáo này đều là từ thời Hùng Vương. Như vậy thì Đạo giáo ở Việt Nam đã chẳng phái có từ lâu, trước khi bị 1000 năm Bắc thuộc hay sao?

Bát Hải Động Đình cho thấy rõ Động Đình là vùng biển chứ không phải hồ. Bát là 8, con số chỉ phương Đông trong Hà thư. Bát Hải tức là … biển Đông. Bát Hải Động Đình cho thấy rõ Động Đình là biển Đông của nước ta, chứ chẳng phải đầm Vân Mộng ở Hồ Nam bên Tàu.
Vua cha Bát Hải Động Đình như thế cũng chính là Thần Long Động Đình, người sinh ra con gái, cưới Kinh Dương Vương trong truyền thuyết. Nói cách khác đây là “ông ngoại” của Lạc Long Quân, hay là dòng máu “ngoại” của dân Bách Việt.

Có nơi còn gọi là Bạt Hải Long Vương, như ở đền thờ tại Tiên Lãng Hải Phòng. Bát hay Bạt chỉ là hai cách ghi âm khác nhau. Nhưng có lẽ bất ngờ hơn khi biết Bạt Hải chính là … Bột Hải trong cổ sử. Đền thờ Cao Lỗ, vị tướng của Thục An Dương Vương ở Nho Lâm Diễn Thọ (Nghệ An) ghi rõ họ Cao xuất xứ từ Bột Hải, với bức hoành phi “Bột Hải triều Nam” và nhiều câu đối trong đền như:
Vạn cổ anh linh nguyên Bột Hải
Ức niên miếu mạo đối Cao Sơn
Bột Hải triều Nam thì không thể còn có chỗ nào khác là biển Đông của nước ta.

Việc xác định Bột Hải là Bạt Hải – biển Đông – Động Đình cho thấy các đảo Bồng Lai, Doanh Châu trong Hoa sử nằm ở rìa Đông Bột Hải, tức là danh thắng Vịnh Hạ Long nước ta. Tần Thủy Hoàng phái Từ Phúc đi tìm chốn Bồng Lai cũng là đi ra biển Đông. Tất cả cho thấy… Hoa sử bắt đầu từ chính vùng ven biển Đông Việt Nam, đúng với truyền thuyết Việt Kinh Dương Vương lấy con gái Thần Long Động Đình và Lạc Long quân dẫn 50 người con mở mang thủy phủ Nam minh về phía Đông Nam…

Văn nhân góp ý:
Trong tâm thức người Á đông RỒNG là 1 biểu tượng cực kỳ hùng vỹ , mỗi lần rồng hiện là rung chuyển trời đất , sóng gào gió thét …, hình tượng rồng không thể tách rời môi trường của Rồng là biển cả , trong tứ linh Long-Ly-Quy-Phụng thì Rồng trấn phương Đông …ghép 2 thông tin biển cả và phương đông ta được ‘biển đông’…thực vậy chỉ ‘biển Đông’ mới xứng đáng với tầm cỡ của Rồng – Long.
Long cung của Long vương không thể nào xây ở cái đầm nước ngọt nông tèn tẹt chỉ vài ba thước nước như ở đầm Vân mộng được vì vậy họ Thần Long Động đình của Long mẫu là tổ mẫu của người Việt không thể sống ở vùng Hồ nam Trung quốc ngày nay.
Thông tin về họ Thần long ở động đình hồ đã mặc nhiên khẳng định Động đình hồ không phải
là cái đầm nước ngọt mang tên Vân Mộng ở Hồ nam , chỉ có biển Đông mới xứng với họ Thần long do đó Động đình hồ … chốn cội nguồn của   người họ Hùng nay là người Việt chỉ có thể là miền đất nằm bên bờ Biển đông chứ không thể là bất kỳ nơi nào khác .