Thần tích xã Ngô Cương, tổng Nhân Hữu, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh
Ngọc phả cổ chép về một vị Đại vương chính triều Triệu Vũ Vương phối thờ với một vị Đại vương (chi Cấn, bộ Thượng đẳng). Chính bản Quốc triều bộ Lễ.
Xưa Hùng Vương Sơn Nguyên Thánh Tổ khởi vận cơ đồ, hơn hai mươi [ngàn] năm Hùng Vương dựng nước. Núi xanh vạn dặm sáng lập nền móng cung điện kinh đô. Nước biếc một dòng khởi đạo đế thánh vương sáng mà cứu vật giúp nngười, thống quản 15 bộ, gọi là vị tổ ban đầu của Bách Việt. Có thơ rằng:
Sơ khai Nam Việt tự Kinh Dương
Nhất thống sơn hà thập bát vương
Thập bát thế truyền thiên cổ tại
Ức niên hương hoả ức niên phương.
Lại nói, khi cơ đồ họ Hùng 18 nhánh truyền tới thời Duệ Vương ngự trị, đóng đô ở sông Bạch Hạc Việt Trì, dựng nước tên gọi Văn Lang, quốc đô là thành Phong Châu. Vua có đại lược hùng tài, tư chất thánh triết, kế thừa tổ mở tông thêm, 17 đời cơ đồ thịnh thế. Trong sửa văn đức, ngoài phòng biên cương, cố sức hưng bình mà yên Trung Quốc.
Khi đó có một gia đình ông họ Triệu tên Hiển, vợ là Tạ Thị Hinh, thi lễ gia truyền, trâm anh kế thế, cùng là môn đăng hộ đối. Vợ chồng ông một lòng có đức hậu, việc thiện nhỏ cũng làm, không làm ra chút điều ác hại người, không vì lợi ích nào mà có lòng ích kỷ riêng cho mình. Mọi người nơi ấy đều cho là gia đình có nhiều thiện đức, tất sẽ gặp được điều vui lành.
Khi ông đã gần 60, bà Tạ Thị hơn 40 tuổi, mà con trai chưa thấy. Một tối bà Tạ Thị nằm ở trong nhà, đến cuối canh ba thì mơ màng nằm mộng, bỗng thấy một ánh hào quang sao rơi từ trên trời xuống thẳng vào người bà Tạ Thị. Bà bèn ôm lấy mà nuốt đi. Thấy sợ hãi mà tỉnh ra, kể lại chuyện. Ông nói: – Tất đó là điềm tốt lành.
Từ đó bà Tạ Thị thấy trong người có mang. Khi đó (ngày mồng 3 tháng 10 năm Nhâm Thìn) sinh được một người con trai, tư chất lạ kỳ, thể mạo khôi ngô. Ông nói: – Phúc lại càng phúc, đây là được nhận trời ban phúc lớn. Bèn đặt tên là Đà.
Mười tuổi thì đi học. Đến 16 tuổi tư chất cao trội, lực học tinh thông, đức độ hơn người, văn võ toàn tài. Đến khi Ông 12 tuổi thì cha mẹ đều mất. Ông bèn tìm đất tốt làm lễ an táng, trong nhà hương khói thờ phụng theo nghi lễ. Ba năm an táng xong mỗi ra làm quan cho Tần chức lệnh đất Long Châu, thuộc trong quân nhà Tần.
Đến khi đó Duệ Vương tuổi trời đã cao mà 20 hoàng tử đều đã theo nhau về nơi cảnh tiên, không còn dấu vết, không có người để lập nối ngôi. Nên có Thục chúa tên Phán chiếm nước xưng vương. Được hơn 50 năm tạo điều bạo ngược trong dân chúng. Trời giận dân oán.
Thế là Ngài trong lòng rất phẫn nộ, chỉnh đốn quân binh trăm vạn, ngựa khỏe ba ngàn, chia làm 5 đạo. Một đạo theo đường núi Thập Châu, Hoàng Tùng, Quỳnh Nhai mà ra. Một đạo theo đường hai châu Tuyên Quang, Tụ Long mà ra. Một đạo theo đường Lạng Sơn, Thái Nguyên, Kinh Bắc mà ra. Một đạo theo đường châu Minh Linh, Bố Chính mà ra. Một đạo theo cửa Hội Thống, Hoan Châu mà ra. Quân thủy bộ cùng tiến, tiếng quân vang dội.
Hôm đó Ngài tự dẫn quân tiến đến đạo Kinh Bắc (xưa gọi là quận Vũ Ninh), huyện Gia Định, phủ Thuận An, đi đến khu Ngô Cương trang Bùng Trì thì hiệp đồng đóng quân ở đó. Thấy ở đó có một cuộc núi sông bao bọc, rồng hổ cuộn ôm. Núi không cao mà bãi rộng. Sông nước hữu tình, tiện nghi, thấy cũng là một nơi quang cảnh đẹp vậy. Ngài bèn truyền quân sĩ cùng nhân dân lập một đồn trại ở đây để sau này chống quân Thục.
Do đó, phụ lão, nhân dân khu Ngô Cương trang Bùng Trì đều sợ mà làm lễ xin làm thần tử. Nhân đó xin nơi nay là đồn sở, sau xin được làm nơi thờ phụng. Ngài đồng ý, tặng cho 15 nén vàng để sau này mua thêm ruộng lúa dùng cho việc cúng tế.
Tối hôm đó đến cuối canh ba Ngài đang nằm mơ màng bỗng thấy có một lão ông, quần áo chỉnh tề, hình thù cổ quái, từ con đường bên mà đến, tự xưng:
Thần vốn là thần bản cảnh, tên Cường Bạo. Nay thấy vua dẫn quân dẹp Thục, muốn lại yết kiến, tự xin được âm phù giúp. Ngày sau xin được phối thờ.
Nói xong thì biến mất. Một lúc thì Ngài tỉnh lại mới biết là thần nhân ứng mộng trợ giúp. Thục chúa tất sẽ dẹp được. Sáng hôm sau Ngài lập đàn tế cáo trời đất cùng các linh thần, mổ trâu khao đãi quân sĩ và nhân dân. Cho gọi các vị phụ lão đến nói:
Ta sau này khi trăm tuổi, mỗi khi cúng tế hãy phối tế cùng với linh thần bản cảnh.
Sáng hôm đó bỗng thấy giặc Thục trùng trùng điệp điệp bốn mặt tiến đến. Ngài vị giặc Thục vây hãm, rất nguy khốn. Ngài mới ngửa mặt lên trời khóc và chúc rằng:
Hôm nay ta sẽ phải chết ở nơi đây sao?
Bỗng nhiên trên không thấy mây mù nổi lên, trời đất u ám, ban ngày như đêm. Ở giữa lại thấy có một đám mây đỏ từ trên trời hạ thẳng xuống nơi đồn quân. Ngài cùng các gia thần tướng sĩ vài trăm đội phấn chấn hô to:
Đám mây đỏ này giúp chúng ta rồi.
Bèn tập hợp quân sĩ lại chống trả. Một trận phá được vòng vây, chém được tướng giặc cùng các tì tướng vài ngàn tên, thu được vô số khí giới, lương thực, ngựa. Quay lại nhìn các quân sĩ thì đám mây đã không biết ở nơi nào nữa. Ngài than rằng:
Sinh mệnh của ta đều ở đây. Nay ta có thể phá Thục cũng lại là nhờ đám mây đỏ trợ giúp.
Thế rồi vua khải hoàn trở về kinh, lên ngôi hoàng đế, khao đãi các cấp tướng sĩ. Lai sai rời đô về Phiên Ngu, lập nước năm đầu. Thiên hạ thanh bình, trong nước vô sự.
Khi đó đang mùa xuân trăng sáng, Đế ngự ở cung rồng, thấy có một con rắn vàng quấn quanh ở cung rồng. Hai ban văn võ giúp vua hoảng sợ rạp xuống. Bỗng nhiên trời đất nổi lên một đám mây vàng hình như sợi thừng đỏ, từ trên trời hạ thẳng xuống sân rồng. Thấy thân Hoàng đế bay ra ngoài lầu thành, ngay khi đó thì hóa. Hôm ấy là ngày 15 tháng Giêng.
Thế rồi Thái tử lên ngôi xưng vương, phụng sắc tiến phong cho các nơi thần tử đều đón mĩ tự về nơi tứ dân lập miếu thờ.
Phong Chấn Nam Triệu Đà Phân phi Hùng hào Thần [vũ] Đại vương;
Phong Bản cảnh thành hoàng Thông minh Hộ quốc Cường Bạo Bảo an Trí dũng Đại vương.
Các sắc phục màu vàng, đỏ khi làm lễ đều cấm. Cho phép Ngô Cương trang Bùng Trì thờ.
Cho đến thời vua Lê Đại Hành niên hiệu Thiên Phúc xem xét trăm thần, thấy sự linh hiển đó bèn phong thêm mĩ tự một vị là Thông đạt Đại vương, gia phong một vị là Ngưu hưng chi thần.
Lại nói, từ đó về sau có nhiều linh ứng nên có nhiều đế vương gia phong mĩ tự Cho đến thời Trần Thái Tông có giặc Nguyên đến xâm chiếm, kinh thành vị vây hãm. Trần Quốc Tuấn vâng mệnh cầu đảo bách thần ở các đền. Hai vị có hiển ứng âm phù cho Thái Tông, bèn bao phong mĩ tự là Linh anh Triết hiển.
Cho đến khi Lê Thái Tổ khởi nghĩa dẹp giặc Minh Liễu Thăng, yên được thiên hạ, Thái Tổ bèn gia phong mĩ tự Phổ tế Cương nghị Anh linh, sắc ban cho khu Ngô Cương trang Bùng Trì trùng tu miếu điện để thờ mãi như vậy. Tốt thay!
Đồng ý cho khu Ngô Cương thờ (ba chữ Đà, Cường, Bạo đều cấm).
Ngày sinh 13 tháng 3 là chính lễ, dùng trên chay bàn phẩm quả, dưới là trâu, lợn, xôi, rượu, bánh dày bánh chưng, ca hát vui chơi 10 ngày thì ngừng.
Chính lễ ngày hóa là 15 tháng Giêng, lễ dùng như trên.
Niên hiệu Hồng Phúc thứ nhất, đầu xuân ngày tốt, Hàn lâm viện Đông các Đại học sĩ, thần, Nguyễn Bính phụng soạn bản chính.
Niên hiệu Vĩnh Hựu năm thứ 6, giữa thu ngày tốt, nội các bộ Lại vâng theo bản cũ.
Vị trí làng Ngô Cương, Bùng Trì, Gia Định, Bắc Ninh.
Thần tích làng Tiên Cát, Việt Trì, Phú Thọ là một bản thần tích đặc biệt, khác với những thần tích hay gặp khác vì nó không phải được biên soạn bởi các vị quan của triều đình, mà là tư liệu được ghi chép và lưu giữ bởi những người dân ở địa phương tại vùng đất tổ Phong Châu. Trong thần tích Tiên Cát có rất nhiều chi tiết về thời kỳ Kinh Dương Vương – Hùng Vương và có lẽ đây chính là tư liệu gốc cho việc biên soạn các bản ngọc phả Hùng Vương sau này. Đây cũng là một bằng chứng rõ ràng cho việc các truyền tích Hùng Vương đã được lưu truyền rất lâu từ trước thời Lê.
Thần tích Tiên Cát mở đầu: Xưa Kinh Dương Vương vâng lệnh dẫn các tướng dời đến núi Nam Miên trấn giữ, chọn nơi hình thế thắng địa có để lập đô ấp, mới tới đất Hoan Châu (nay là xứ Nghệ An). Vua ngắm xem hình thế, thấy được một vùng có quý cuộc như lâu đài muôn nhẫn, tên là núi Hùng Bảo Thứu Lĩnh, tất cả có 199 núi, tụ họp ở cửa Hội Thống ven giáp biển. Núi chạy quanh co, sông chảy uốn khúc, địa thế rồng cuộn hổ ngồi, bốn hướng cùng trông. Vua bèn xây dựng đô thành làm nơi cho bốn phương triều cống Nam Bang.
Nước ta bắt đầu được dựng nước từ vùng Nghệ Tĩnh, nơi có núi Hồng Lĩnh, được truyền thuyết gọi là Thứu Lĩnh, gần cửa biển Hội Thống. Vị Kinh Dương Vương đầu tiên đã mở nước và đóng đô tại đây.
Thần tích Tiên Cát kể tiếp: Ngày sau Vua lại đi tuần thú, rong ruổi xem khắp các nơi sông núi, đến xứ Sơn Tây thấy một nơi địa hình trùng điệp, sông chung núi đúc. Vua bèn thân ngự giá lên núi, tìm mạch đất, nhận thấy khí mạch từ núi Côn Lôn xuất ra, qua Ải Môn rốn nước thoát mạch, rồng dẫn đi xa, thế rõ từ núi Tụ Long liền tới châu Thu Vật xứ Tuyên Quang, biến ra toà kim tinh cao muôn nhẫn. Mạch đất chạy tới phủ Lâm Thao, Hạ Hòa, Thanh Ba, Sơn Vi, Tây Lan, Phù Khang, đến chùa Hoa Long, thôn Việt Trì ở ngã ba sông Bạch Hạc….
Nhìn thấy tất cả hình thế ấy, Vua nhận ra thế cục của đất quý đẹp hơn đô thành cũ Hoan Châu, bèn lập chính điện ở núi Nghĩa Lĩnh. Vua thường ngự giá đến ở. Bên ngoài lại lập dựng đô thành Phong Châu, lập nước tên là Văn Lang.
Vị Kinh Dương Vương đi tuần thú rồi mở kinh đô tại Phong Châu trên núi Nghĩa Lĩnh thì phải là Đế Minh. Truyện Họ Hồng Bàng cho biết: Đế Minh cháu ba đời Viêm Đế Thần Nông sinh ra Đế Nghi, nhân đi tuần về phía Nam đến núi Ngũ Lĩnh mừng gặp và lấy được con gái bà Vụ Tiên rồi trở về, sinh ra Lộc Tục. Lộc Tục mặt mày sáng sủa, thông minh phúc hậu, Đế Minh rất lấy làm lạ, muốn cho nối ngôi mình. Lộc Tục cố từ, xin nhường cho anh là Đế Nghi. Đế Minh liền lập Đế Nghi làm người nối ngôi cai trị đất phương Bắc, phong cho Lộc Tục làm Kinh Dương Vương để cai trị đất phương Nam, lấy hiệu nước là Xích Quỷ.
Ý nghĩa của đoạn truyện mở nước này là Đế Minh đã hình thành nên một vùng thiên hạ vạn bang với kinh đô đóng ở 2 đầu Nam Bắc. Thời kỳ mở nước Hồng Bàng có 2 phần là Lạc và Hồng (tức Nam và Bắc) với 2 kinh đô là Nghĩa Lĩnh và Thứu Lĩnh, do 2 vị vua chủ trị là Lộc Tục ở đất Lạc và Đế Nghi ở đất Hồng. Đất nước ban đầu được mở theo trục Bắc Nam.
Trong thần tích Tiên Cát, Kinh Dương Vương đã căn dặn con cháu: Ta từng xem được địa hình Sơn Tây có một chỗ ở núi Nghĩa Lĩnh, ngàn núi quy phục, vạn sông chầu tôn, tất có trăm đời đế vương, sau có thần tiên bất tử, do đó đã thiết lập thành đô quý Phong Châu, lại tạo cung Tiên Cát để bố trí nàng Thứ phi tại đó, cũng biết Ngọc nương có tiên cốt, không phải trần phàm. Đất đó tuy là khu nhỏ ở bên sông nhưng do trời đất an bài, núi sông thông đường, cũng đều là đất quý, không phải tầm thường, để làm quốc bảo (tức cung Tiên Cát, sau đổi thành trang Tiên Cát). Con cháu hãy gìn giữ, làm cảnh thủy phủ tiên cung. Chớ làm sai rời đất đó. Để giúp mạch nước được bền lâu.
Đế Nghi là dòng chính thống của Đế Minh, nên tiếp nối cai quản ở vùng Cựu đô Ngàn Hống trên núi Thứu Lĩnh (dãy Hồng Lĩnh – vùng đất Hồng). Lộc Tục (Lạc tộc) là dòng bà Vụ Tiên, được thần tích Tiên Cát kể là bà Thứ phi của Kinh Dương Vương (Đế Minh), xuất xứ từ vùng miền núi châu Đại Man. Bà Thứ phi là dòng Tiên tộc (tức là dòng trên núi, chữ Tiên là người ở trên núi) nên nơi bà ở và được thờ mang tên là đền Tiên.
Câu kể thường gặp trong các thần tích: “Hoan Châu thắng địa kiến lập kinh đô. Nghĩa Lĩnh hình cường trùng tu miếu điện” diễn tả đúng quá trình mở nước theo hướng Nam Bắc của họ Hồng Bàng.
Thần tích Tiên Cát kể:
Bấy giờ khí xuân ấm áp, vô vàn cảnh sắc. Vua bản tính thích phong thuỷ bèn lên thuyền ngự tuần du ngoài biển, đi xem núi sông, trải xem hình đất nước, lạc ra ngoài biển. Bất giác thấy thuyền rồng đã thẳng đến xứ hồ Động Đình. Vua sai dừng thuyền, đứng lên xem, chợt thấy một người con gái lưng eo xinh đẹp, dung nhan tuyệt sắc, từ dưới đáy nước đi đến. Thật là một cuộc hội ngộ hiếm có xưa nay. Vua bèn sai chèo thuyền đến gần. Vua nói: – Tiên nữ đẹp quá, từ đâu đến đây? Thiếu nữ đáp: – Thiếp tên là Thần Long, chính là con gái Động Đình Quân, ở trong thâm cung cửa ngọc, từ lâu đợi bậc anh hùng. Nay trời cho được gặp gỡ, nguyện được theo phụng hầu khăn túi. Vua vui mừng đẹp ý, bèn dắt vào trong thuyền rồng. Vua cùng người con gái quay giá trở về thành đô, lập Thần Long làm chính cung.
Nước Hồng Lạc sau khi phát triển theo trục Nam Bắc thì chuyển sang giai đoạn mở rộng theo hướng Đông Tây, mà được đánh dấu bằng sự kiện Kinh Dương Vương lấy Thần Long Động Đình. Động Đình là vùng sông nước ven biển phía Đông, do một bộ tộc cư trú gọi là Long tộc. Kinh Dương Vương lúc này là Tản Viên Sơn Thánh đã kết duyên cùng với Thủy Tinh Động Đình, mở rộng dòng giống Lạc Hồng theo hướng tiến về phía Đông.
Tản Viên Sơn Thánh là vị chủ trị vùng Sơn Tây thì đã rõ. Bản thân chữ Tản là tính chất của quẻ Tốn, chỉ hướng Tây. Còn vị vua cai quản miền sông nước phía Đông chính là Lạc Long Quân, người con của Kinh Dương Vương và Thần Long Động Đình. Long Quân được ghi là hóa sinh về biển làm Động Đình Đế Quân.
Đền Tiên Cát cũng thể hiện sự kết hợp của 2 dòng sông và núi, thể hiện ở việc Ngọc Tiên nương (Thứ phi của Kinh Dương Vương) kết nghĩa với 2 người con gái thủy phủ Long cung là Thủy Tinh và Bạch Hoa nương. Lạc Long Quân sau này còn cử thêm 3 hoàng tử trong dòng thủy phủ là Cự Linh, Ất Linh và Thông Thủy Long vương đến hộ giá các vị tiên nương ở cung Tiên Cát.
Như thế, cho tới Lạc Long Quân, người Việt họ Hồng Bàng đã hoàn thành thời mở nước họ Hùng về 4 hướng qua các triều đại Kinh Dương Vương ban đầu là:
Đế Minh, vị Hùng Vương đầu tiên, được thờ ở đền Hùng là Đột Ngột Cao Sơn Thánh Vương, là vị Thái tổ khai sinh họ Hồng Bàng.
Đế Nghi, vị vua Hùng thứ hai, được thờ ở đền Hùng là Viễn Sơn Thánh Vương. Kinh đô chính ở Thứu Lĩnh trên đất Hồng phương Bắc xưa.
Lộc Tục, vị vua Hùng thứ ba, được thờ ở đền Hùng là Ất Sơn Thánh Vương. Lộc Tục là dòng Tiên tộc ở phương Nam xưa, kinh đô đóng tại núi Nghĩa Lĩnh, vùng đất Lạc.
Tản Viên Sơn Thánh, vị vua Hùng thứ tư, thường được gọi là Kinh Dương Vương, chủ trị miền rừng núi phía Tây.
Lạc Long Quân, vị vua Hùng thứ năm, chủ trị miền sông nước Động Đình ở phía Đông.
Thần tích Tiên Cát cho biết, Hùng Vương từ Kinh Dương Vương trải 18 đời tới Hùng Duệ Vương thì nhường ngôi cho Thục Vương. Thục Vương khi đó đã rời đô về Cổ Loa, còn đất Phong Châu trở thành nơi sinh sống của nhân dân. Tới thời mạt Trần, họ Hồ tranh quyền, kéo đến bãi đá bên sông cạnh đền Tiên Cát, cho cưa phá những voi đá, ngựa đá chầu về núi tổ tại đây, chạm vào địa mạch linh thiêng từ thời Kinh Dương Vương. Hổ báo, kinh nghê đều nổi giận, tiến vào đất Tiên Cát mà giết đuổi quân nhà Hồ… Chi tiết này cho thấy những di tích bằng đá về Kinh Dương Vương và Hùng Vương đã hiện hữu ít nhất là trước thời nhà Hồ. Chắc chắn các tư liệu ghi chép và di tích thờ phụng Hùng Vương đã có từ rất sớm.
5 vị Kinh Dương Vương mở nước họ Hùng đầu tiên ở 5 phương, khởi đầu cho các nhóm tộc người Bách Việt sau này. Tản Viên Sơn Thánh là Nam Thiên Thánh tổ của Lạc tộc, tức là nhóm người Kinh Mường. Long Quân là Vua cha của Long tộc, sau này là nhóm Tày Thái. Đế Nghi là tổ của Viêm tộc phương Bắc xưa (Nam nay), sau là người La Lồi hay người Chiêm Hồ. Lộc Tục dòng bà Vụ Tiên là tổ của nhóm Miêu tộc, tức người Miêu Dao sau này. Một nhánh dòng Đế Minh là Đế Lai do cuộc tranh chấp với Lạc Long Quân đã phải chạy về phía Tây, sau là người Di Lão hay người Âu (trong Âu Cơ, Âu Lạc).
Ngũ tộc thời lập quốc họ Hùng đã bao trùm đầy đủ các nhóm tộc người của vùng Đông Nam Á. Cho nên vua Hùng là tổ của Bách Việt là chính xác. Thần tích chép: “Đời đời cha truyền con nối, đều xưng là Hùng, ngọc lụa xe sách núi sông thống nhất, chính là thủy tổ Bách Việt“.
Thần tích Tiên Cát cũng cho biết ý nghĩa của ngày giỗ tổ Hùng Vương vào tháng 3 âm lịch. Mùa xuân ngày 12 tháng 3 bỗng thấy trên trời một tiếng sấm nổ vang rền, giữa trùng sóng nước đều trở nên mờ mịt. Trăm vương tự nhiên cùng hóa (trước cùng sinh một bầu trăm trứng, nở ra trăm người, sau cũng cùng hóa, đều tại đầu núi Nghĩa Lĩnh vậy. 50 người con theo mẹ lên núi làm sơn thần. 50 người con theo cha xuống nước làm thủy thần, đều tại đây).
Trăm người con trai họ Hùng đã đồng sinh cùng bọc đồng bào và đồng hóa vào ngày 12 tháng 3. Ngày tháng 3 này chính là ngày giỗ tổ của trăm họ Bách Việt, gồm cả 5 nhóm tộc người đã nói ở trên. Giỗ tổ Hùng Vương không phải chỉ là giỗ tổ người Kinh hay người Mường, mà của trăm tộc người trên mảnh đất Việt, Đông Nam Á và Nam Trung Hoa.
Xưa Kinh Dương Vương vâng lệnh dẫn các tướng dời đến núi Nam Miên trấn giữ, chọn nơi hình thế thắng địa có để lập đô ấp, mới tới đất Hoan Châu (nay là xứ Nghệ An). Vua ngắm xem hình thế, thấy được một vùng có quý cuộc như lâu đài muôn nhẫn, tên là núi Hùng Bảo Thứu Lĩnh, tất cả có 199 núi, tụ họp ở cửa Hội Thống ven giáp biển. Núi chạy quanh co, sông chảy uốn khúc, địa thế rồng cuộn hổ ngồi, bốn hướng cùng trông. Vua bèn xây dựng đô thành làm nơi cho bốn phương triều cống Nam Bang.
Bấy giờ khí xuân ấm áp, vô vàn cảnh sắc. Vua bản tính thích phong thuỷ bèn lên thuyền ngự tuần du ngoài biển, đi xem núi sông, trải xem hình đất nước, lạc ra ngoài biển. Bất giác thấy thuyền rồng đã thẳng đến xứ hồ Động Đình. Vua sai dừng thuyền, đứng lên xem, chợt thấy một người con gái lưng eo xinh đẹp, dung nhan tuyệt sắc, từ dưới đáy nước đi đến. Thật là một cuộc hội ngộ hiếm có xưa nay. Vua bèn sai chèo thuyền đến gần. Vua nói:
– Tiên nữ đẹp quá, từ đâu đến đây?
Thiếu nữ đáp:
– Thiếp tên là Thần Long, chính là con gái Động Đình Quân, ở trong thâm cung cửa ngọc, từ lâu đợi bậc anh hùng. Nay trời cho được gặp gỡ, nguyện được theo phụng hầu khăn túi.
Vua vui mừng đẹp ý, bèn dắt vào trong thuyền rồng. Vua cùng người con gái quay giá trở về thành đô, lập Thần Long làm chính cung.
Ngày sau Vua lại đi tuần thú, rong ruổi xem khắp các nơi sông núi, đến xứ Sơn Tây thấy một nơi địa hình trùng điệp, sông chung núi đúc. Vua bèn thân ngự giá lên núi, tìm mạch đất, nhận thấy khí mạch từ núi Côn Lôn xuất ra, qua Ải Môn rốn nước thoát mạch, rồng dẫn đi xa, thế rõ từ núi Tụ Long liền tới châu Thu Vật xứ Tuyên Quang, biến ra toà kim tinh cao muôn nhẫn. Mạch đất chạy tới phủ Lâm Thao, Hạ Hòa, Thanh Ba, Sơn Vi, Tây Lan, Phù Khang, đến chùa Hoa Long, thôn Việt Trì ở ngã ba sông Bạch Hạc.
Đầu mạch đất này bên trái từ sông Lôi núi chạy sông theo, tới các huyện Đông Lan, Sơn Dương, Đương Đạo, Tam Dương, bỗng dựng lập núi Tam Đảo. Cung tiên bên trái là rồng xanh, chạy tới hóa ở xứ Hải Dương thành các núi Đông Triều, Yên Tử. Mạch tới ngoài biển tám xã Đồ Sơn, là đầu rồng chầu án.
Bên phải mạch đất Hán Giang, Nhị Hà, Lô Thao Giang, núi dẫn sông theo, tới mười châu Tuyên Quang, Hưng Hóa, Thanh Nguyên, Bạn Hà, Đà Giang, đến huyện Bất Bạt thì nổi lên núi Tản Viên. Cung tiên bên phải là hổ trắng, đầu Sơn Nam, Ái Châu, núi Chính Đại cửa biển Thần Phù, thoát ra ngoài biển ở núi Chích Trợ, cửa Trà Lý, làm đầu hổ chầu án.
Lấy sông Bạch Hạc làm Nội minh đường. Lấy sông Cả ở huyện Nam Xương làm Trung minh đường. Nam Hải, Tượng Sơn làm Ngoại minh đường. Nghìn non cúi phục, vạn thuỷ chầu nguồn, đều hướng về núi tổ Nghĩa Lĩnh.
Nhìn thấy tất cả hình thế ấy, Vua nhận ra thế cục của đất quý đẹp hơn đô thành cũ Hoan Châu, bèn lập chính điện ở núi Nghĩa Lĩnh. Vua thường ngự giá đến ở. Bên ngoài lại lập dựng đô thành Phong Châu, lập nước tên là Văn Lang (phía Đông tới Nam Hải, phía Tây đến Ba Thục, phía Bắc tới Động Đình, phía Nam giáp Hồ Tôn).
Vua rời giá về cựu đô Hoan Châu. Việc dựng đô thành của Vua trước bắt đầu ở núi Thứu Lĩnh, sau lại ở núi Nghĩa Lĩnh. Nay lấy núi Nghĩa Lĩnh làm chốn đô ấp của Cổ Việt Thường Thị.
Lại nói, đương thời Dương Vương ở châu Đại Man, huyện Yên Bình, xứ Tuyên Quang có một gia đình Trưởng ông (họ Mã tên Sùng), lấy vợ người trong châu (họ Trương tên Man). Khi ông tuổi ngoài 50, bà Trương tuổi hơn 40, một hôm bà Trương lên núi lấy củi. Trên núi có một ngôi đền cổ, đều đã đổ nát. Bên trong có tượng nữ, cũng đã hư hỏng. Bà Trương lại gần xem xét. Bà Trương mới đùa rằng thần linh ở đây ngày đêm nhàn nhã, lấy ai là người cúng tế. Xin hãy về gia đình thiếp để phụng dưỡng cơ huyền.
Tự nhiên bỗng thấy có một con rắn trắng từ trong tượng bò ra. Bà Trương kinh sợ, bỏ chạy về nhà. Ngay hôm đó bà Trương mơ thấy mặt trăng rơi vào trong miệng. Bà Trương bèn nuốt lấy, bỗng nhiên tỉnh lại mới biết là nằm mộng. Từ đó thấy có ý động mà có mang thai. Đến khi đầy tháng sinh được một nương tử, phong tư yểu điệu, mẵn phượng lung linh, mặt ngọc đầy đặn sánh với Hằng Nga trên cung trăng, không phải là người có thể có ở trên phàm trần, môi son má phấn, thân người tự có mùi thơm. Cha mẹ rất yêu quý.
Đến khi lên ba tuổi mới đặt tên là nàng Ngọc Hương. Khi tuổi 15 cung thiềm còn khóa, nhị ngọc đương thì, đức nữ nhi trinh hiền, nữ công tinh khéo, đàn cờ thơ phú không gì là không biết. Có lòng hiếu hiền hoà thảo, thật hiếm có trên đời. Khi 19 tuổi như trăng rằm chính độ, hoa xuân vườn thượng uyển.
Khi ấy Dương Vương ngự giá đi thăm các khu tôn lăng, đi qua Man Châu. Ngọc nương ra xem. Dương Vương thấy, thích thú sắc đẹp đó, mới triệu đến cưới, lập làm Cung phi thứ tư. Vua rất sủng ái, mới cho ở thành Phong Châu (nay tức là đất Bạch Hạc, Phù Khang, Việt Trì). Vua cho xây dựng cung dinh, để nàng sống ở cung đó, gọi tên là cung Tiên Cát (sau tức là trang Tiên Cát).
Lại nói, khi ấy Vua đi tuần thú quay về thành Hoan Châu (nay là Nghệ An). Chính cung Thần Long có mang, khí lành đỏ rạng trong nhà, trong màn trướng có hương thơm. Qua tuần Thần Long sinh Lạc Long Quân, có tư chất phi thường, tự có khí tượng của bậc đế vương. Vua bèn lập làm Hoàng thái tử. Khi ấy có con gái của Đế Lai là Âu Cơ về ở quê mẹ tại động Lăng Sương, đi ra bãi Trường Sa chơi. Long Quân bắt gặp, rất yêu quý sắc đẹp đó mới cưới về lập làm Hoàng phi.
Do đó Kinh Dương Vương sai Lạc Long Quân đến núi Nghĩa Lĩnh ở thành Phong Châu để giúp việc lớn nước nhà, lại cùng tiện cho việc thăm hỏi Thứ phi. Lạc Long Quân tuân theo mệnh chỉ, đến thành Phong Châu nhận việc vua, thiên hạ thái bình, đất nước vô sự. Quân thần đều sùng ngưỡng tiên phật, tin kính quỷ thần trời đất. Vua và dân cùng hội hợp, trăm họ vui ca lạc nghiệp. Bốn dân vinh đủ yên bình, đều là ơn đức lớn vậy.
Lại nói, Thứ phi sống ở nơi đất đó, cứ mỗi năm hai lần xa giá về chầu chính cung cửa đế. Chầu xong lại quay về đất cung dinh cũ (tức cung Tiên Cát), ngày tháng đàn thơ, hội nhạc, cờ vây ở bãi đá bên bờ sông. Khi ấy có hai nàng tiên nữ là con vua thủy cung thường thường đi thuyền rồng lên du ngoạm nơi trần thế, cùng với Thứ phi kết làm nghĩa chị em, tưởng như con cùng bọc mà thân tình như chị em ruột thịt, nguyện cùng với trời cao không đổi (một tên là công chúa Thủy Tinh, một là công chúa Bạch Hoa). Hàng ngày thường xe rồng kiệu phượng lên chơi với Thứ phi cùng đánh cờ, đàn hát làm thơ ở nơi bờ đá bên sông.
Một hôm, Thứ phi nói với hai nàng rằng:
– Ta thấy hai nàng tuy sông núi không cùng, nhưng đều bậc ở cửa vua, dự vào hàng tiên cung thánh nữ, không phải tầm thường. Tục nữ nguyện ước được tình tâm phúc, xin chớ coi nhẹ ý đẹp này.
Hai vị thủy nương đáp rằng:
– Có trời chứng giám, nguyện cùng đồng sinh đồng hóa, cho dù cơ huyền trước đây như thế nào.
Đời sau có thơ rằng:
Hùng triều Tiên Cát sở cung phi
Thạch xứ tiên nương hợp dụng kỳ
Sơn thuỷ tương đồng do tích tại
Tà tiên chi xứ hữu thuỳ tri.
Lại nói, Dương Vương ở ngôi được 215 năm, thọ 260 năm thì băng. Con là Lạc Long Quân kế vị. Long Quân mới lập, cải hiệu là Hùng Hiền Vương. Khi đó Âu Cơ có mang, mang thai 3 năm 30 tháng, đầu núi Nghĩa Lĩnh có mây lành năm sắc sáng rạng, đến khi sinh được một bầu trăm trứng, nở ra trăm con trai, đều có tư chất hơn người, anh hùng vượt thế. Đến khi trưởng thành Vua mới dựng hầu lập bình phong, chia nước làm 15 bộ (Một là Sơn Tây, hai là Sơn Nam, ba là Hải Dương, bốn là Kinh Bắc, năm là Ái Châu, sáu là Hoan Châu, bảy là Bố Chính, tám là Ô Châu, chín là Ai Lao, mười là Hưng Hóa, mười một là Tuyên Quang, mười hai là Cao Bằng, mười ba là Lạng Sơn, mười bốn Quảng Đông, mười lăm là Quảng Tây).
Khi đó Long Quân nói với Âu Cơ rằng:
– Ta là giống Rồng, nàng là giống Tiên, giống loài không hợp nhau, chung sống với nhau thực cũng khó. Vì thế ta phải chia tách riêng. Phân 50 con theo cha về biển, làm Thuỷ tinh. 50 con theo mẹ về núi, làm Sơn tinh, làm hiển rạng cho các vương tử, trấn ngự khắp các vùng núi biển, đều là với danh nghĩa thần thuộc.
Vua bèn đặt quan văn gọi là Lạc hầu, đặt tướng võ gọi là Lạc tướng. Các vương tử gọi là Quan Lang. Các vương nữ gọi là Mị Nương. Các quan hữu ti gọi là Bồ Chính. Là thời sung túc, trên chính nhân luân, dưới hậu phong hoá, những người làm được cử theo việc, tùy theo khả năng. Vua vì thế được rũ áo khoanh tay, hòa mục trong chốn cửu trùng. Dân nhờ thế được đào giếng cấy ruộng, vui sống ở nơi thôn dã. Không một người dân nào bị xua đuổi không chốn sinh cư, không một vật nào không được yên bề nuôi dưỡng. Công thành trị định, vượt hơn các vua trước, dẫu là thời thái cổ cũng không bằng.
Lại nói khi ấy Thứ phi dưới triều Tiên đế Dương Vương không có con, dòng tiên trên trần thế không còn vương vấn. Lạc Long Quân tuân theo mệnh vua cha, ngày đêm phụng dưỡng, không dám nhạt lòng. Ngày thường đến cung Tiên Cát xem ngắm địa thế, tu bổ cung lầu. Vua thấy địa hình nơi đây là nơi rất tốt, quang cảnh đất đẹp anh linh. Phía trước có sông Thao án dựa. Phía sau là núi Nghĩa Lĩnh có lân đá, voi đá, ngựa đá, trống đá, người đá, quân đá tùy vị trí mà án dựa, thị tòng hội ở xứ ấy, phong tinh năm ngọn trái phải phụ tá, củng phục chầu ở trước. Vua nhớ đến việc Tiên hoàng tìm đất, xây dựng cung cho Thứ phi ở đây, tên gọi cung Tiên Cát. Cung đó tất có phong cảnh thần tiên, mạch đất linh thiêng, không phải là khu đất thường tình.
Cho đến một năm sau, một hôm Thứ phi bỗng thấy hai nàng công chúa thủy tiên, theo sao là các nàng hầu, thuyền rồng kiệu phượng, tiến vào trong cung, nói với Thứ phi rằng:
– Hôm nay (tức ngày 9 tháng 10) đã đến lúc được như nguyện. Chị phải vào chầu cửa đế, xin chớ trì hoãn. Chị với chúng em tuy âm dương hai ngả, sông núi tách vùng, nhưng lại cùng một nhà lầu mây gác phượng, khí huyết cùng nhau mà hội hợp, dám xin có trước sau, chị cùng với hai em về nơi Thủy quốc.
Nói xong, Thứ phi rời đi xuống thủy phủ. Thứ phi lại sai nội thần tâu lên vua trước sau như sau:
– Hôm nay có hai vị con gái vua Thủy Tinh, là người kết nghĩa với Thứ phi, trước sau đã có hẹn ước, chị em như ruột thịt, nguyện cùng đồng sinh đồng hóa. Nay thấy hai nương cưỡi xe loan đến triệu Thứ phi về chầu cửa đế. Do đó tiểu thần tuân mệnh vào tâu trước bệ, nguyên cớ là như vậy.
Vua nghe lời tâu bèn ngự giá đến cung (tức cung Tiên Cát, do Tiên hoàng dựng nên, đến cuối triều Hùng đổi thành trang ấp). Vua mới đi được nửa đường bỗng thấy mây mưa đổ xuống, gió sấm nổi lên, một lúc thì tự nhiên hết.
Vua nói Thứ phi đã đi vào cõi trường mộng vậy (tuổi Giáp Tý sinh ngày mồng 5 tháng 5, đến ngày mồng 10 tháng 10 thì hóa), bèn lệnh cho quan đến làm lễ tế khi còn chưa đến lúc an táng. Khi ấy Vua ở lại trong cung đó, mơ màng ngủ thiếp đi bỗng thấy Thứ phi xe loan kiệu phượng huy hoàng đẹp đẽ, tả hữu hai bên là hai vị tiên nương cưỡi xe loan cùng đi vào khu bãi đá bên bờ sông. Tiếp phía sau theo hầu trăm người nữ trinh đồng, khăn hồng đai tía, xe rồng kiệu phượng, theo đến nơi gặp Vua ở xứ đó. Thứ phi nói với Vua rằng:
– Thiếp vốn là thần nữ ở tiên cung, lầu mây gác phượng giáng xuống ở nơi trần thế, năm đó vào hầu Tiên hoàng, được ơn thâm trạch hậu, hưởng lộc đã nhiều. Nhưng hận là trần duyên chưa thỏa, không mảy may chút nào ở trần thế, tất cả đều hư vô. Nay vui vì có được hai vị nương tử cùng là con gái vua thủy cung, trên dương trần hàng ngày có giao du với nhau, nguyện là chị em ruột thịt. Một vị là nàng Thủy Tinh, một là nàng Bạch Hoa, cùng như tay chân gắn bó vậy, đồng lòng kết làm chị em. Nay lầu mây quê trước quay về nơi cảnh cũ, mưa gió ra vào nơi đất tốt.
Lời chưa dứt thì Vua tỉnh lại, mới biết là nằm mơ. Đến khi làm lễ đưa đám, liền trong 3 ngày mưa to gió lớn, một vùng mờ tỏ, cửa nhà tối mịt. Vua chôn cất bà phi ở nơi đất đó (tức xứ Gò Đá, nơi có lân đá, voi đá, ngựa đá, cờ đá, trống đá, thuyền đá, quân đá, bàn đá theo ở phía sau, hai bên trái phải hướng vào trước huyệt, có năm ngọn phong tinh chầu về hai bên, bên phải có sông Thao làm minh đường).
Nơi đó xưa khi Thứ phi còn sống, tuy Tiên đế lập cung trên vùng đất bên trong, bố trí cho Thứ phi ở đó gọi là cung Tiên Cát, nhưng Thứ phi ngày thường thích ra chơi ở đất đó (tức xứ Ghềnh Đá), cùng với hai vị thủy tiên gặp nhau đánh cờ, làm thơ, chơi nhạc, cũng như quang cảnh chốn Bồng Hồ Lãng Uyển, Đào Nguyên Trúc Lĩnh vậy. Ngày trước Vua ngự giá đến đây xem xét địa hình. Vua từng nói là vùng đất này đều rất linh anh, thật là nơi tốt. Nhân đó Vua cho an táng lăng tại nơi này. Vua nhớ lại giấc mộng khi chưa an táng. Hôm đó bèn truyền cho địa phương lập miếu ở trên khu lăng cùng thờ phụng ba vị, cùng phong là các thần nữ.
– Phong Thứ phi là Đệ nhất A Nương Thần nữ Ngọc Tinh nương Cả Đại vương.
Phong hai vị Tả hữu Thủy tiên Công chúa:
– Phong làm Đệ nhị Thuỷ Tinh Thần nữ Nương Hai Đại vương.
– Phong là Đệ tam Bạch Hoa Thần nữ Nương Ba Đại vương.
Vua lại truyền cho các gia thần ở cung sở địa phương ngày trước đã theo hầu Thứ phi, cộng được ngoài trăm nhà ở đó. Vua cho ở tại đó sớm hôm hương khói để phụng thờ.
Lại nói, khi đó Vua có trăm con cùng một bọc, đều là những vị anh hùng cái thế, sức dũng động trời, làm thần thánh xuất thế, không phải thường nhân trên đời. Vua tuy còn ở tại thế cai trị trần gian nhưng cũng chia trăm con làm hai bộ. Một bộ cai quản sông hồ cửa biển. Một bộ trị các đầu núi non, cùng có chức phong làm thần tử, bố trí các nơi để trị hưởng lộc một phương.
Một hôm, Vua ngự ở cung Phượng Lâu (tức nay là trang Phượng Lâu). Khí đó mùa xuân ôn hòa, khí lành, vạn dặm răng thanh gió mát, một trời phong cảnh an hòa. Vua mới nằm ở chính cung (tức cung Phượng Lâu), bỗng nhiên mơ màng, đi vào thẳng thành Hoan Châu (tức Nghệ An), mới gặp Kinh Dương Vương ngự ở chính điện, hai bên có quan văn võ đứng chầu.
Dương Vương nói với Vua rằng:
– Ta từng xem được địa hình Sơn Tây có một chỗ ở núi Nghĩa Lĩnh, ngàn núi quy phục, vạn sông chầu tôn, tất có trăm đời đế vương, sau có thần tiên bất tử, do đó đã thiết lập thành đô quý Phong Châu, lại tạo cung Tiên Cát để bố trí nàng Thứ phi tại đó, cũng biết Ngọc nương có tiên cốt, không phải trần phàm. Đất đó tuy là khu nhỏ ở bên sông nhưng do trời đất an bài, núi sông thông đường, cũng đều là đất quý, không phải tầm thường, để làm quốc bảo (tức cung Tiên Cát, sau đổi thành trang Tiên Cát). Con cháu hãy gìn giữ, làm cảnh thủy phủ tiên cung. Chớ làm sai rời đất đó. Để giúp mạch nước được bền lâu.
Lời nói vừa dứt thì gió xuân thổi vào áo long bào, Vua tỉnh dậy biết là nằm mộng. Vương nhớ lại lời căn dặn của Tiên hoàng trong mộng, tuy âm dương hai ngả nhưng đâu dám trái mệnh. Hôm ấy (mùng 10 tháng Giêng) Vua lệnh cho ba vị quan lang một là Cự Linh Thần tướng, hai là Ất Linh, ba là Linh Lang Thông Thủy, đều cùng là những hoàng tử từ bọc trăm trứng nguyên phân làm hai bộ (Cự Linh, Ất Linh, Linh Lang Thông Thuỷ đều thuộc thuỷ bộ), ban cho quản lý đầu sông (tức sông Thao), giữ gìn cung sở của Thứ phi (tức cung Tiên Cát). Ba vị tuân theo ngọc chỉ, quản trị ở đầu sông (tức sông Bạch Hạc ba dòng nước từ ranh giới sông Thao), giữ gìn cung miếu (tức tiên cung Thứ phi của Tiên đế Dương Vương).
Qua hai năm, khi đó Vua đã trị quốc dài lâu, đời đời cha truyền con nối, đều xưng là Hùng, ngọc lụa xe sách núi sông thống nhất, chính là thủy tổ Bách Việt.
Hiền Vương ở ngôi 400 năm, sau về biển hóa sinh bất diệt làm Động Đình Long Quân Đế chủ. Quốc Vương tuân thừa nối đại quyền. Quốc Vương lên ngôi mới được 1 năm thì khi đó mùa xuân ngày 12 tháng 3 bỗng thấy trên trời một tiếng sấm nổ vang rền, giữa trùng sóng nước đều trở nên mờ mịt. Trăm vương tự nhiên cùng hóa (trước cùng sinh một bầu trăm trứng, nở ra trăm người, sau cũng cùng hóa, đều tại đầu núi Nghĩa Lĩnh vậy. 50 người con theo mẹ lên núi làm sơn thần. 50 người con theo cha xuống nước làm thủy thần, đều tại đây).
Lại nói, Quốc Vương nối ngôi chính thống, chuyên lo giáo hóa đạo đức, khuyến khích nông tang, khiến dân không lo nghèo thiếu, cung vua có tích luỹ của dư. Bốn biển yên bình, không ai gian xảo giả dối, phong tục hồn thuần chất phác. Xét xem xuyên suốt cho đến bấy giờ,vua là bậc có nhiều công hưng trị, càng sáng tỏ hơn các đời trước, được người đời tôn xưng là bậc hiền quân.
Bấy giờ vua truy ơn các bậc thánh trước, bèn thực hiện việc chia đất phân cõi, lập các bộ Sơn tinh Thuỷ tinh, định làm trăm vương, đổi làm trăm họ, phân chia đầu núi góc biển, hùng cứ mỗi phương. 50 tên tộc trấn ở các đầu núi, cùng gọi là quan lang, phiên thần, thổ tù phụ đạo. 50 tên tộc trấn ở các góc biển, cùng là các thần linh trên nước, tiện để bảo hộ dân sinh, giúp phù tông xã.
Một ngày (15 tháng 3) Vua đến ngự ở cung Tiên Cát (sau đổi thành trang Tiên Cát).
Nhàn xem phong cảnh, thăm thú cung lăng, tu bổ các tòa cung sở miếu điện. Vua lại mở một chợ ở bên sông, trước khu cung lăng, gọi là chợ Tiên, cho các phi nhân của vương cung cùng với các nội thần của các phu nhân, vương nữ đến hội sớm tối, những người đánh cá trước sông cũng cùng ở trên chợ, là nơi đô hội của thần tiên. Hôm đó (mồng 3 tháng 3) Vua lại phong cho ba vị hoàng đệ đều là Thuỷ thượng linh thần, cùng với Tiên phi vào cùng một nơi, cùng phối thờ phụng.
– Phong Đệ nhất Cự Linh Chàng Cả Long Vương Đại vương.
– Phong Đệ nhị Ất Linh Chàng Hai Long vương Đại vương.
– Phong Đệ tam Thông Thuỷ Chàng Ba Long Vương Đại vương.
Hôm đó (mồng 3 tháng 2) Vua sai quan đế tế, làm lễ bái tạ. Làm lễ chưa dứt thì bỗng thấy gió sấm bỗng nổi lên, mây mù u ám, trên sông sóng đổi vạn nhận, cung đền bốn bên mây phủ. Lại thấy 3 con rắn từ trên đường phân nước tiến thẳng vào trong đền, bò lên giữa gác trái phải. Bên trong đền sáng huy hoàng, mùi hương thơm bao phủ. Trước sông hàng trăm đàn cá hùng dũng nối nhau. Vua lấy làm lạ bèn nói rằng:
– Nay tuy thủy phủ và dương gian khác biệt, nhưng có tương thân khí huyết, sơn thủy một mạch, cảm được sự linh thiêng, cùng đã biết vậy.
Vua vừa dứt lời thì [ba con rắn] tự nhiên biến mất . Mưa gió tự yên, mây tan trời sáng. Làm lễ xong Vua lại tặng phong là Thượng đẳng Phúc thần, bố trí quan cùng với các gia nhân địa phương ở nơi đó bốn mùa hương khói phụng thờ.
Lại nói, Quốc Vương tên Bảo từ lúc lên ngôi được 300 năm, thọ 643 tuổi, mệnh Tân Mùi sinh giờ Mão ngày 16 tháng Giêng, mất giờ Ngọ ngày mồng 5 tháng 5, hóa sinh sinh không thành, kim tiên thượng quán cư ở cửa ngọc mà cai quản. Tiên chủ sinh trưởng tử là Huy Vương, kế vị, truyền 8 vua tiếp sau.
Sau này Lý tiên sinh có bài tán:
Sinh vi thánh đế hoá lai tiên
Duy hữu Hùng đồ thập bát truyền
Thánh tử thần tôn cung miếu tại
Đức đồng nhật nguyệt hưởng trường miên.
Lại nói, thời lịch truyền 18 nhánh (từ Kinh Dương Vương chí Hùng Hiền Vương, Quốc Vương, Hy Vương, [Hi Vương], Diệp Vương, Huy Vương, Ninh Vương, Hùng Chiêu Vương, Uy Vương, Trinh Vương, Võ Vương, Việt Vương, Định Vương, Triêu Vương, Tạo Vương, Ninh [Nghị?] Vương, Duệ Vương, cộng 18 đời thánh chủ, hưởng nước cộng 2655 năm). Truyền đến Duệ Vương nối ngôi. Duệ Vương có chất thánh triết, tài lớn anh hùng, nối cơ nghiệp tổ tông khai đắp 17 đời thịnh trị, trong lo võ lược, ngoài ngự biên cương, gắng sức hưng bình để yên Trung Quốc. Lại noi gương tiền vương trị vì, sùng trọng đạo trời, kính sự quỷ thần, trời giáng điềm lành, mến giúp quốc sự. Vì thế Vua ngày càng gia tăng sùng chuộng, kính tín thần nhân, truyền hịch cho thiên hạ c sửa thêm đền miếu, vẽ tô nghi vệ trang nghiêm. Khi đó Vua đến cung Tiên Cát (sau đổi thành trang Tiên Cát), thăm thú lăng mộ, tăng thêm việc tu sửa đền miếu, ngày ngày hiến tế, một tháng hai lần sai quan đến làm lễ.
Than ôi, đạo vốn thịnh nhiều thì sẽ suy, đầy rồi thì sẽ tắc. Cơ đồ họ Hùng trị nước vốn đã lâu dài, ý trời tất có hạn. 20 hoàng tử và 4 công chúa đều phiêu du về nơi Bồng Lãng, thoát gót trần gian, không có ai để trông mong việc nối truyền. Chỉ còn hai người con gái, đều là bậc thần tiên đời (một nàng được gả cho Chử Đồng Tử, một nàng gả cho Tản Viên Quân).
Vua bèn nhường ngôi cho Tản Viên Sơn Thánh, là con rể mà truyền đại bảo. Nhưng Sơn Thánh vốn có phẩm chất thần tiên, không muốn nhận ngôi cai quản quốc gia. Bèn lại truyền cho Thục chúa, cũng là cháu họ Hùng ở Ai Lao. Từ khi Thục chúa (tức An Dương Vương) nối thừa ngôi báu, đóng đô ở thành Cổ Loa. Còn Phong Châu thành đất của họ Hùng, cùng các cung sở lâu đài được nhân dân các xã động chia nhau ở (đất thành Phong Châu đến Thục Dương Vương rời về ở thành Cổ Loa, từ đó thành Phong Châu đổi thành các xã trang động của người dân).
Trong thời kỳ Thục Vương, đất ngoài cung Tiên Cát có hai trăm nhà ở đó đã di cư. Chỉ còn 17 người ở lại cố giữ đất đó. Lòng người thay đổi, xưa nay là thường. Cảnh tiên cung vua đó đều theo năm tháng mà yên nhàn trôi qua, tích xưa khó thấy dấu tiên còn đọng, chỉ còn nghe tiếng chim chóc hót ca.
Khi Thục Dương Vương ở ngôi được 80 năm mới truyền vị cho Triệu Đà, cha truyền con nối trải 5 đời thánh vương. Đến khi Vệ Vương kế truyền chính thống thì có quân Tô gây loạn. Trưng nữ lại hưng (cũng là cháu gái của Hùng Vương), ở ngôi được 5 năm, tiếng thơm ngàn thủa, cũng là bậc nữ anh hùng.
Từ đó triều Hùng chấm dứt. Tới Đông Hán, Ngô, Tấn, Tống, Tề, Lương cộng 350 năm cho tới khi nước Nam có bốn họ Đinh, Lê, Lý, Trần khai sáng cơ đồ, đều có giúp nước hộ dân, nên các đời đế vương đề có gia phong mỹ tự, vạn đời hưởng lễ, hương khói vô cùng.
Lại nói, tới thời mạt Trần, họ Hồ tranh quyền. Một hôm quân Hồ giáo mác tiến đến ở vùng đất này (tức là vùng đất trang Tiên Cát), vào trú ở trong đền (tức đền cung Tiên Cát). Lại thấy địa hình có quý cục, voi đá, ngựa đá đều hướng chầu lên núi Nghĩa Lĩnh. Hôm đó (mồng 6 tháng 6) quân Hồ sĩ tốt bắt dân phu cùng binh sĩ lấy cưa sắt cắt ngựa đá, voi đá ra thành các đoạn, lấy đá đó xếp thành lũy, đồn sở. Đang khi cắt đá chưa được một lúc, bỗng thấy mây gió lớn nổi lên, bốn bề trở nên mờ mịt, mưa dội sương mù, sấm sét vang gầm. Trên sông nổi sóng cuồn cuộn vạn nhận, sấm vang làm rụng rời phách kinh nghê, vạn dặm cuồng phong dữ dội, cá rùa hồn kinh nhảy loạn, giao long nổi đầy sông, đào thông một đường thủy tiến thẳng vào trước cung, trùng trùng hàng ngàn con. Từ trên núi xuống hàng đàn hổ chạy tới, tiếng gầm chấn động, chạy thẳng về nơi đền thờ ở địa phương (tức trang Tiên Cát), vây kín bốn phương xung quanh. Quân Hồ kinh hồn chạy tán loạn. Nhân dân đều mất vía, tất cả đều bỏ chạy khỏi cửa nhà. Nơi đó (tức đất Tiên Cát) đều bị gió lớn thổi đỏ, nước ngập tràn lan ở bên trong, tất cả đều hư hỏng. Rắn hổ tập trung ở đất đó, đuổi hết mọi người, thật là một nơi bị hại lớn, có vào mà không có thoát, chết chóc rất nhiều.
Chỉ còn có 8 người tránh ở nơi đất gần đó (tức là ở đất nội thành), thường thường buổi tối mới dám quay về ẩn phục xem xét nghe ngóng nơi đền. Thấy sáu vị thánh ở chính trong đền (tức xứ Gồ Đá có chính lăng). Ba vị nữ quan ngồi ở trên, truyền lập hai hàng trái phải các thị nữ khăn áo hơn trăm người, huy hoàng đẹp đẽ, áo quần rực rỡ, vẻ rồng mắt phượng, má phấn môi son, tai cầm phiến ngọc, đầu đeo thoa vàng, đi hài lông phượng, lưng thắt khăn hồng. Bên dưới có ba vị quan nam ngồi đó, trái phải đứng hầu hơn ngàn người, áo lân giáp rồng, bào phục huy hoàng, đứng hầu uy lẫm. Cờ xí la liệt, ngựa voi chỉnh tề, xe loan kiệu phương cùng đi, thuyền rồng phân đội.
Tám người đang nấp nghe, thì thấy ba vị nữ quan nói:
– Thật đáng trách bọn cuồng khấu chim chó quân Hồ không biết đất này là nơi Tiên đế mở nền, tạo nên nước Nam. Đất có linh thiêng, khí lành đều do tạo an bài. Do vậy mà các nơi đều hận quân Hồ, nhưng không nên trách dân ta mà gây họa. Nay quân thủy phủ của ta đã trả hận quân Hồ. Còn nhân dân thì không được quấy nhiễu. Quân tôm cá hãy quay về thủy phủ để dân được yên.
Lời nói chưa dứt thì tám người đều phục trước sân mà bái tạ. Bỗng thấy một tiếng động rất lớn tựa như sấm sét giáng xuống mặt đất, rồi dần dần tự biến mất. Từ đó một vùng địa giới đều yên. Tám người quay về đất cũ (tức chợ Tiên Cát), gìn giữ nơi đất đó, năm tháng cùng phụng thờ.
Cho đến khi ở sách Lam Sơn, huyện Lương Giang, phủ Thiệu Thiên, Ái Châu có người họ Lê tên Lợi khởi nghĩa, ba ngàn thần hổ Lam Sơn tiễu trừ họ Hồ, bình định người Ngô. Lên ngôi vua ở Lam Sơn, niên hiệu Thuận Thiên (tức Thái tổ Cao Hoàng đế). Khi đó đất trang Tiên Cát chỉ có 8 nhà ở đó, mới làm bài tấu lên vua về việc quân Hồ đục phá ngựa đá, voi đá ở đền, lại thấy việc linh thiêng như thế. Vua nghe lời tâu đó, lệnh cho quan đến nơi làm lễ cầu đảo (làm lễ năm Kỷ Mùi, mồng 9 đến mồng 10 tháng 10). Nhân dân đều đến ở Gò Đá mà tế lễ. Bèn mổ lợn đen, rượu ngọt, bánh dày cùng với trăm trứng. Từ mồng 9 đến mồng 10 làm lễ thì gió sấm nổi lên, mây mưa mù mịt. Trước sông (tức sông Thao) mây nổi bay trên mặt nước, hơn ngàn đám mây bay ngang dọc trên sông, rồi tiến thẳng vào trong cung đền. làm lễ tế xong thì mây mưa tự nhiên ngừng hết. Bốn phương thanh bình, quang đãng. Nhân dân đều sợ phục. Tới ngày 11 lại tế tạ. Ca múa tới ngày 15 làm lễ. Tạ xong thì mưa gió nổi lên một hồi rồi ngừng. Quan quay về tâu lên. Vua bèn gia phong mỹ tự:
– Phong Đệ nhị Thuỷ Tinh nương Hai Uy linh Đại vương
– Phong Đệ nhất Ngọc Tinh nương Cả Linh ứng Đại vương
– Phong Đệ tam Bạch Hoa nương Ba Hiển linh Đại vương
– Phong Đệ nhị Ất Linh Chàng Hai Long vương An dân Đại vương
– Phong Đệ nhất Cự Linh Chàng Cả Long vương Hùng tài Đại vương
– Phong Đệ tam Thông Thuỷ Chàng Ba Long vương Đại vương.
Trang Tiên Cát phụng thờ 6 vị.
Lại nói, từ khi Lê Thái tổ Hoàng đế truyền qua Thái Tông, Nhân Tông, Thánh Tông, Hiến Tông, Túc Tông, qua Minh Tông đến Chiêu Tông lên nắm quyền. Khi đó họ Mạc tiếm ngôi xưng vương, đại xá thiên hạ, lấy niên hiệu là Minh Đức, kế thế con cháu 5 đời làm vua.
Tới Lê Trang Tông cùng với đại thần là Thái úy lại khởi nghĩa binh. Niên hiệu Nguyên Hòa năm Quý tỵ quan Thái úy tôn phù nhà vua, dời đến cảnh Ái Châu, truyền các tì tướng gửi hịch chiêu dụ các xứ ở Bắc thành, lại đi thuyền đến đạo Sơn Tây, giả làm thuyền buôn. Đi tới sông Thao, thuyền qua trước đền (tức đền Tiên Cát) gặp ghềnh chặn, thuyền không thể đi được. Gió lớn thổi đến, sóng to trên sông, làm cho thuyền gần bị lật. Tướng cầm quân ngẩng lên nhìn bỗng thấy đền thờ rực rỡ. Ngay hôm đó (mồng 3 tháng 8) bèn đậu thuyền làm lễ, cầu đảo khấn rằng:
– Gia thần tuân theo mệnh lớn, chiêu dụ người tài, tiễu trừ giặc mạc. nếu phục hồi được nhà Lê Nguyễn, nguyện xin âm phù cho thông đường thủy và bảo toàn quân đội.
Khấn xong tự nhiên yên bình. Các thuyền tự thoát, thuyền đi như bay. Thuyền lên đến trang Tằng Động huyện Thanh Ba thì thấy mưa gió tập trung chỗ dân địa phương. Bèn đóng quân trong ba ngày. Hôm ấy (mồng 6 tháng Giêng) nhân dân ở đó với quân Lê cùng mơ thấy hai cánh binh mã tiến vào trong dân, nói rằng:
– Ta là Chàng Út Long vương Thuỷ thú cùng với Chấn cung Thần quan tuân theo mệnh vua âm phù cho mệnh nước, bảo hộ nhà Lê. Nay đến nơi dân đây còn chưa định làm lễ sao?
Bỗng nhiên tỉnh lại mới biết là nằm mơ. Quân sĩ và nhân dân địa phương đều sợ hãi. Hôm đó (mồng 10 tháng Giêng), lập đàn cầu tế (ngày sau ở đất này đều lập miếu phụng thờ).
Một hôm quân Lê lại quay về huyện Tam Nông xứ Hưng hóa, vào ở tại đất trang Thọ Xuyên, bị quân Mạc vây hãm. Ba ngày sau quân Lê trước khi xuất hành mới cầu đảo bách thần phù hộ. Tự nhiên gió Tây lớn nổi lên, mây mưa bao phủ theo dòng nước mà vào cả khoảnh nơi đó, tất cả thành một dòng suối lớn chảy phá vào. Quân Mạc đại bại, chạy tán loạn. Quân Lê cùng xuất toàn quân, quay về Ái Châu (sau trang Thọ Xuyên lập miếu phụng thờ Thủy thần Đại vương, cùng với 5 vị và một vị công thần nhà Lê cúng tế).
Lại nói khi đó vạn dân quản chặt, bốn phương khói bụi, nước có 2 vua trị vì, dân không có ngày nào là yên nhàn, gọi là thời một nước hai vua. Hơn 60 năm sau, Trang Tông lệnh cho Thái úy thống lĩnh hai quân thủy bộ đi dẹp giặc Mạc. Thái úy bái tạ, xuất quân thẳng đến đóng ở các huyện Phù Khang, Bạch Hạc, Phúc Lộc của đạo Sơn Tây, lập các đồn lớn ở châu Trường Sa, vân Thủy, dựng đàn dâng hương cầu đảo trăm thần âm phù trừ Mạc, giúp nước cứu dân. Sau này được thanh bình sẽ tâu lên vua tăng phong mỹ tự Thượng đẳng phúc thần, vạn năm hưởng thờ.
Khấn xong tự nhân mây mù nổi lên, mờ mịt trong ba ngày. Thái úy ngồi ở nơi đàn thiếp đi mộng thấy trăm thần nam nữ cùng đến, sơn thủy cùng về, qua giáp khắp trời, cờ xí rợp đất, đến trước Thái úy, hoặc chào hoặc bái, xưng họ xưng tên. Thái uy trong mộng không ghi nhớ hết được. Bỗng nghe ở hướng Đông Nam có một tiếng sét động. Thái úy giật mình tỉnh lại mới biết là mộng. Lại thấy mây mờ bay tản đi, trời ban ngày rạng sáng. Thái úy cho rằng đó là điềm trung hưng, bèn lệnh lấy đồ văn phòng tứ bảo cứ theo trong mộng mà ghi lại tên hiệu các thần lên lụa để chép lại việc này. Hôm đó lệnh cho quân sĩ mổ trâu, khấn tạ trăm thần, khao hưởng tướng sĩ.
Ngày sau chia binh đến dẹp giặc mạc, đại chiến một trận ở đất Phấn Thượng, huyện Phúc Lộc, máu chảy thành sông, xác chất thành núi. Giặc Mạc thua to, chạy lên mạn Bắc, đến nơi mở trường chọn kẻ sĩ, chặn giữ biên phương, không thể dẹp hết được. Thái úy về thành Thăng Long, giải giáp ngừng binh, làm biểu tâu thắng trận, xin vua về thành. Trang Tông hôm đó xa giá đến thành Thăng Long, thưởng cho ba quân, gia phong tướng sĩ. Phong cho ông là Thái úy Hưng Quốc Công thần. Ông tuổi đã già, có ý muốn nghỉ ngơi, bèn dâng biểu tấu với vua xin các việc quốc gia lớn nhỏ giao cho con rể họ Trịnh. Trang Tông đồng ý.
Trang Tông bèn lập Thái tử, sau là Trung Tông Vũ Hoàng đế, niên hiệu Thuận Bình, sau đổi thành Thiên Hựu, là con trai của Trang Tông. Trung Tông kế truyền ngôi cho Tuấn Hoàng đế, húy Hàn trác, ở xã Bố Vệ, huyện Đông Sơn, niên hiệu Chính Trị. Khi đó có đại thần họ Trịnh phò tá, lập kỷ cương đất nước, bày chế trong ngoài. Sau Thế Tông truyền ngôi cho Nghị Tông, niên hiệu Hồng Phúc, sau đổi là Gia Thái, lại đổi là Quang Hưng, chính là con trai của vua Chính Trị. Khi ấy giặc Mạc trong nước đã diệt. Nhà Lê lại bắt đầu ngôi chính thống.
Từ đó thiên hạ thái bình, triều đình vô sự. Nhà Lê là chủ, họ Trịnh là vương, ban bố hai bộ Công và bộ Lễ đốc lệnh cho huyện doãn cùng các dân phu các xã xây dựng lại điện đình ở địa phương nơi xã Phấn Thượng, cung phụng thờ các vị vua chủ cùng các vị chư thần, lấy xã đó làm trưởng tạo lệ. Lại tiến phong các mĩ tự cho trăm thần sơn thủy nam nữ đã âm phù giúp nước, cùng luận công mà thưởng tước lộc, ban thêm cho những người có công. Công mãi mãi là thức lệ cùng với nước trường tồn. Thật thịnh thay!
Lại nói, khi đó lại phong mỹ tự cho trang Tiên Cát. Lúc ấy chỉ có 8 người về ở đó từ khi cuối họ Hồ, cho đến khi Lê Thái Tổ lên ngôi các đời sau của 8 người đó đều sinh con cháu cùng với vợ chồng. Những người sau đều ở phụ đó, phong tục nhân dân chất phác đôn hậu, giàu mạnh, đinh dân khỏe mạnh. Bèn chia đều thành 8 giáp cùng phụng thờ nơi tiền cung khi thần còn sống (tức cung Tiên Cát, nơi Thứ phi ngày trước ở đó, sau đổi thành làng), hậu cung là chính nơi hóa của thần (tức xứ Gò Đá, là lăng của Thứ phi, gọi là đất thủy phủ hội đồng). Sau Lê Trang Tông lại tiến phong nhiều mỹ tự.
Vâng ơn chính triều nay có phong tặng là Đương cảnh thành hoàng Linh phù Thượng thần, gia tặng là Thục diệu Tối linh thần, gia tặng là Hoằng hợp Tối linh thần, gia tặng là Dực bảo Trung hưng chi thần.
Nhất thiết húy cấm các chữ Cả, Hai, Ba, Ngọc, Hương, Bạch, Anh, Cự, Linh, Ất, Thông, Thuỷ, Chàng.
Bảo Đại năm thứ 13 ngày tháng 3 tuân sao chính bản.
Vâng sao đệ trình bởi Lý trưởng làng Tiên Cát Nguyễn Văn Tản.
Học giả Phan Kế Bính có tác phẩm Nam Hải dị nhânliệt truyện, kể về các vị vua, các danh thần, danh tướng, các vị thần… nước Nam. Nhưng tại sao lại gọi nước ta là “Nam Hải” thì không thấy ai nói tới. Thực ra, khu vực miền Bắc nước ta từng có tên là Nam Hải, mà bằng chứng rõ ràng là việc nhà Tần chiếm đất Lĩnh Nam chia thành 3 quận Quế Lâm, Tượng Quận và Nam Hải. Một loạt những danh nhân đất Việt của thời kỳ trước Công nguyên lại càng xác thực tên gọi Nam Hải cho vùng nước Nam ta.
Nam Hải Quan Âm Diệu Thiện
Sự tích về công chúa Diệu Thiện con vua Trang Vương, chịu nhiều khổ nạn nhưng vẫn có lòng thiện tâm dùng tay mình làm thuốc cứu vua cha, cuối cùng tu thành Phật Bà Quan Âm được nhiều sách cổ ghi lại. Những tác phẩm Nam Hải Quan Âm Phật sự tích ca hay Nam Hải Quan Âm bản hạnh quốc ngữ diệu soạn trùng sanđã gắn tên gọi Nam Hải với Phật Quan Âm. Nơi tu hành của Phật Quan Âm là núi Hương Sơn (Hà Tĩnh) ở “Nam Hải”. Vậy rõ ràng tên gọi Nam Hải chỉ vùng nước Nam ta ngày nay.
Quan Âm Diệu Thiện được thờ không chỉ ở núi Hương Sơn mà từ thời nhà Đường, Cao Vương Biền đã cho xây chùa Thiên Tôn ở Ninh Bình thờ công chúa Diệu Thiện cùng Trang Vương và Hoàng hậu. Chùa này đặc biệt không thờ Phật mà thờ Tam Thanh, tức là lối thời của Đạo giáo.
Chùa Thiên Tôn nằm trên núi Võ Đang ở Ninh Bình, nơi có động Thiên Tôn thờ Huyền Thiên Trấn Vũ, với công tích là giúp An Dương Vương diệt yêu quỉ xây thành Cổ Loa. Đây không gì khác là nơi thờ Lão Tử, người đã được nhà Đường phong là Thái Thượng Huyền Nguyên Hoàng Đế và là vị Đại Đạo Thiên Tôn trong bộ Tam Thanh của Đạo giáo.
Công chúa Diệu Thiện luôn được thờ cùng với Lão Tử Lý Bá Dương nên có thể xác định đây là một vị công chúa ở vào cuối thời Tây Chu, chuyển sang Đông Chu. Trang Vương như vậy là một vị vua Chu, có thể là Chu U Vương, vị vua nổi tiếng bạo ngược cuối thời Tây Chu. Đất Nam Hải lúc này ứng với khu vực phía Đông nhà Chu, nơi trận động đất vùng Tam Xuyên đã báo hiệu sự sụp đổ của vương triều Chu và được Bá Dương Lão Tử đăng đàn cảnh báo vua về họa mất nước tại Cổ Loa.
Nếu Lão Tử được coi là người mở đầu cho Đạo giáo thì Diệu Thiện chính là người mở đầu Phật giáo ở nước ta. Giáo lý của Phật Bà Nam Hải là “Thiện”, cứu khổ cứu nạn, từ bệnh tật đến thủy hỏa đạo tặc.
Chùa Quan Âm ở núi Bổ Đà (Việt Yên, Bắc Giang).
Nam Hải An Dương Vương
Thục chủ vốn là người Ai Lao, dòng dõi họ Hùng. Sau khi được vua Hùng nhường ngôi, Thục chủ về đóng đô ở Cổ Loa, xưng là An Dương Vương. Đây là chuyện xảy ra vào quãng thời Chiến Quốc. Khi đó các con của Tây Chu Quân (bộ chủ Ai Lao) tranh chấp nhau, một người trong số đó đã chiếm vùng phía Đông của vua Chu (vua Hùng), lập thành Đông Chu Quân.
Nhà Tần thông hiếu với Đông Chu Quân, cử hoàng tôn là Trọng Thủy lấy con gái của Đông Chu Quân là Mỵ Châu. Mấy năm sau, Tần diệt Tây Chu rồi cũng tiến chiếm đất Đông Chu. Thục An Dương Vương cầm sừng văn tê bảy tấc đi vào biển, kết thúc 800 năm nước Văn Lang của vương triều Chu từ Văn Vương Cơ Xương (Âu Cơ).
An Dương Vương làm chủ vùng đất Bắc Việt, đóng đô ở Cổ Loa, tức là vùng đất Nam Hải, mà tên gọi có ít nhất từ đầu thời Đông Chu (thời của Nam Hải Quan Âm và Lão Tử Lý Bá Dương). Do đó, khi Cổ Loa thất thủ, An Dương Vương chạy ra biển, được nhân dân các nơi lập đền thờ Nam Hải Đại vương. Tên thờ này đã xác nhận vùng đất An Dương Vương trị vì là đất Nam Hải.
Tượng đồng An Dương Vương ở đền Thượng Cổ Loa.
Tư lệ hiệu úy Lý Ông Trọng
Sách Từ Nguyên ghi: Nguyễn Ông Trọng đời Tần, người Nam Hải, thân dài một trượng ba thước, khí chất đoan dũng, khác với người thường. Vua Thủy Hoàng sai cầm quân giữ đất Lâm Thao, thanh thế chấn động Hung Nô.
Lý Ông Trọng người làng Thụy Hương, có tài võ lược, vào Tần được Tần Thủy Hoàng gả con gái là Bạch Tĩnh Cung Công chúa, rồi cử về trấn giữ người Hồ ở đất Lâm Thao. Nơi Lý Thân trấn thủ không phải ở phương Bắc, mà ở chính phương Nam, nơi quê hương của ông. Phò mã Lý Thân đã làm tướng trấn giữ vùng đất quê hương Nam Hải, là một trong 3 quận mà Tần lập ra ở vùng Lĩnh Nam.
Lý Ông Trọng được thờ là một trong 4 vị thượng tướng ở đền Cổ Loa. Rất có thể, người xây thành Cổ Loa với quy mô to lớn 3 vòng thành chính là Lý Ông Trọng.
Thành Cổ Loa được biết là được xây dựng qua nhiều lần. Lần thứ nhất ở vào quãng thế kỷ 4 TCN, tương ứng với thời Thục An Dương Vương ở trên. Lần thứ hai là lần xây dựng quy mô nhất vào quãng thế kỷ thứ 3 TCN. Lần xây này sử dụng công nghệ tương đồng với các công trình thành đất phương Bắc lúc đó. Với quy mô xây dựng to lớn như vậy, ước chừng có tới hàng triệu sức lao động đã được huy động. Thời gian và quy mô như vậy chỉ có triều đại của Tần Thủy Hoàng mới có thể thực hiện được.
Đầu ống ngói Cổ Loa.
Nam Hải Tôn Ninh Triệu Vũ Đế
Sử ký Tư Mã Thiên kể, Nhâm Ngao làm quận úy Nam Hải, Triệu Đà làm Long Xuyên lệnh. Khi Tần Thủy Hoàng mất, loạn lạc nổi lên, Nhâm Ngao mời Triệu Đà đến bàn kế chống giữ đất Nam Hải. Thế rồi, Triệu Đà thay thế Nhâm Ngao lĩnh quản Nam Hải, đánh diệt các quan lại nhà Tần. Tới năm Tần Nhị Thế thứ ba thì Triệu Đà xưng Vương.
Triệu Vũ Đế được thờ ở vùng Thái Bình với sắc phong gọi là Nam Hải tôn ninh Hoàng đế. Một lần nữa cho thấy, đất Nam Hải không phải là vùng Quảng Đông, mà chính là vùng Bắc Việt, nơi nổ ra khởi nghĩa của Triệu Đà kháng Tần chống Sở.
Triệu Vũ Đế khởi nghĩa từ vùng đầm nước ven sông biển ở Thái Bình, rồi Dạ Trạch, chiếm được quận trị của quận Nam Hải, tức là thành Cổ Loa. Đây là lý do tại sao trên lớp thành đất Cổ Loa của lần xây thứ hai lại có một lớp ngói tương đương với ngói như ở Phiên Ngung. Và lò đúc mũi tên, cùng hàng vạn mũi tên đồng, trống đồng Cổ Loa, vũ khí hình lưỡi cày tìm thấy ở đây là có niên đại vào thế kỷ thứ 2 TCN, thời nhà Triệu.
Nam Hải Quan Âm, Thục An Dương Vương, Hiệu úy Lý Thân, Triệu Vũ Đế là những vĩ nhân Nam Hải, những con người có công lao và sự nghiệp to lớn trên vùng đất Bắc Việt ở giai đoạn chuyển tiếp các chế độ Chu – Tần – Hán.
Trống đồng Cổ Loa, thế kỷ 2 TCN (thời Hán – Triệu).
Năm 257 TCN Tần Vương phát động 50 vạn quân đánh chiếm đất Lục Lương của An Dương Vương, lập làm ba quận Quế Lâm, Nam Hải và Tượng Quận. Tượng Quận là vùng đất Vân Nam, hay vùng đất Tây Âu, nơi Tần đã giết được quân trưởng của Tây Âu là Dịch Hu Tống. Nam Hải là vùng đất của Thục An Dương Vương đời cuối ở miền Bắc Việt ngày nay. An Dương Vương thất cơ, cầm sừng văn tê bảy tấc mà đi ra biển theo thần Kim Quy, sau được các nơi tôn thờ là Nam Hải Đại Vương.
Chiếm được vùng đất căn cơ cố tổ của họ Hùng, tới thời Tần Thủy Hoàng, phò mã hiệu úy Lý Thân được cử trấn giữ quận Nam Hải, tiếp tục mở rộng thành Cổ Loa, tòa thành có từ thời Thục Vương, thành một công trình đồ sộ quy mô lớn nhất vùng Đông Nam Á. Thủy Hoàng còn cho mở một con đường từ kinh đô nhà Tần thông ra biển Nam Hải, tức biển Đông ngày nay và vài lần theo con đường đó Đông du ra biển, nêu dương công đức của nhà Tần.
Thủy Hoàng cử đạo sĩ người nước Yên là Lư Sinh vượt biển Nam Hải đi tìm thuốc trường sinh. Yên Lư Sinh hẹn gặp Thủy Hoàng ở đình Phụ Hương bên bờ biển, rồi không từ mà giã, lên ngọn núi Yên Tử hóa tiên không trở lại. Vị Nam Hải Thiên Tuế Ông này chỉ còn lưu lại trên đỉnh Yên Tử mờ sương một tảng đá có hình người.
Những cuộc Đông du của đại đế Tần Thủy Hoàng và công trình thiên niên kỷ thành Cổ Loa đã tiêu tốn hàng triệu sức lao động của nhân dân. Để đáp ứng được nhu cầu này nhà Tần cho cho bắt tất cả các thanh niên đến tuổi đều phải đi dân phu, ai không tuân theo sẽ bị xử theo pháp luật nhà Tần, tức là chỉ có con đường chết.
Các quận phía Nam nhà Tần và các địa danh khởi nghĩa của Triệu Vũ Đế.
Phò mã Lý Ông Trọng mất, vị quận thủ thay thế ở đất Nam Hải là Nhâm Ngao. Trong khi đó, vùng Chân Định hay Long Xuyên xưa được giao cho một viên quan lệnh là Triệu Đà. Triệu Đà từng nhìn thấy Tần Thủy Hoàng đi tuần du ven biển Đông và rất ngưỡng mộ một đại trượng phu như vậy.
Là một viên quan lệnh địa phương, Triệu Đà có trách nhiệm bắt các dân phu phục vụ công trình xây dựng ở Cổ Loa cũng như cho các chuyến đi của Tần Thủy Hoàng. Một lần khi áp giải dân phu, dọc đường dân phu bỏ trốn nhiều, lại gặp trời mưa nên đoàn người bị lạc đường. Triệu Đà biết theo luật nhà Tần nếu đưa dân phu đến muộn và thiếu chắc chắn người đầu tiên bị xử tội chính là vị quan áp giải, nên khi đến vùng đầm nước Dạ Trạch, Triệu Đà cho thả hết dân phu rồi dẫn nhau lên núi ẩn náu, trốn tránh sự truy sát của nhà Tần.
Toàn bộ đám dân phu tử tội tôn người tuấn kiệt là Triệu Đà lên làm thủ lĩnh, bắt đầu cuộc “khởi nghĩa” kháng Tần. Quân khởi nghĩa ngày thì ẩn náu trong đầm lầy hay rừng rú, đêm thì ra cướp bóc, vì tất nhiên, không cướp bóc thì lấy gì mà ăn. Quân Tần gặp phải chiến tranh du kích của người Việt do vậy thường xuyên bị quấy phá, không cách nào dẹp được. Thế lực của Triệu Đà ngày càng lớn, hình thành nhiều vùng căn cứ khác nhau.
Trong quá trình khởi nghĩa ban đầu, tương truyền rằng Triệu Đà đã thấy rồng vàng bay lên bên bờ sông Hồng mà lập đồn quân ở Long Hưng (Xuân Quan), cạnh đầm Dạ Trạch. Cũng truyền thuyết Việt kể Triệu Việt Vương khi ở đầm Dạ Trạch đã được một thần nhân cho một chiếc móng rồng để làm mũ đâu mâu, đánh đâu thắng đó.
Con Rồng đá ở núi Vũ Ninh.
Triệu Đà là người quê gốc ở đất Phong Châu, đất tổ Hùng Vương, làm quan ở huyện Chân Định, tức vùng Thái Bình – Nam Định ngày nay. Tại đây ông đã kết duyên với bà Trình Thị Lan Nương, con gái một gia đình khá giả ở trong vùng. Trước đó, ông còn có quan hệ tình cảm với một vị gọi là Quận Phu nhân, cho sống cùng với con trai là Thạch công ở xã Luật Ngoại, đất Chân Định xưa (nay là huyện Kiến Xương, Thái Bình).
Khi Triệu Đà bất đắc dĩ cầm đầu dân phu khởi nghĩa ở đầm Dạ Trạch, 2 vị phu nhân tích cực tham gia tích trữ lương thực, chiêu mộ dân binh, trở thành 2 căn cứ kháng chiến phục vụ cho quân khởi nghĩa. Cứ như vậy trong vòng mười năm.
Khi Tần Thủy Hoàng mất, loạn lạc các nơi nổi lên. Ở vùng nước Sở tại Hồ Nam có nhà họ Hạng, dòng dõi vương tôn quý tộc Sở khởi nghĩa. Ở vùng Quế Lâm và Phiên Ngung, lúc này có họ Lê, là một hậu duệ Hùng Vương, tức là dòng dõi Thục An Dương Vương chiếm giữ. Thế cục thiên hạ uy hiếp trực tiếp đến vùng đất Nam Hải, nên buộc vị quận thủ Nam Hải lúc này là Nhâm Ngao phải tính kế tìm cách tự bảo vệ mình.
Nhâm Ngao bèn phải giảng hòa với quân khởi nghĩa của Triệu Đà, mà lúc này đã lan rộng với các căn cứ từ Thái Bình (Chân Định), Dạ Trạch (Khoái Châu, Hưng Yên) và núi Vũ Ninh (Quế Võ, Bắc Ninh). Triệu Đà nhân lúc Nhâm Ngao thất thế đã chiếm luôn quận Nam Hải mà tự xưng là Chúa công, mà sau được các thần tích và sắc phong ở Thái Bình gọi là Nam Hải Đại vương.
Từ bàn đạp là quận Nam Hải, quân Triệu đã tích cực chuẩn bị cho cuộc tranh hùng thiên hạ, mở lò rèn, đúc nên hàng vạn mũi tên đồng trong thành Cổ Loa, với lẫy nỏ đồng được cải tiến, có sức mạnh vượt trội, cùng với hàng loạt những rìu hình “lưỡi cày” cất trong trống đồng Cổ Loa.
Vũ khí hình lưỡi cày ở Cổ Loa.
Từ Nam Hải Triệu Đà đã hợp quân với Sở tấn công Ung Châu, thủ phủ của quận Quế Lâm. Con trai của thừa tướng Tần Lý Tư là Lý Do trấn thủ tại Ung Châu đã thất thủ, tử trận trong trận này.
Có thể, trong việc chiếm Quế Lâm còn có sự tham gia của đội quân Hậu Hùng Vương họ Lê là Chàng Út Ngọ Lôi Mao, nên sau đó họ Lê được phong đất tại Quảng Tây và lấy con gái của Triệu Đà. Đội quân họ Lê này sau đó tiếp tục tấn công chiếm được vùng Quảng Đông, chuyển về lập căn cứ ở Phiên Ngung.
Quân khởi nghĩa kháng Tần chia làm 2 hướng tấn công vào Tần đô. Quân Sở đi theo hướng Bắc, gặp nhiều khó khăn vì phải đương đầu với quân chủ lực của nhà Tần do đại tướng Chương Hàm chỉ huy. Quân của Triệu Đà vòng theo hướng Nam, dễ dàng lấy lại được vùng Tượng quận xưa của Tây Âu, rồi tấn công vào đất Ba Thục.
Năm 206 TCN, sử ghi nhà Tần sụp đổ, Triệu Đà giết các trưởng lại nhà Tần, lập tức chiếm Quế Lâm và Tượng Quận rồi xưng là Nam Việt Vương. Cái tên Triệu Việt Vương bắt đầu có từ đây.
Cuộc phân tranh thiên hạ giữa Sở và Triệu còn kéo dài trong nhiều năm. Đã có lúc quân Sở tấn công vào quê hương bản quán của quân Triệu là đất Nam Hải, được các thần tích Việt gọi là giặc Lương. Quân Triệu thiệt hại nặng nề trong trận này. Quận phu nhân và con trai Thạch công của Triệu Việt Vương tử trận trên sông Lịch Bài ở Kiến Xương. Trình phu nhân may mắn hơn, trốn thoát khỏi vòng vây để về hội ngộ với vua Triệu.
Cuối cùng thì thiên hạ được định đoạt về tay họ Triệu. Triệu Đà xưng là Hoàng đế, tức Triệu Vũ Đế, phong Trình Thị là Hoàng hậu. Vị con rể họ Lê ở Phiên Ngung thì được phong là Triệu Vương.
Khi Triệu Đà mất, rồi Trình Hoàng hậu nhiếp chính cũng không được lâu. Năm 190 TCN Trình Hoàng hậu qua đời. Triệu Vương ở Phiên Ngung bèn tự lập mình là Đế, dựng cờ tả đạo, đi xe hoàng ốc, sánh ngang với vua Hán. Ngôi mộ Triệu Mạt cùng với ấn Văn Đế hành tỷ tìm thấy ở Quảng Châu là minh chứng cho sự biệt tách Nam Bắc này.
Gương Tây Hán tìm thấy ở Bắc Việt.
Cuộc đời của Triệu Đà xuất thân là một thường dân áo vải đất Phong Châu, lưu lạc làm quan lệnh Chân Định, khởi nghĩa kháng Tần ở Dạ Trạch và Vũ Ninh, chiếm được quận đô Nam Hải là Cổ Loa, tiêu diệt các quan lại nhà Tần ở Quế Lâm, Tượng Quận, thuần phục được Tây Âu, Mân Việt, mà xưng Vũ Đế. Hành trình lang ba lang bang nhưng đã thống nhất, ổn định được thiên hạ sau nhà Tần, đánh dấu bước ngoặt vĩ đại trong sử Việt, chuyển từ thời phong kiến phân quyền cho các chư hầu sang phong kiến tập quyền trung ương thống nhất.
Câu đối về Triệu Vũ Đế ở đình Xuân Quan (Long Hưng điện):
Nhất chỉ dĩ vô Tần, vạn lý khai tiên Mân Lạc tuyệt
Lưỡng lập hà nan Hán, ức niên xương thủy đế vương cơ.
Dịch nghĩa:
Một lệnh dẹp không Tần, mở ra vạn dặm vời Mân Lạc
Hai ngôi sánh cùng Hán, nền móng muôn năm khởi đế vương.
Phủ việt của Nam Hải đại vương Triệu Vũ Hoàng đế ở đền Đồng Xâm.
Sự tích mẫu tử A Dung và Thạch thần hộ quốc ở 2 xã Luật Nội và Luật Ngoại của đất Chân Định xưa chứa đựng những thông tin hết sức kỳ lạ, tưởng chừng như vô lý về thời kỳ Triệu Việt Vương. Chuyện kể bắt đầu từ một vị lệnh doãn huyện Chân Định thời Triệu Đà là dòng dõi Hùng Vương, tức là ở quãng thời gian ít nhất là thế kỷ 3 trước Công nguyên. Thế nhưng, vợ và con của ông lại đánh giặc Lương cho Triệu Việt Vương. Nếu theo sử sách chính thống ngày nay Triệu Việt Vương hay Triệu Quang Phục ở vào quãng thế kỷ thứ 6 sau Công nguyên, tức cách thời Triệu Đà ít nhất là 800 năm. Vậy Triệu Việt Vương ở Chân Định là ai, làm vua vào thời kỳ nào trong sử Việt?
Đình Luật Nội
Thần tích làng Luật Nội, nơi thờ Thạch Thần Đại tướng quân, nay thuộc xã Quang Lịch, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình chép:
Hùng Tuệ, Lệnh doãn huyện Trực Định nhân chuyến thăm thú hạt huyện, ông tới xã Luật Nội và quyết định xây một dinh sở để Phu nhân Thánh mẫu dưỡng nhàn. Bấy giờ, ông đã 50 tuổi, Phu nhân tuổi cũng ngoài 40. Sau một đêm nằm mộng gặp thần nhân, Phu nhân có thai sinh ra một người con trai khôi ngô tuấn tú, mệnh danh là Thạch Công. Năm lên 16 tuổi thân cao sáu thước, sức khỏe trăm người không địch nổi. Tuệ Công làm sớ tâu lên Triệu Việt Vương. Vương cả mừng, phong cho thân mẫu là Bà A Phương Dung Trinh Thục Quận Phu nhân, tặng 10 hốt vàng, sắc chỉ cho về quê Luật Ngoại viết tên tự hiệu, hưởng lộc trăm năm.
Nước ta bị họa giặc Lương, vua trao cho Thạch Công chức Tổng đốc Kinh lược đốc lĩnh thủy bộ chư quân vụ, kiêm tri Tiết chế bình Lương tặc Đại thần quan Thạch thần Đại tướng quân. Trên đường ra trận, Tướng quân ghé về thăm mẹ, thân mẫu đã chiêu tập được gần 600 tráng đinh trong hạt. Không may trong một trận đánh không cân sức, mẫu tử phải nhảy xuống sông tự vẫn để bảo tồn danh tiết. Nghe tin Triệu Việt Vương vô cùng thương tiếc phong cho Thánh mẫu Phu nhân, Thánh tử Thạch thần Hộ quốc Đại vương.
Còn thần tích Luật Ngoại, là nơi thờ Thánh mẫu (Luật giang linh từ) kể: Thục chúa nghe vua Duệ không có con trai nối dõi, mới dẫn quân mã đến đánh, một trận lấy được nước Nam. Đóng đô ở thành Cổ Loa, huyện Đông Ngạn, phủ Từ Sơn, đạo Kinh Bắc. Giữ nước cộng được 50 năm thì có người Chân Định Bắc quốc, họ Triệu tên là Đà, dẫn mười vạn hùng binh tiến thẳng đến nước Nam đánh Thục Vương. Qua ngoài 3 năm, tất cả 105 trận thì Thục Dương Vương mất. Khi ấy Triệu Đà lên ngôi Hoàng đế, đóng đô ở An Quảng.
Người phát động hàng chục vạn quân diệt Thục Vương mang họ Triệu thì phải là Tần Vương, vì nhà Tần vốn mang họ Triệu từ tổ tiên là Tạo Phụ được phong đất ở Triệu Thành. “Triệu Đà” trong thần tích này là chỉ vua Tần. Câu chuyện ở Chân Định như vậy bắt đầu dưới thời nhà Tần.
Thần tích Luật Ngoại kể tiếp: Lại nói, khi đó nước ta truyền rằng ở động Nghĩa Lĩnh, tổng Xuân Lũng, huyện Sơn Vi, phủ Lâm Thao (nay là tại Cổ Tích) có một vị phụ đạo quan lang, là dòng dõi thủy thần trong trăm trứng của Hùng Vương, họ Hùng, tên là ông Tuệ, trấn ở đầu sông (tức nay là sông Đà và sông Nhị Hà), lấy người con gái của vị tiến quan miền núi, tên là nàng A Dung, có nhan sắc tuyệt thế, mặt như kính ngọc không chút bụi, miệng cười như hoa nở…
Lại nói, khi ấy ông Tuệ tinh thông võ nghệ, lại có thuật lạ tài kỳ. Lúc đó Triệu Việt Vương nghe tin ông Tuệ mạnh sánh trăm người, thân dài chín thước, sức có thể bát núi, thường lên rừng đuổi hổ, được nhân dân địa phương đều xưng là thiên tướng giáng trần. Ngay hôm đó Vua mới lệnh cho sứ thần đem chiếu đến triệu Ông vào kinh, hỏi xem tài lạ thuật kỳ. Khi đó ông Tuệ tuân chiếu theo sứ thần đến yết kiến Đế, làm lễ bái tạ, trình tấu văn võ thao lược, binh pháp Thái Công, không việc gì không biết, không vật gì không hiểu. Đế bèn phong làm quan doãn huyện Chân Định, phủ Kiến Xương, đạo Sơn Nam Hạ. Ngày hôm đó ông Tuệ liền đi nhận chức.
Người làm quan huyện Chân Định thời Tần chính là Triệu Úy Đà như được chép trong Sử ký Tư Mã Thiên. Úy Đà được kể là người Chân Định, thời Tần làm quan huyện lệnh huyện Long Xuyên, sau thay Nhâm Ngao làm Nam Hải úy, khi Tần Thủy Hoàng mất đã giết các quan lại nhà Tần mà xưng là Nam Việt Vương.
Các bài văn tế và sớ tấu của đình Luật Ngoại đều gọi vị Hùng Tuệ Công là “Nam Hải Đại vương“. Một nơi khác ở Kiến Xương thờ Hùng Tuệ Công là thôn Thượng xã Cao Mại (nay là xã Quang Hưng), cũng gọi ông là thần Nam Hải tạo lực. Đồng thời, sắc phong ở đền Đồng Xâm (xã Hồng Thái, cùng huyện Kiến Xương) cho Triệu Vũ Hoàng Đế cho biết tên thờ của Triệu Vũ Đế là “Nam Hải Tôn ninh“. Người làm chủ Nam Hải vào cuối thời Tần thì rõ ràng là Triệu Vũ Đế.
Bái sớ của đình Luật Ngoại.Một mảnh sắc phong của đền Đồng Xâm có ghi: Gia phong Triệu Vũ Hoàng Đế Nam Hải Tôn ninh.
Chuyện lạ là khi Bà A, vợ của Hùng Tuệ Công sinh được người con trai Thạch Công có tướng lạ, Triệu Việt Vương cho gọi đến xem, khen Thạch Công. Nhưng thay vì phong tước cho Thạch Công, Triệu Việt Vương lại sắc phong cho bà mẹ là Quận Phu nhân, còn cho vàng để về làm nơi hưởng lộc trăm năm. Điều này chỉ có thể hiểu nếu Triệu Việt Vương chính là chồng của Bà A, tức ông Hùng Tuệ. Tước vị Quận phu nhân chỉ ra rằng đây là một trong những bà vợ của vua, mang họ Quận.
Quận phu nhân được Tuệ Công cho lưu lại ở Luật Ngoại, “giúp người già, trợ nhà nghèo, đem tài sản mà chiêu kết khách khứa. Những nơi như cầu chính, đường lớn đều được sửa chữa, không nơi nào là không làm“. Hành động này thực chất là chuẩn bị cơ sở cho cuộc khởi nghĩa lâu dài của Tuệ Công. Bà A là một nữ tướng, chứ không phải chỉ là một vị phu thê sinh con đẻ cái bình thường.
Trong thần tích Luật Ngoại, khi hai mẹ con Bà A và Thạch Công đánh giặc lại không hề thấy xuất hiện người cha Tuệ Công, vốn là người có hùng tài đại lược và là quan huyện của khu vực này. Thay vào đó chỉ thấy Triệu Việt Vương phát quân dẹp tan giặc Lương. Chỉ có thể hiểu là Tuệ Công sau khi để vợ và con ở đất Chân Định, gây dựng căn cứ tại đây, đã dẫn quân đi nơi khác, đánh chiếm các vùng đất của nhà Tần mà xưng Vương (Triệu Việt Vương). Điều này hoàn toàn trùng khớp với hành trạng của Triệu Úy Đà được kể trong Sử ký Tư Mã Thiên ở trên, từ việc dời huyện Long Xuyên đến Nam Hải làm quan rồi đánh dẹp nhà Tần.
Trong thời gian loạn lạc, khi Tuệ Công đang dẫn quân đi nơi khác, “giặc Lương” đã tiến đánh vùng căn cứ khởi nghĩa ban đầu của Triệu Việt Vương, nơi có Bà A và Thạch Công đang trấn giữ, dẫn tới việc cả 2 mẹ con đều cầm vũ khí, lên ngựa ra trận mà tử chiến bên sông Lịch Bài.
Câu đối đình Luật Ngoại ca ngợi hình ảnh thánh mẫu cưỡi ngựa trắng, múa bảo kiếm diệt giặc rất đẹp:
紅裙赴敵忠義最家兒戰壘時揮双宝劍
白馬朝天灵聲自終古怒濤猶咽大江流
Hồng quần phó địch, trung nghĩa tối gia nhi, chiến luỹ thì huy song bảo kiếm
Bạch mã triều thiên, linh thanh tự chung cổ, nộ đào do yết đại giang lưu.
Dịch nghĩa:
Hồng quần chống giặc, trung nghĩa thật nữ gia, chiến lũy còn rung hai kiếm báu
Ngựa trắng chầu trời, linh thiêng tự xưa nay, sóng giận bởi nghẹn dòng sông rộng.
Tuệ Công khi đã trở thành Triệu Việt Vương, bèn quay về dẹp tan giặc, nhưng vợ và con của vua đã tử tiết bên sông trên đất Chân Định.
Một điều nữa xác nhận vị trí của Quận Phu nhân là bà được truy phong là Quốc mẫu Vua Bà Đệ nhất Thiên Tiên. Chỉ có thể là vợ của một vị đế vương mới được nhận danh phong như vậy. Đình Luật Ngoại nay được xây dựng với 2 lầu gác cao ở 2 bên, đề Long lâu và Phượng các (Lầu rồng, Gác phượng). Chỉ có nơi thờ các bậc vương giả mới có thể dùng những chữ như vậy.
Qua thần tích và di tích thờ Bà A Thánh mẫu và Thạch Thần Đại tướng quân ở Kiến Xương có thể rút ra một số thông tin đặc biệt quan trọng về thời kỳ khởi nghĩa của Triệu Vũ Đế:
– Triệu Vũ Đế là dòng dõi họ Hùng, quê gốc ở vùng Phong Châu – Phú Thọ.
– Triệu Vũ Đế ở vùng Thái Bình được gọi là Triệu Việt Vương. Phân biệt với vị Triệu Quang Phục sau này, hy sinh ở cửa biển Đại Ác bên Nam Định. Rất có thể ở các nơi khác, nhất là vùng Long Biên hay Hưng Yên, tên gọi Triệu Việt Vương cũng là chỉ Triệu Vũ Đế.
– Vùng Chân Định (Thái Bình – Nam Định) xưa là khu vực ban đầu khởi nghĩa của Triệu Việt Vương – Triệu Vũ Đế. Sự tích Việt chép là vùng đầm Dạ Trạch. Khu vực này cách nay hơn 2000 năm đúng là một vùng đầm phá ven biển. Cái tên “Đầm” còn lưu ở ngay trong tên gọi địa phương Đồng Xâm hay Đường Thâm, đều là những từ phiên thiết của chữ Đầm.
– Người vợ ban đầu của Triệu Vũ Đế là Quận phu nhân, đã cùng chồng gây dựng căn cứ kháng chiến và tử trận cùng với người con trai trước khi ông thành nghiệp đế vương. Do đó bà không được gọi là Hoàng hậu, nhưng được tôn phong là Vua Bà.
Câu đối ở đình Luật Ngoại sánh Quốc mẫu Vua Bà A với Hai Bà Trưng:
浩氣塞滄渙節烈一門皇趙日
芳名傳國母頡頏千古二徵間
Hạo khí tắc thương hoàn, tiết liệt nhất môn Hoàng Triệu nhật
Phương danh truyền quốc mẫu, hiệt hàng thiên cổ Nhị Trưng gian.
Dịch nghĩa:
Chí lớn trùm sóng khơi, tiết liệt một nhà thời Vua Triệu
Danh thơm truyền quốc mẫu, vút bay ngàn thủa sánh Hai Trưng.
Bộ chấp kích trong đình Luật Ngoại thờ Quốc mẫu Vua Bà.Đình Luật Ngoại với Lầu rồng Gác phượng.
Thần tích xã Luật Ngoại, Quan Lịch, Kiến Xương, Thái Bình.
Chính bản ngọc phả về công thần của Việt Vương Bà A Phu nhân Trang Thục Công chúa và Thạch Thần Đại vương do Quận công tước bộ Lễ quốc triều phụng soạn (bộ thứ ba).
Xưa nước Việt ta xét trục Ly Khảm núi sông phân ngang theo sao Dực Chẩn, Bắc quốc ban đầu nằm thẳng hướng phân theo sao Đẩu Ngưu. Từ Kinh Dương Vương ngự trị Nam Bang, gặp bà Tiên Vụ Nương, ở tại thành Phong Châu (tức nay là sông Bạch Hạc, sông Nhị Hà). Vua dạy dân cày cấy, đào giếng làm ruộng, bốn phương an bình. Nước không có tục dối trá, dân được yên vui. Khi đó Đế sinh được Lạc Long Quân kế ngôi. Xã tắc trải qua 400 năm thì Đế truyền ngôi lại cho Hùng Quốc Vương, Hùng Hy Vương, Hùng Hoa Vương, Hùng Huy, Hùng Ninh Vương, Hùng Chiêu Vương, Hùng Uy Vương, Hùng Trinh Vương, Hùng Võ Vương, Hùng Việt Vương, Hùng Định Vương, Hùng Triêu Vương, Hùng Tạo Vương, Hùng Nghị Vương tới Hùng Duệ Vương.
Vua có đại lược hùng tài, tư chất thánh triết, trong sửa văn đức, ngoài phòng biên phương, dốc ý hưng bình để yên Trung Quốc. Khi Vua tuổi thọ đã cao, sinh được 20 hoàng tử và 6 công chúa đều theo nhau về tiên hương. Chỉ còn 2 con gái, tên là công chúa Tiên Dung, gả cho Chử Đồng Tử ở xã Đa Hòa, huyện Đông Yên, phủ Khoái Châu. Còn người thứ hai tên là công chúa Mị Nương Ngọc Dung được gả cho Tản Viên Sơn Thánh, quê ở động Lăng Sương, huyện Thanh Châu, phủ Gia Hưng, đạo Hưng Hóa. Khi đó, Thục chúa nghe vua Duệ không có con trai nối dõi, mới dẫn quân mã đến đánh, một trận lấy được nước Nam. Đóng đô ở thành Cổ Loa, huyện Đông Ngạn, phủ Từ Sơn, đạo Kinh Bắc. Giữ nước cộng được 50 năm thì có người Chân Định Bắc quốc, họ Triệu tên là Đà, dẫn mười vạn hùng binh tiến thẳng đến nước Nam đánh Thục Vương. Qua ngoài 3 năm, tất cả 105 trận thì Thục Dương Vương mất. Khi ấy Triệu Đà lên ngôi Hoàng đế, đóng đô ở An Quảng.
Lại nói, khi đó nước ta truyền rằng ở động Nghĩa Lĩnh, tổng Xuân Lũng, huyện Sơn Vi, phủ Lâm Thao (nay là tại Cổ Tích) có một vị phụ đạo quan lang, là dòng dõi thủy thần trong trăm trứng của Hùng Vương, họ Hùng, tên là ông Tuệ, trấn ở đầu sông (tức nay là sông Đà và sông Nhị Hà), lấy người con gái của vị tiến quan miền núi, tên là nàng A Dung, có nhan sắc tuyệt thế, mặt như kính ngọc không chút bụi, miệng cười như hoa nở. Tuổi quãng 18 mà có vẻ chim sa cá lặn, đúng là diện mạo nguyệt thẹn hoa nhường. Tứ đức không thiếu, tam tòng gìn giữ. Vợ chồng một nhà trung hậu, nối được nghiệp của một gia tộc có tiếng trên đời.
Lại nói, khi ấy ông Tuệ tinh thông võ nghệ, lại có thuật lạ tài kỳ. Lúc đó Triệu Việt Vương nghe tin ông Tuệ mạnh sánh trăm người, thân dài chín thước, sức có thể bát núi, thường lên rừng đuổi hổ, được nhân dân địa phương đều xưng là thiên tướng giáng trần. Ngay hôm đó Vua mới lệnh cho sứ thần đem chiếu đến triệu Ông vào kinh, hỏi xem tài lạ thuật kỳ. Khi đó ông Tuệ tuân chiếu theo sứ thần đến yết kiến Đế, làm lễ bái tạ, trình tấu văn võ thao lược, binh pháp Thái Công, không việc gì không biết, không vật gì không hiểu. Đế bèn phong làm quan doãn huyện Chân Định, phủ Kiến Xương, đạo Sơn Nam Hạ. Ngày hôm đó ông Tuệ liền đi nhận chức.
Qua hơn một năm, một hôm, ngày mồng 10 tháng 3 Ông quay về cùng với vài chục gia thần, đi xem phong cảnh, xem xét động tĩnh trong nhân dân. Lúc ông đến xã Luật Nội, nhân dân làm lễ bái hạ, thì mặt trời đã gác núi, trời đã sắp tối. Ông cùng quân sĩ lưu ở trong ấp. Đến sáng ngày Ông ra xem vùng đất này, trông thấy địa thế rồng uốn khúc khuỷu, nước chảy quanh co, trống chiêng la liệt, gò đống dẫn mạch, tất cả đều quay về chầu vào chính cục. Quan huyện thả phóng tầm mắt, bèn truyền nhân dân lập một cung sở ở tại nơi đất có thế cục quý. Được một tháng làm xong thì giao cho A Phu nhân ở đó mà giúp người già, trợ nhà nghèo, đem tài sản mà chiêu kết khách khứa. Những nơi như cầu chính, đường lớn đều được sửa chữa, không nơi nào là không làm.
Khi ấy vị quan tuổi đã ngoài năm mươi, phu nhân tuổi chưa đến bốn mười, nhưng lại chưa được trải lúc sinh con, vì thế thường không vui. Một hôm Ông mới than rằng:
Nhà ta vốn là dòng dõi đế vương, 122 năm trị nước Nam, tới như vợ chồng ta tự cố gắng không hề có mảy may làm ác. Thế mà vợ chồng ta lại chưa có người kế tự, sau khi trăm tuổi biết ai là người hương khói. Chi bằng ta hãy cố gắng tìm kiếm nơi đền thiêng mà cầu đảo, cầu khấn để có con trai nối dõi.
Nói xong lại nghe rằng đền Phù Đổng Thiên Vương ở thôn Phù Minh, xã Phù Đổng, tổng Tiên Du, huyện Tiên Du, phủ Từ Sơn, đạo Kinh Bắc, có ngôi đền rất linh ứng, cầu gì được ứng, xin nguyện sẽ được theo ý, nước khấn dân cầu có nhiều linh ứng. Hôm đó ngày mồng 9 tháng 4 mới soạn lễ chay đến thẳng nơi đền làm lễ tâu rằng:
Vợ chồng thần ở nơi trần thế chưa có con trai nối dõi.
Chúc xong thì ở lại trong đền để cầu mộng. Đến nửa đêm phu nhân nửa tỉnh nửa mê thấy trong đền sáng rạng, lại thấy có một người từ trên điện xuống, đứng trước điện nói rằng:
Vợ chồng các người đúng là chăm làm việc thiện nên thiên đình cảm được đức đó. Thượng đế trên thiên đình ban cho một vị nam tử tên là Thạch Thần Đại tướng quân đầu thai nhập vào phu nhân làm con trai. Hãy mau mau quay về lập một bức tượng đá ở nhà, ngày đêm thắp hương đèn mà cầu. Ta tất sẽ ứng cho. Chớ tiết lộ! Chớ tiết lộ! Hãy cẩn thận! Hãy cẩn thận!
Dứt lời bay lên không mà biến đi. Lại nghe trên không trung có tiếng nhạc nổi lên rất to, tiếng vang liên hồi bên tai, đột nhiên tỉnh lại, mới biết là nằm mơ. Lại làm lễ tạ rồi quay về nhà, làm một tượng đá, thắp hương cầu chúc.
Qua một tháng quả nhiên phu nhân có mang. Mang thai 11 tháng tới mùa xuân giờ Dần ngày 15 tháng Giêng thì sinh (năm Giáp Tý). Ở nơi sinh khi đó có khí lành bao phủ, hương thơm đầy nhà, khi sinh có tướng mạo đường đường, uy nghi lẫm liệt, mặt như mặt trời lúc sớm, sau lưng lại có dòng chữ: “Thạch Thần Đại tướng quân”, bụng to, rốn sâu, chân có 7 chòm lông màu đỏ, thực có tướng kỳ dị.
Cha mẹ đều yêu quý, nuôi dưỡng. Đến khi lên ba tuổi đã hiểu âm luật. Thân phụ mới đặt tên là Thạch Công. Rồi ngày qua tháng lại, xuân sinh hạ trưởng, khi Ông được 16 tuổi thân dài 6 thước, có dũng khí trăm người không địch. Khi ấy quan huyện thân phụ làm sớ tâu lên Hoàng đế Triệu Việt Vương. Đế nghe vậy bèn gọi ông Thạch đến nói chuyện, biết được tướng mạo đúng như sớ tấu. Đế chắp tay nói:
Trời vì ngôi báu của ta mà sinh ra vị hiền tài trợ giúp. Ta thật may mắn vậy.
Bèn gia phong thân mẫu là Bà A Phương Dung Trinh Thục Quận phu nhân. Ban cho 10 nén vàng cho về ở Luật Ngoại để khi trăm tuổi thờ phụng tên húy tự đúng như sắc chỉ. Không được di dịch.
Hôm đó mồng 5 tháng 5 Phu nhân tuân mệnh Đế trở về cung sở ở xã Luật Ngoại, mở tiệc khao tiếp phụ lão nhân dân. Ba ngày sau nói với phụ lão nhân dân rằng:
Dân chúng cùng với ta vốn là ơn sâu đức dày, đâu phải chuyện mới ngày một ngày hai. Nay ta có ba nén vàng đem cho phụ lão nhân dân để dựng một nơi đền dựa Mão hướng Dậu mà làm nơi phụng thờ ta, cứ tuân theo lời của ta, không được thay đổi.
Lại nói, khi đó đất nước có quân Lương vào cướp bóc của cải ở Cao Bằng, Tụ Long, châu Bảo Lạc tới 12 động châu trang trại của đạo Hưng Hóa, chiếm 4 phần 10 của thiên hạ. Các quan địa phương không thể chống cự. Hôm đó, quan địa phương mới dân sớ tấu lên Đế. Đế nghe vậy rất lo lắng việc này, mới triệu tập trăm quan văn võ tại chính sân rồng để nghị luận chống giặc. Trăm quan văn võ triều đình dương mắt nhìn nhau, bó tay không có kế sách nào khả thi. Thế là lúc đó ông Thạch tâu thẳng với Đế rằng:
Thần xin được thay thánh giá tự tìm các tướng tài, xin cho 12 vạn tinh binh, 100 con ngựa tốt, 1000 chiến thuyền thì giặc Lương có thể dẹp được. Không quá một tháng đầu tướng giặc sẽ treo dưới trướng.
Tâu xong, Đế rất vui mừng. Hôm đó ngày mồng 1 tháng 7 tuyển chọn được 8 vạn quân, 13 viên danh tướng, bèn gia phong ông Thạch là Tổng đốc kinh lược, đốc lĩnh các việc quân thuỷ bộ, kiêm là quan đại thần tiết chế bình giặc Lương Thạch Thần Đại tướng quân. Phong xong, Ông phụng lệnh Đế, dẫn quân mã tiến công.
Khi đó Ông tiện đường quay về đến Luật Ngoại bái tạ thân mẫu. Phu nhân bỗng nhiên nổi chí tang bồng, phấn khích lòng hồ thỉ, coi giặc Lương nhẹ như lông hồng. Hôm đó bà cùng con trai Thạch công lấy các nghĩa binh mạnh khỏe ở xã Luật Ngoại là 100 người, Luật Nội là hơn 200 người làm gia thần tay chân. Lại lấy 36 người ở Nam Đường Lũ Khu, 150 người ở xã Thân Thượng, 56 người ở 2 thôn Đông Đoài của Hương Nghĩa, 20 người ở Bạt Trung Ngoại, 80 người ở Cao Bạt làm gia tướng.
Hôm ấy chia quân làm hai đạo. Một đạo tiến thuyền theo đường Ái Châu. Lúc đó Quận phu nhân tay cầm song kiếm, cưỡi ngựa trắng. Thạch Công tay cầm đao sắt, cưỡi ngựa hồng, cùng tiến vào đồn giặc ở bến Hương Xá Đông Yên, phủ Khoái Châu, sau lại ở châu Tự Nhiên ra vào giao chiến với giặc Lương. Qua hơn 5 tháng, cộng 35 trận, chém 100 đầu danh tướng, thắng bại chưa phân.
Khi ấy, mẹ con mới thu quân mã trở về Chân Định. Quận phu nhân thiết lập một đồn dinh ở xã Luật Ngoại để kiên trì chống giặc. Hôm đó, Thạch Công cũng truyền nhân dân Luật Nội lập một đồn chống giặc. Trải qua một tháng, quân mã hy sinh quá nửa. Mẹ con biết khó thoát mới ngẩng mặt lên trời than rằng:
Trời hại ta, không phải mắc tội vì chiến đấu.
Mới thấy trời đất mờ tỏ, mưa to gió lớn, giữa ngày mà như đêm. Mẹ con chạy tới bến bãi sông Lịch Bài, thấy một cây gỗ lớn ở đó. Cây gỗ hổng nửa bên trong. Mẹ con nhập thẳng vào lỗ hổng. Được một khắc, nước lớn dâng cao, mẹ con cùng mất. Hôm đó ngày mất là ngày 15 tháng 8.
Lại nói, khi ấy có vị Đại úy Nguyễn Đạt thấy hai vị đã hóa bèn làm biểu tấu lên Đế. Đế mới dẫn ba quân chia binh làm ba đạo, đồng thời tiến đánh, phá tan tướng giặc, thế như chẻ tre, bẻ củi khô, truy bắt các tướng giặc như sấm nổ, sét giật. Các tướng cùng quân sĩ đều bị chết đuối. Sông không thể chảy. Đồ khí giới vứt như gò núi. Quân giặc đại loạn bỏ chạy. Đế bắt sống chủ tướng, một xe không quay được, một ngựa không còn. Cả vùng sạch bóng giặc.
Đế lại rất thương cảm Quận phu nhân cùng với con trai là Thạch Công, một nhà mẹ con đã tận trung. Hôm ấy xa giá đến nơi hóa bên sông, truyền cho phụ lão hào mục Luật Nội, Luật Ngoại ra bến sông kéo cây gỗ lớn, chia làm hai đoạn, lập thành hai bức tượng, dựng hai miếu để phụng thờ. Đế lại gia phong sắc chỉ:
Một vị Bà A Thánh mẫu Phương Dung Quận phu nhân (cho Luật Ngoại phụng thờ).
Một vị Thạch Thần Hộ quốc Đại vương (cho xã Luật Nội xã phụng thờ).
Lại nói, sau khi hai vị đại vương mất có nhiều anh linh, quốc đảo ân cầu rất hiển ứng nên các đời đế vương đều truy phong mỹ tự Thượng đẳng phúc thần, cùng hưởng với nước nhà, mãi theo cách thức đó vậy. Cho đến triều Lê, Thái tổ Cao Hoàng đế mệnh đại thần là quan Thái úy Nguyễn Kim dẫn quân đi thảo phạt các tướng Liễu Thăng, Mộc Thạch, Hoàng Phúc. Quân đi qua hai xã, thấy miếu thờ đại vương sáng rạng, hương khói không ngừng, mới chúc rằng:
Hai vị tôn thần xin âm linh bảo vệ quốc gia, bình thảo được giặc.
Chúc xong, bỗng thấy trên điện xuất hiện một nữ nhân, một nam nhân, tự xưng:
Một là Quận phu nhân Bà A phu nhân và một là Thạch Thần Đại vương, chính là những danh tướng của Việt Triệu Hoàng đế. Mẹ con trung thần có một không hai. Nay thấy nước nhà có cầu đảo, mẹ con bầy tôi xin theo quan tướng đi chinh phạt. Xin báo để quan tướng biết.
Đêm đó quan Nguyễn Thái úy khấu đầu bái tạ, rồi cử binh tiến thảo giặc ở thành Lạng Sơn. Liễu Thăng thua chạy, chạy thẳng về thành Lạng Sơn. Chém được chủ tướng cùng các quân sĩ. Hôm ấy quan Thái úy dẫn quân sĩ khải hoàn trở về, làm biểu tấu lên Đế. Đế nghe việc thần thiêng đã âm phù giúp nước, dẹp yên giặc, bèn gia phong thêm mĩ tự ba chữ:
Gia phong Vua Bà A Phương Dung Trinh Thục Phu nhân.
Gia phong Thạch Thần Linh ứng Hộ quốc Tế thế Đại vương
(chuẩn cho hai xã Nội Ngoại cùng phụng thờ)
Phong sắc các lệ của hai vị đại vương:
Chính lệ ngày 15 tháng 10, lễ cúng tam sinh, rượu hoa cúc, ca hát ba ngày thì ngừng.
Cấm chữ húy là A, Thạch hai chữ nhất thiết cấm. Các màu vàng và trắng khi nhân dân làm lễ không được mặc, nhất thiết cấm.
Niên hiệu Hồng Phúc năm thứ nhất, tháng giữa đông ngày tốt, Hàn lâm viện Đông các đại học sĩ, bề tôi Nguyễn Bính phụng soạn.
Hoàng triều Vĩnh Hữu năm thứ năm mồng 1 tháng 10, Quản giám tri điện Hùng lĩnh Thiếu khanh Nguyễn Hiền phụng sao tuân theo đúng như bản chính trước đây.
Các kỳ sinh nhật của hai vị cứ theo như ngày tháng năm trong tích mà làm lễ, dùng lễ tam sinh, ca hát ba ngày thì dừng.
Trong ngày hóa việc ca hát nhất thiết cấm, chỉ tổ chức đánh cờ ba ngày thì dừng.
Sinh thời Triệu Việt Vương Thánh mẫu khâm phụng được phong mỹ tự là Bà A Phương Dung Trinh Thục Quận Phu nhân (Sau khi hoá phong Thánh mẫu Vua Bà A Quận phu nhân).
Thái tổ triều Lê gia phong Quốc mẫu Vua Bà A Phương Dung Trinh Thục Phu nhân Thượng đẳng phúc thần.
Nguyên bản ngọc phả ở miếu trước đây lưu giữ để phụng thờ, sau do biến loạn bị hỏng, nên mới dám tìm phụng sao bản chính của xã Luật Nội vào thời Việt Nam dân chủ cộng hoà, năm Nhâm Thìn tháng 5 ngày tốt.
Văn tế cầu phúc xuân thu
Cung duy!
Đại vương
Vụ tinh dục tú
Thái nhạc chung anh
Đức hoằng khôn tải
Công đại khiêm chinh.
Lịch giang kiếm kích ba trừng, nhất môn nghĩa liệt
Thần tích xã Hương Triện ở Gia Bình, Bắc Ninh cung cấp những thông tin hết sức hiếm lạ về nguồn gốc của Thục An Dương Vương. Bản thần tích Hương Triện ngay tên gọi là Ngọc phả ghi chép cổ về Thục đế Thạc thần là dòng dõi vua Hùng nước Nam Việt. Thông tin này có thể tóm tắt như sau:
Vào thời vua Hùng thứ 17 là Nghị Vương, có vị Bộ chủ bộ Ai Lao, là dòng dõi của người con thứ 8 từ bọc trăm trứng, mang họ Hùng tên Bích. Chính thất phu nhân của ông sinh được 2 người con trai rồi mất sớm. Ông Bộ chủ lấy thêm một người vợ nữa, con của vị huyện lệnh họ Trần huyện Gia Định đạo Bắc Giang, là bà Thận Nương làm đệ nhị phu nhân. Thận Nương nằm mơ thấy rồng nhập mà mang thai, sinh được người con đặt tên là Thạc công.
Khi đó vua nước Thục có con gái là công chúa Hằng Nương, nghe tin Bộ chủ Ai Lao sinh được Thạc công có hùng tài dũng lược, nên đã dẫn quân đến bộ Ai Lao, xin Thạc công về làm con rể. Thạc công lấy công chúa nước Thục rồi kế ngôi của nhạc phụ, xưng là Thục An Dương Vương.
Tới thời vua Hùng thứ 18 là Duệ Vương do không có con trai nối dõi nên đã nhường ngôi cho Thục An Dương Vương. An Dương Vương nhận thụ truyền lẫy nỏ thần từ Hùng Duệ Vương, dời về đóng đô ở Cổ Loa. Vua lại đi xem xét thế đất, thấy khu vực núi Đông Cứu có thế đất đẹp, lại là quê mẹ, nên đã lập hành cung ở đó, thường hay lui tới du lãm.
Lại nói bấy giờ có người phủ Cửu Chân, Nam Hải, họ Triệu tên Đà, phát động hùng binh kéo đến đánh Thục Vương để cướp nước. Vì Thục Vương có nỏ rùa lẫy thần nên Triệu Đà nhiều lần thất bại. Triệu Đà mới bày kế xin giảng hòa, hai nước coi nhau như anh em, rồi cử con trai là Trọng Thủy cầu hôn với con gái An Dương Vương là công chúa Mỵ Châu. An Dương Vương đồng ý.
Trọng Thủy gạt Mỵ Châu đánh tráo lẫy nỏ thần, rồi xin trở về Triệu. Trước khi về Trọng Thủy đưa cho Mỵ Châu chiếc áo lông ngỗng, dặn khi có sự biến thì rắc lông ngỗng làm dấu để tìm nhau. Trọng Thủy lấy được lẫy nỏ thần về Triệu thì Triệu Đà lập tức dẫn quân tấn công Cổ Loa. Nỏ thần vô dụng, An Dương Vương dẫn Mỵ Châu bỏ chạy. Khi gặp đường cùng bên sông, cầu khấn thần rùa hiện lên, nói: Giặc ở sau lưng nhà vua đó.
Mỵ Châu thề với trời rồi tự tiết xuống sông. An Dương Vương chạy ra đến cửa Nam Hải thì được thần rùa rẽ nước, cầm ngọc văn tê bảy tấc mà đi xuống biển, hóa sinh bất diệt.
Câu chuyện về An Dương Vương ở Hương Triện đọc qua có vẻ không có gì khác so với chuyện kể thông thường về Thục Vương. Tuy nhiên, thông tin đặc biệt ở đây chính là nguồn gốc cha mẹ của An Dương Vương được kể một cách rất rõ ràng. Cha là Bộ chủ Ai Lao, là dòng dõi họ Hùng. Mẹ là thứ phu nhân, người Gia Bình, Bắc Ninh. Hơn nữa, chi tiết khó giải là việc vua nước Thục dẫn quân tấn công Ai Lao lại chỉ để xin chàng rể cho con gái của mình và nhường ngôi cho Thạc công.
Sự kiện này vào thời Hùng Nghị Vương cũng được Hùng Vương Thánh Tổ ngọc phả kể:
Hùng Nghị Vương thừa hưởng nhiều đời thiên hạ thái bình. Vua sinh ra đam mê tửu sắc, ham thích du chơi, không lo sửa sang võ bị. Vua nước Thục từ xa nghe tin Trung Quốc không mấy khi dùng đến việc võ nên muốn thống nhất dư đồ, nhưng sợ phương Nam có cây kiếm thần nên còn do dự chưa quyết.
Bấy giờ chúa phụ đạo bộ Ai Lao là người có hùng tài đại lược, cũng vốn là tông phái của Hùng Vương. Vua Thục biết thế bèn đem quân sang đánh bộ Ai Lao để đoạt chức chúa phụ đạo. Bộ Ai Lao không kháng cự được bèn sai sứ giả sang cầu cứu với Hùng Nghị Vương. Hùng Nghị Vương thân đem 10 vạn tinh binh tiến thẳng đến dưới thành Ai Lao để cứu viện. Thục Vương nghe tin bèn biên thư gửi cho Hùng Nghị Vương, nói: “Quân Thục từ phía Tây đến, chỉ muốn bộ chủ [Ai Lao] truyền lại cho ngôi báu, đâu dám giơ càng bọ ngựa mà chống với muôn cỗ xe của nhà vua”.
Hùng Nghị Vương thấy lời lẽ trong thư như thế bèn rút quân về. Thục vương bắt được bộ chủ phụ đạo [Ai Lao] đem về Thục, gả công chúa cho, rồi bắt nhường ngôi cho mình. Thục Vương sai sứ giả sang tạ ơn Hùng Nghị Vương, xin coi triều Nam là anh, triều Tây là em, cùng nhau giảng hoà định ước, hai nước quan hệ đi lại với nhau. Hùng Nghị Vương bằng lòng như thế. Từ đó triều Tây ngừng việc binh.
Thần tích xã Cao Mại ở Phú Thọ cũng cho biết, người dẫn quân cùng với Hùng Nghị Vương đi ứng cứu Ai Lao là Phò mã Lý Lang Công. Sự kiện vua Thục đánh Ai Lao rõ ràng không đơn giản chỉ là để xin con rể, mà là một sự tranh chấp lớn giữa Hùng và Thục. Sự thực của việc này là như thế nào?
Để kiến giải việc này phải lần theo từng dữ kiện dựa trên sử thuyết Hùng Việt. Trước hết, Ai Lao là đất Âu, vào cuối thời Hùng Vương (Thiên tử Chu) vùng đất này do Tây Chu Quân cai quản. Thục Vương là con của Bộ chủ Ai Lao tức là con của Tây Chu Quân, nhưng lại làm chủ vùng Bắc Việt, đóng đô ở Cổ Loa. Như thế Thục Vương trong chuyện này chính là Đông Chu Quân.
Lịch sử phân liệt Tây Chu Quân và Đông Chu Quân tóm tắt từ Sử ký Tư Mã Thiên như sau: Năm 440 TCN, Chu Khảo Vương Cơ Nguy sau khi lên ngôi đã phân phong cho em trai là Cơ Yết ở đất Vương Thành giữ chức Chu công để phụ giúp triều đình. Cơ Yết có hiệu là Tây Chu Hoàn công hoặc Tây Chu quân. Sau khi Cơ Yết mất, con là Cơ Táo nối ngôi, tức Tây Chu Uy công.
Năm Chu Hiển Vương thứ hai (367 TCN), Tây Chu Uy công mất, hai con là công tử Căn và công tử Triêu tranh đoạt ngôi vị với nhau. Hai nước chư hầu là Hàn và Triệu lập công tử Căn ở đất Củng, tức là Đông Chu Huệ công hoặc Đông Chu quân, Chu Hiển Vương không biết cư xử thế nào cũng không có thực lực để chống lại nên đành chấp nhận thực tế. Đó là nguồn gốc dẫn đến sự phân chia thành 2 nước Tây Chu và Đông Chu, sự chia rẽ này làm cho nhà Chu càng ngày càng thêm suy nhược. Thiên tử nhà Chu ở nhờ Tây Chu quân.
So sánh lịch sử này với chuyện Thục đế Thạc thần ở trên có thể thấy:
– Tây Chu Quân là Bộ chủ Ai Lao, dòng dõi họ Cơ của nhà Chu, được truyền thuyết Việt chép là họ Hùng. Vua Hùng Nghị Vương lúc này tương ứng với Chu Khảo Vương.
– Đông Chu Quân là con thứ của Tây Chu Uy Quân, do tranh chấp với người anh nên được chư hầu Hàn và Triệu giúp, lập riêng nước, xưng Đông Chu. Đông Chu Quân tương ứng với Thạc công, được vua Thục (Hàn Triệu) giúp mà xưng là An Dương Vương. Vua Hùng Duệ Vương lúc này là Chu Hiển Vương, buộc nhường vùng đất Đông Chu cho Thục Vương.
– Sự việc tiếp theo thì người diệt nhà Chu (Thục) là Tần Chiêu Tương Vương, nên tương ứng được truyền thuyết Việt gọi là Triệu Đà. Nhà Tần vốn mang họ Triệu theo đất phong ban đầu từ thời Chu Mục Vương.
– Người đã “ở rể” ở Cổ Loa (Trọng Thủy) như thế chính là Dị Nhân Doanh Tử Sở, sau là Tần Trang Tương Vương, bố của Tần Thủy Hoàng. Công chúa Mỵ Châu được Hoa sử chép là Triệu Cơ, trong đó Cơ chính là họ của các vua Chu.
Truyền thuyết về Thục Vương ở nước ta như thế có thể kể đến 4 giai đoạn với tình tiết khá tương đồng, đều cùng là đến từ vùng Ai Lao phía Tây, chiếm được vùng Bắc Việt mà xưng đế vương:
– Thục Vương I trong trận đánh với hàng chục vạn quân chia làm nhiều đạo tiến vào miền Bắc Việt, thắng lợi thì định đô ở Phong Châu. Đây là sự kiện Cơ Xương Chu Văn Vương đánh chiếm đất Sùng và dời về Phong kinh.
– Thục Vương II dời đô về xây thành Cổ Loa, với sự tích rùa vàng trừ Bạch Kê Tinh ở núi Thất Diệu. Đây là chuyện Chu Bình Vương dời đô từ Cảo kinh (Vân Nam) về Lạc Dương, khởi đầu thời kỳ Đông Chu.
– Thục Vương III là con Bộ chủ Ai Lao, được nhường ngôi ở miền Bắc Việt, rồi bị nhà Triệu lừa mà mất nước. Đây là sự kiện Đông Chu Quân kế nối Chu Noãn Vương rồi bị Tần Chiêu Tương Vương diệt, kết thúc 800 năm vương triều Chu trong lịch sử.
– Thục Vương IV cũng từ phía Tây đến, thống nhất thiên hạ các chư hầu thành một nước và là người đã mở rộng quy mô thành Cổ Loa 3 vòng thành rồi bị Triệu Vũ Đế – Lý Bôn lật đổ. Đây là nhà Tần với sự hiện diện của phò mã Lý Thân trấn giữ Hồ ở thành Cổ Loa và đạo sĩ Yên Kỳ Sinh gặp Tần Thủy Hoàng ở chân núi Yên Tử.
Chính bởi do có tới 4 sự kiện có chiều hướng rất giống nhau từ Tây chinh Đông, nên dẫn đến sự nhầm lẫn rất khó phân định trong các tư liệu sử Việt. Một sơ đồ sau khái quát lại thời kỳ này một cách mạch lạc.
Những Thục triều trong sử Việt.Nội điện An Dương Vương từ ở Hương Triện.
NGỌC PHẢ GHI CHÉP CỔ VỀ VỊ THẠC THẦN ĐẠI VƯƠNG LÀ DÒNG DÕI VUA HÙNG NƯỚC NAM VIỆT
Thần thuộc hàng Thượng đẳng Đế vương, bộ Nam Hải, bản chính Ngọc phả lưu tại bộ Lễ của Quốc triều
Xưa Hùng Vương Sơn Nguyên Thánh Tổ là Tiền Hoàng đế của đất nước trời Nam tôn quý, dựng mở cơ đồ lớn, là thủy tổ của Việt Nam, khai sáng họ Việt Thường trải 18 đời thánh vương ngự trị. Mở vận ở trời Nam, núi xanh vạn dặm khai sáng nền thành đô cung điện. Tạo ra muôn vật, cứu giúp dân sinh. Thống lĩnh 15 bộ làm thế vững chãi cho đất nước.
Xét: Trước kia Lạc Long Quân lấy con gái Đế Lai, tên là Âu Nương, lập làm chính cung, mang thai trong ba năm, sinh một bọc trăm trứng, nở ra một trăm người con trai, đều anh hùng nổi tiếng ở đời, dũng lược hơn người. Khi trưởng thành vua mới phong tước hầu và lập thành các bộ. Bộ thứ nhất là Sơn Nam, bộ thứ hai là Sơn Tây, bộ thứ ba là Hải Dương, bộ thứ tư là Kinh Bắc, bộ thứ năm là Hoan Châu, bộ thứ sáu là Ái Châu, bộ thứ bảy là Bố Chính Châu, bộ thứ tám là Ai Lao, bộ thứ chính là Ô Châu, bộ thứ mười là Hưng Hóa, bộ thứ mười một là Cao Bằng, bộ thứ mười hai là Tuyên Quang, bộ thứ mười ba là Lạng Sơn, bộ thứ mười mười bốn là Quảng Tây, bộ thứ mười lăm là Quảng Đông,
Vua bảo Âu Nương rằng: “Ta là giống rồng, nàng là giống tiên, thủy hỏa không hợp”. Nhân đó mà phân 50 người theo cha về miền biển làm thủy thần, 50 người con theo mẹ về miền núi làm sơn thần, cùng nhau trấn trị các đầu sông góc biển, chia nhau hưởng lộc trời, cha truyền con nối, phát huy đất nước thành Viêm Hồng, có vua trị nước được hơn ba ngàn năm, phù trì cơ đồ mãi mãi vững như bàn đá, hiển ứng linh thông ở Nghĩa Lĩnh, truyền trăm đời đế vương ngự trị Nam Việt muôn năm. Ở điện thánh núi Hùng lập cung lăng miếu điện. Con cháu dòng dõi, công thần lớn nhỏ hết lòng lo việc nước, đều được thờ thờ phụng trong dân, hương khói lâu dài cùng ngày tháng không mất đi vậy.
Con cháu vua nhà Hậu Trần có thơ rằng:
Thập bát hùng đồ thế hữu truyền
Hậu [chung] tốn vị Thục vương yên
Nga mao kí lộ do thiên đạo
Vật dĩ Châu Nương bất thị hiền.
Lại nói, trải truyền ngôi đến thời vua Hùng thứ mười bảy là Nghị Vương, ngự trị ở sông Bạch Hạc, Việt Trì, đặt quốc hiệu là Văn Lang, đặt kinh đô ở thành Phong Châu. Nghị Vương là người đức rộng tài cao, có nhiều ý chí sáng suốt, giúp rập cho đời. Người đời sau đều khen đây là vị vua giỏi.
Đương lúc bấy giờ ở nước ta tương truyền rằng có ông Bộ chủ, vốn là dòng dõi Hùng Vương phân từ bọc trăm trứng, họ Hùng tên [Bích], làm Bộ chủ Ai Lao, cha truyền con nối trải mười bảy đời. Chính thất phu nhân của ông Bộ chủ trước khi qua đời, sinh được hai người con trai. Sau đó ông lại lấy người con gái trong một họ lớn ở huyện Gia Định, tên là Thận Nương, lập làm Đệ nhị phu nhân. Vợ chồng như đôi chim cưu hợp lứa, duyện lứa như đàn sắt quện với đàn cầm. Trải trong mấy năm, loan phương tình nồng, cực kỳ ân ái. Khi ấy phu nhân đã 23 tuổi.
Một hôm vợ chồng cùng pha trà uống nước ở lầu hoa gác Tây ngắm trăng hóng mát. Lúc ấy trời đã về khuya. Phu nhân dựa vào lan can bàng hoàng mơ thấy một con rồng vàng từ trời giáng xuống thẳng vào bụng mình. Phu nhân dùng hai tay ôm lấy, hét một tiếng rất to. Khi tỉnh dậy mới biết đây là giấc mộng kỳ lạ. Bèn kể lại cho ông Bộ chủ nghe. Ông bảo với phu nhân rằng:
“Giấc mộng ấy phải chăng là phúc? Nếu quả vậy nàng sẽ mang thai”.
Trải ba bốn tháng sau, phu nhân quả nhiên có mang trong mười bốn tháng. Vào ngày 15 tháng 10 năm Canh Thìn, hôm ấy trời đất tối tăm, gió mưa nổi lên dữ dội, cả một xứ có tiếng động ầm ầm, khí lành huy hoàng, hương thơm tỏa ra ngào ngạt. Đến giờ Thìn, phu nhân sinh được một người con trai thần phong lẫm liệt, thể diện khôi kỳ, tai vương, nhan rồng, mắt phượng, tướng mặt hài hòa, hàm én mày ngài, hình dạng cân đối, cao lớn đĩnh đạc. Sau một trăm ngày ông Bộ chủ đặt tên cho con là Thạc công (ông Thạc).
Từ đó xuân sinh hạ trưởng, ngày tháng trôi đi, đến khi trưởng thành, vào năm 14 tuổi tính vốn thông minh, khí tượng ung dung, thiên tư cao mại, trí dũng hơn người. Đương thời có tiên sinh họ Ngô dạy học ở đất Ai Lao, Thạc công đến theo học ở thầy được trong mấy tháng. Hễ Thạc công đi lại đến đâu đều có một đám mây tựa như chiếc long che trên đỉnh đầu, cả chỗ đó trở nên mát mẻ. Tư chất thông minh kỳ dị, chỉ học trong một năm mà chư sử bách gia đều thuộc làu. Văn tài chỉ trong bảy bước đã làm xong một bài thơ. Võ nghệ tinh thông, tam lược lục thao cùng binh pháp của Thái công không chỗ nào không tinh nhạy. Thiên tư khí độ vượt hơn người bình thường. Đức rộng tài cao, khoan nhân đại lượng, bản tính anh hùng, lòng nhân nghĩa chính, lòng hiếu trung hòa.
Đương thời gian đó tiên sinh họ Ngô thường khen khí chất của Thạc công không phải là người bình thường, về sau nếu không làm vương ắt sẽ làm bá. Bạn bè không ai không kính phục.
Lại nói bấy giờ nước Nam ta có dịch khí hoành hành, nhân dân đều bị mắc bệnh không chừa một chỗ nào. Đương khi ấy Thạc công có một người dì tên là Hiếu thị, lấy con ông họ Nguyễn người đất trang Hương Triện huyện Gia Định phủ Thuận An đạo Bắc Giang (mẹ Thạc công và Hiếu thị vốn cùng là con ông huyện lệnh huyện Gia Định, cùng một cha mẹ). Do vậy khi ông nghe tin nhân dân địa phương của dì mắc bệnh, gia đình của dì cũng bị mắc bệnh nên xin cha mẹ trở về đất Hương Triện thăm dì.
Hôm ấy ông cử giá về đất Hương Triện, đến nửa đêm các họ trong đất Hương Triện (bấy giờ trong trang Hương Triện có các tộc Nguyễn, Đào, Đặng, Phạm, Đỗ, Hoàng, Bùi, Lê, Trần và Phan lập thành một trang) vốn đang có người bị mắc bệnh, cùng nhau mơ thấy ôn binh quỷ chúng đang báo tin chi nhau rằng: “ Dân chúng ở đất này có thiên tử đang trở về làm phúc thần của dân. Binh lính của ta nên gấp chóng rút khỏi đây ngay, không thể lưu cư ở đây”. Vừa nói chúng vừa tự rút hết khỏi nơi này. Nhân dân nghe thấy thế liền tỉnh giấc thì trời vừa sáng.
Mọi người cùng thấy bệnh tật trong trang ai nấy đều qua khỏi. Hôm ấy nhân dân bàn luận, ai cũng bảo mình gặp một giấc mơ như thế. Mọi người cho là kỳ lạ, thực rất linh nghiệm, cùng nhau ra một ngôi quán đợi đến hết ngày xem sự thể ra sao. Chỉ trong một lúc quả nhiên thấy quân của Thạc công cử xa giá đến đây, thăm hỏi người dì và nhân dân bị mắc bệnh. Nhân dân ngầm nghĩ trong giấc mộng đã báo, nay lại thấy quả nhiên như vậy, lập tức làm lễ bái tạ, kể về giấc mộng, tự nguyện xin làm thần tử, xin ông cho tên húy để lập một sinh từ thờ ông làm thần, cơ hồ có nơi trấn trị quỷ xâm lấn từ bên ngoài.
Ông nghe xong đồng ý, cho tự hiệu để dân phụng thờ. Sau đó ông nhàn tản ngắm nhìn địa thế dân cư trong trang để chỉ bảo nhân dân lập sinh từ. Ông thấy địa thế nơi đây có chân long tú mạch, một dải dân cư ở gấp khúc như hình rắn bò, bên cạnh có ao hồ bao bọc, bốn hướng có phong tinh chầu về, bảng bút song hành. Núi Tam Thai chầu phía trước. Sông Thiên Đức chảy vắt ngang. Bên ngoài có một dải sông nhỏ ôm ấp. Bên trong có thế nước lòng vòng, long châu 9 khúc.
Ông truyền nhân dân lập một sinh từ tại đầu địa giới dân cư, phía trước có đất kết cục tạo thành thế đầu rồng. Bên cạnh có giếng ẩn bút chầu phía sau. Tam Thai ứng phía trước. Bên phải bên trái lớp lớp chầu về, quanh co ở bên ngoài. Sinh từ nằm dựa Đông Bắc hướng Tây Nam, thu chính mạch rồng từ phương Tốn, tất cả đều chầu về, tạo thành quý cục.
Nhân dân xây dựng hoàn thành, ông mới lưu nghỉ tại sinh từ, mở yến tiệc trong hơn một tháng, khoản tiếp người dì và nhân dân địa phương cùng dự hưởng. Sau đó ông lại cử giá về đất Ai Lao trải trong mấy năm. Bấy giờ ông mới 22 tuổi.
Đương thời vua nước Thục sinh muộn được một người con gái tên là Hằng Nương công chúa, không có con trai kế vị, nghe phong thanh Bộ chủ Ai Lao sinh được thứ tử Thạc công, vốn là người anh tài lương tuấn, mới dẫn quân đến xin ông Bộ chủ cho Thạc công kết duyên với Hằng Nương công chúa, rồi nhường ngôi cho Thạc công. Ông Bộ chủ Ai Lao đồng ý.
Từ đó Thạc công trở về nước Thục, được vua nước Thục gả công chúa và nhường ngôi báu. Đến khi vua Thục băng hà, ông lên ngôi vua xưng là Thục An Dương Vương. Ông nối thừa quyền nhạc phụ, khiến thiên hạ thanh bình, nhân dân nước Thục sống yên vui. Người dân cày ruộng đào giếng, khắp nơi rộn rã tiếng đàn ca, nghỉ việc võ, sửa việc văn, chăm lo giáo hóa, bốn biển đón cảnh tượng thái bình.
Lại nói nước ta khi Nghị Vương ở ngôi được 162 năm thì Nghị Vương băng hà. Thái tử Duệ Vương lên ngôi kế vị. Đến lúc ấy nhà Hùng đã trải 18 đời với hơn 2000 năm hưởng nước, nối truyền ngôi báu đã lâu. Do lòng trời định như thế.
Khi Duệ Vương lên ngôi, lúc ấy thế nước cáo chung, cơ đồ mạt tạo. Duệ Vương sinh được 20 hoàng tử đều nối nhau về nơi tiên cảnh, cùng 6 nàng công chúa chỉ còn lại 2 người. Một người gả cho Chử Đồng Tử, một người gả cho Tản Viên Sơn Thánh. Duệ Vương không có người lập hậu mới triệu Thạc công (tức Thục An Dương Vương), nguyên từ Bộ chủ Ai Lao cũng là miêu duệ nhà Hùng, đến kế vị. Nhân đó Duệ Vương trao nỏ rùa lẫy thần cho Thục Vương để quản lý thiên hạ, đó là đồ quý báu của cơ đồ họ Hùng.
Lại nói, Thục An Dương Vương (húy Thạc) từ lúc nhận ngôi báu cơ đồ họ Hùng, chỉ khoanh tay rủ áo mà nước được thịnh trị, bốn biển thanh bình, người dân vui tiếng đàn ca, trong ngục không còn tiếng người kêu oan trái, vua sáng thần mình. Đương lúc ấy có ông Cao Lỗ giữ chức Tổng chính, Vũ Công Lỗ giữ chức Nghị chính, Phan Công Bính giữ chức Tham nghị triều chính, Nguyễn Tuấn (người trang Hương Triện) giữ chức Ty chính bình vụ, đều là những trung nghĩa lương thần của Thục An Dương Vương. Cai trị hơn 60 năm, lấy đức giáo hóa dân làm gốc. Vua tự tuân theo phúc họ Hùng, dời đô đến thành Cổ Loa. Đương lúc ấy vua lấy đất Hương Triện là nơi cung sở thêm, nên cho được miễn trừ việc binh lương, vinh hiển dồi dào, thấm nhuần tước lộc, cùng nhau chung hưởng đức độ của vua, thực là thịnh vậy.
Lại nói bấy giờ có người phủ Cửu Chân, Nam Hải, họ Triệu tên Đà, phát động hùng binh kéo đến đánh Thục Vương để cướp nước. Nhưng vì Thục Vương có nỏ rùa lẫy thần là báu vật giữ cơ đồ họ Hùng nên trải bốn năm năm giữa Triệu Đà và Thục Vương rồng hổ tranh đấu nhiều phen. Hễ dương nỏ là quân của Triệu Đà đại bại Trong lúc trống mái chưa định, cò trai dằng co, không ngờ đạo trời lại khiến như thế. Tuy có nỏ rùa lẫy thần là báu vật nhưng do thế nước cáo chung nên cũng khó mà bảo vệ.
Lúc ấy Triệu Đà thấy Thục An Dương Vương có thần cơ dị thuật, lại trong nước có nhiều người tài giỏi nên dù đem binh cũng không địch nổi. Một hôm Triệu Đà bảo với các tướng sĩ rằng: “Thục Vương có thần tài dị thuật, nếu đánh thì quân ta khó thắng. Nay tiếp tục mang quân sang đánh quân Thục thì tất lại thu lấy thất bại. Chẳng bằng dùng mưu mà lấy được nước đó. Nay ta định dùng lễ cống xin làm nước anh em, giả làm kế cầu hòa để dò xét ý của Thục Vương ra sao. Ví như được lòng trời ta sẽ đánh một trận là thành đại nghiệp”.
Các tướng nghe xong tất cả đều đồng thuận. Nhân đó Triệu Đà sai bề tôi mang kễ đến Thục An Dương Vương xin cầu hòa. Thục Vương thấy sứ giả nhà Triệu mang lễ cống cầu hòa liền đồng ý. Từ đó kết làm nước anh em, giữ tình tín ái.
Bấy giờ có ông Cao Lỗ giữ chức Đại tướng cho Thục Vương, có thừa trí dũng, trung nghĩa vô song, nhưng bị quần thần nói dèm pha, khiến Thục Vương giáng chức, đày lên Thái Nguyên cho giữ chức huyện lệnh ở châu Bạch Thông. Cao Lỗ từ khi nhậm chức ở đây hổ báo trong địa phận sơn lâm bản châu nghe uy đức của ông, tất cả đều quy phục. Cao Lỗ do chứa hận trong lòng, phát thành chứng bệnh ung thư, hóa tại đất bản châu. Hổ thú rước về đất Đồng Than an táng, về sau lập đền tại sông Thiên Đầu, nhân dân thờ tự, có nhiều linh ứng.
Lại nói, sau đó mấy năm, Triệu Đà lại nghe tin Thục Vương có người con gái tên là Mỵ Châu công chúa. Triệu Đà mới xin cầu hôn cho con trai của mình là Trọng Thủy. Thục Vương cũng đồng ý gả cho Trọng Thủy. Đường thời các trung thần đều can gián, nhưng vua không nghe, lại bảo với quần thần rằng: “Ta có lấy thần của báu của trời thì sợ gì quân Triệu? Vả lại ta không phải là người bất nhẫn”.
Các nghĩa sĩ lương thần can ngăn không được đều từ quan trả chức xin về quê. Âu cũng là do lòng trời bỏ Thục mà theo về Triệu, khiến đức của vua tối tăm, còn lương sĩ quân thần thì đều xa lánh.
Lại nói Triệu Đà nghe tin quân thần của Thục Vương tự di phế nhau, ngầm nghĩ đến việc môi hở răng lạnh, lập tức mật báo cho con trai Trọng Thủy lấy chỗ thân ái mà do thám tình hình trong nước, tất được Trọng Thủy làm theo. Từ đó Trọng Thủy ra vào chỗ bệ hạ, Thục Vương lại rất tin yêu.
Một hôm nhân lúc rỗi, trong phủ vô sự, Trọng Thủy mới hỏi công chúa Mỵ Châu rằng: “Ngày xưa trong lúc hai cha ta hiềm khích giao tranh, cha nàng có dị thuật gì khiến cho cha ta luôn phải thất bại vậy?”.
Thế là công chúa Mỵ Châu liền chỉ vào nỏ rùa lẫy thần. Trọng Thủy hiểu rõ mới tạo một chiếc lẫy khác đem vào đánh tráo. Sau đó tâu với Thục Vương xin trở về thăm cha. Thục Vương đồng ý.
Trọng Thủy lại lấy nệm gấm lông ngỗng trao cho công chúa Mỵ Châu và dặn: “Hai nước có động tĩnh bất thường, nay ta xin về thăm thân phụ, không biết nhanh chậm thế nào. Nếu có binh cách xảy ra, thắng thua khôn lường nên có lông ngỗng cho nàng đánh dấu đường. Ta sẽ theo đó mà tìm đến sau”.
Công chúa Mỵ Châu nghe theo lời dặn. Khi Trọng Thủy về đến thành phủ mang lẫy nỏ báo cho thân phụ, Triệu Đà được lẫy nỏ liền phát động hùng binh tiến đánh Thục Vương, cho quân vậy thành. Thục Vương ngồi trên thành bảo Triệu Đà rằng: “Ta có nỏ thần, quân Triệu không sợ chăng?”.
Quân Triệu Đà ngày một mạnh, xông vào giáp công. Thục Vương dương nỏ bắn nhưng không hiệu nghiệm, biết là mất lẫy thần, bèn cưỡi ngựa cùng công chúa Mỵ Châu, cha con đều chạy.
Công chúa Mỵ Châu cưỡi ngựa chạy phía sau, cứ theo lời giao ước với Trọng Thủy mà rắc lông ngỗng đánh dấu đường. Kịp lúc quân của Triệu Đà theo lông ngỗng truy đuổi Thục Vương, đến khi cùng quẫn, Thục Vương mới ngầm cầu rùa thần đến cứu giúp (do trước đây Duệ Vương trao nỏ thần cho Thục Vương bảo rừng về sau hễ gặp nạn thì hô rùa thần đến cứu giúp). Thục Vương cầu khấn xong bỗng thấy sóng to nổi lên dữ dội. Rùa thần đột nhiên nổi trên sông quay lại bảo Thục Vương rằng: “Giặc ở phía sau nhà vua!”.
Thục Vương quay đầu nhìn phía sau thấy công chúa Mỵ Châu đang phóng ngựa rải lông ngỗng, vua mới bảo Mỵ Châu rằng: “Mỵ Nương con đã giết cha!”.
Mỵ Châu nghe xong, thề cùng trời đất, ngay lúc ấy (tức ngày mồng 2 tháng 12) nhảy xuống sông tự vẫn. Thục Vương cưỡi ngựa chạy đến cửa Nam Hải thì đã thấy rùa thần rẽ nước thành đường. Thục Vương tay cầm ngọc tê dài 7 thước đi vào biển hóa sinh bất diệt.
Về sau nhân dân địa phương ở Nam Hải đều lập đền thờ cúng. Đến triêu Hậu Lê Thánh Tông đi đánh Chiêm Thành, thần có công âm phù giúp nước, có nhiều linh ứng, nên được phong là Nam Hải Đại vương.
Lại nói, đương khi ấy có ông Nguyễn Tuấn giữ chức Ty chính, người trang Hương Triện, huyện Gia Định, vốn là bề tôi của Thục Vương, do can gián vua nhưng vua không nghe, mới từ chức trở về dưỡng nhàn ở quê. Nghe tin vua đã hóa, Triệu Đà lấy được nước, mới truyền nhân dân (tức trang Hương Triện) cứ tuân theo húy tự là Thạc Đại vương mà lập đền ở hội đồng cung sở để thờ cugs. Còn Nguyễn Tuấn vào đất Ái Châu xuất gia đầu Phật, xuống tóc ăn chay, mải miết dạo ngắm trời đất, không quay về quê quán. Về sau mất tại chùa Ngọc Xá, huyện Tống Sơn, nhân dân địa phương thờ cúng.
Lại nói cho đến thời Đông Hán, Ngô, Tấn, Tề, Lương cộng là 349 năm, trải đến nước Nam có các đời Đinh, Lê, Lý, Trần gồm 4 họ khai sáng cơ đồ, vị Thạc Đại vương thường âm phù giúp nước, che chở dân, anh linh hiển hiện, nên được các đời đế vương gia phong là Thượng đẳng phúc thần, hương hỏa thờ cúng không dứt.
Lại nói, trải đền thời bấy giờ có người họ Lê, tên húy là Lợi, người trang Lam Sơn, huyện Lương Giang, phủ Thiệu Thiên, Ái Châu đứng lên khởi nghĩa, tập hợp nghĩa binh, tiễu trừ họ Hồ, tiêu diệt người Minh, lên ngôi Hoàng đế ở Lam Sơn (tức Thái tổ Cao Hoàng đế), đặt niên hiệu Thuận Thiên. Khi đang còn khởi nghĩa, vua đi qua ngôi đền của trang Hương Triện, vào đây cầu đảo vị âm thần phù giúp nước đánh giặc, sau khi bình xong giặc Minh, sẽ bao phong mỹ tự Thượng đẳng Phúc thần, thờ cúng lâu dài cùng đất nước trường tồn giữ làm lệ thường. Về sau đánh đuổi được giặc Minh, đất nước thanh bình, vua bèn gia phong mỹ tự, vạn đời là Phúc thần. Đức của thần thịnh vậy.
– Phong cho thần là Thạc thần Đại vương. Chuẩn cho dân của trang sở tại Hương Triện phụng thờ.
Lại nói, từ khi Lê Thái Tổ khai sáng cơ đồ trải truyền các đời vua Thái Tông, Nhân Tông, Thánh Tông, Hiển Tông, Chiêu Tông đến đại thần họ Mạc tiếm quyền (tức Mạc Đăng Dung, là huyền tôn của Mạc Đĩnh Chi), trải năm đời làm vua với hơn 60 năm. Đến vua Trang Tông cùng đại thần họ Nguyễn có mưu kế lớn, khôi phục nghĩa binh, tiễu trừ họ mạc. Từ đó nhà Lê làm đế, họ Nguyễn là vương, tiền Lê, hậu Lê thần đều có công âm phù giúp nước, che chở dân, linh ứng tỏ rõ. Do vậy trải các đời đế vương đều được gia phong mỹ tự là Thượng đẳng Phúc thần, cùng đất nước dài lâu giữ làm lệ thường. Đức của thần thịnh vượng vậy (đền thờ chính của thần ở Cổ Loa, là nơi quốc tế, làm dân tạo lệ)
Lệ về ngày sinh, ngày hóa của thần cùng ngày tiệc, sắc phục, tên húy nhất thiết phải cấm, được ghi như sau:
– Ngày sinh của thần: 15 tháng 10, lấy làm lệ chính. Làm lễ trước một ngày, rước thần làm lễ tế, sửa lễ gồm cỗ chay, lợn, xôi, trầu, rượi. Ngày hôm sau (chính nhật) sửa lễ gồm bò, ca hát trong 3 ngày thì dừng.
– Ngày hóa của thần: mồng 2 tháng 12. Sửa lễ cỗ chay, lợn, xôi, trà, hoa quả, trầu cau.
– Ngày tiệc: 12 tháng 8. Làm lễ rước thần cáo tế. Sửa dùng lợn, bò cũng có thể được, ca hát tùy nghi.
– Ngày tiệc: mồng 7 tháng Giêng. Làm lễ trước một ngày, rước thần làm lễ tế cáo như ngày sinh của thần. Ngày hôm sau sửa lễ gồm bò, ca hát, đánh cờ, đấu vật trong 10 ngày thì dừng.
– Ngày tiệc: 12 tháng 9. Sửa lễ dùng lợn, xôi, rượu, ca hát tùy nghi.
– Ngày tiệc: 12 tháng 3. Làm lễ, ca hát tùy nghi.
– Ngày tiệc: mồng 10 tháng 11. Làm lễ tùy nghi.
– Tên húy của thánh phụ, thánh mẫu xem trong Ngọc phả này đều cấm dùng, cùng lệ về các ngày tiệc, thánh phụ thánh mẫu đều được phối thờ.
– Tên húy gồm chữ Thạc, nhất thiết cấm dùng, cùng hai chữ Nam, Hải phải tránh âm, sắc phục khi hành lễ, màu vàng, màu tía đều không được dùng. Lông ngỗng nuôi dưỡng cấm không được dùng.
Ngày mồng 10 thánh Giêng niên hiệu Hồng Phúc năm thứ nhất (1572) Hàn lâm viện Đông các Đại học sĩ, bề tôi là Nguyễn Bính vâng mệnh soạn bản chính.
Ngày tốt tháng 2 niên hiệu Vĩnh Hựu năm thứ 3 (1737) Quản giám bách thần Tri điện Hùng lĩnh thiếu khanh, bề tôi là Nguyễn Hiền phụng mệnh sao lại theo bản chính.
Người dịch TS. Nguyễn Hữu Mùi, Viện nghiên cứu Hán Nôm năm 2009.
Ngọc phả cổ chép về Phụ ký Cương nghị Hùng kiệt Đại vương phò mã Hùng triều Việt Thường Thị Lý Lang Công (lấy con gái thứ sáu của Nghị Vương là Nguyệt Cư Công chúa sinh 12 vị thần quan nhận quản 17 bộ nhánh)
Xưa Hùng Vương Sơn nguyên Thánh Tổ Nam thiên Đại bảo Tiền Hoàng đế gây dựng cơ đồ, là thủy tổ Việt Nam, lập nước Cổ Việt Thường, họ Hùng 16 đời thánh vương ngự trị trời Nam, khai mở vận đế thánh, vua sáng. Núi xanh vạn dặm dựng nền cung điện đô thành. Mở vật giúp dân, thống quản 15 bộ
(Khi ấy vua Hùng Lạc Long Quân lấy Âu Cơ làm chính cung, ở tại núi Nghĩa Lĩnh. Âu Cơ mang thai 33 năm, sinh được một bầu trăm trứng, nở ra điềm tốt trăm trai, đều có tư chất hơn người, anh hùng vượt thế. Đến khi trưởng thành Vương bèn chia hầu, lập bình phong, chia nước thành 15 bộ. Một là Sơn Tây, hai là Sơn Nam, ba là Hải Dương, bốn là Kinh Bắc, năm là Hoan Châu, sáu là Ái Châu, bảy là Bố Chính, tám là Ô Châu, chín là Ai Lao, mười là Hưng Hóa, mười một là Tuyên Quang, mười hai là Cao Bằng, mười ba là Lạng Sơn, mười bốn là Quảng Tây, mười lăm là Quảng Đông.
Khi đó Vương nói với Âu Cơ rằng:
Ta là giống rồng, nàng là giống tiên, chủng loại không cùng, nước lửa tương khắc.
Vì thế chia tương biệt, chia 50 con theo cha về biển làm Thủy tinh, 50 con theo mẹ lên núi làm Sơn tinh. Phân rõ các chư vương trấn ở sông núi, cùng là thần thuộc vậy. Sau phân thành trăm họ từ đó.)
Thế mạnh trấn áp phiên chúng, rạng rỡ đất nước Viêm đồ. Có vua trị nước hơn ba ngàn năm, mãi mãi dòng giống vững như bàn đá, hiển ứng linh thiêng nơi Nghĩa Lĩnh, truyền trăm đời đế vương nước Nam, ngự muôn năm thánh điện núi Hùng, là Thánh tổ trời Nam, nền móng quốc gia, cơ đồ hùng mạnh, muôn năm còn lưu mãi vạn đời. Bèn lập các cung, lăng, miếu, điện. Con cháu dòng dõi hoàng gia phân ở các đầu núi, trị ở quận Giao Chỉ tại các nơi xứ phủ, huyện, dân trang, động, sách. Phụng thờ hương khói lưu truyền vạn đời. Phối cùng với nhật nguyệt rạng soi. Sánh với trời đất cao dày vậy. Sau Vương tiên sinh có bài tán rằng:
Nam thiên khởi tạo tự Hùng Vương
Vạn cổ trường lưu lập kỷ cương
Nhất thống tương truyền thập bát diệp
Nhị thiên dư tải ức niên hương
Nhất bào bách noãn giai sinh thánh
Lưỡng tế thăng thiên bất tử phương
Hoàng tử vương tôn thiên vạn tải
Thần tiên tương phối dữ tài lương.
Lại nói, triều Kinh truyền 17 đời đến thời Nghị Vương ở ngôi, đóng đô tại Việt Trì bên sông Bạch Hạc, dựng nước tên gọi Văn Lang, kinh đô gọi Phong thành. Nghị Vương có hùng tài đại lược, chính trực cương nghị, cũng có khí tượng quy mô, kế trị các đời yên bình. Thiên hạ trong nhà vui đủ, giữ bên ngoài được an ninh. Ai ai cũng gọi là vị hiền quân vậy.
Đương khi ấy, tương truyền ở sách [trang] Thủy Vân, phủ huyện Thiệu Thiên, quận Ái Châu có một nhà trưởng bộ (họ Lý húy Tuyên). Khi ông trưởng bộ 29 tuổi đã lấy người cùng trang sách là bà Võ Thị Thiệu. Được 3-4 năm, loan phương tương xứng, cầm sắt giao hòa. Than ôi, đạo trời lại đến bất hạnh. Bà Võ mất sớm. Về sau ông có việc quan đến ở kinh đô (tức thành Phong Châu). Khi ấy có người tại Thời Mại, gia đình ở kinh đô, hàng ngày lấy việc buôn bán làm nghề. Vả lại người chồng trước đây sớm mất, chỉ còn thái bà họ Nguyễn (chồng của bà họ Nguyễn tên Xuân, vốn là người xã Thời Mại, huyện Sơn Vi, phủ Thao Giang, ở tại kinh thành buôn bán, tuổi ngoài 60 thì mất), tuổi gần 70, sinh được một người con gái là Nguyễn Thị Loan. Đến tuổi 21 thật có đạo nữ hiền hòa, dung mạo thanh tú, cùng với mẹ buôn bán ở kinh thành.
Trưởng bộ Lý khi đó có việc quan lên kinh đo, ở tại gia đình của hai mẹ con. Trưởng bộ thấy nàng có đức hạnh như vậy, trong lòng rất yêu quý nên hỏi cưới. Thái bà đồng ý gả cho. Ông ở nhà vợ tại kinh thành cho tiện làm việc quan cùng với việc buôn bán các đồ tơ vải. Vua nghe nói ông có kỳ tài, lại có đức tốt, bèn cho quản trưởng phường tơ vải trong thiên hạ. Ông từ khi yên bề gia thất, vợ chồng duyên đẹp, uyên ương hợp bạn, cầm sắt cùng vui. Được quãng 3-4 năm mà chưa thấy điềm ngọc sáng. Khi đó ông đã hơn 40 tuổi, bà Nguyễn cũng gần 30. Một hôm lúc thanh nhàn ông mới nói với bà Nguyễn rằng:
Nhà ta có phúc, chỉ cố tạo phúc, làm việc nhân, tấm lòng từ thiện. Nay tuổi đã cao mà chưa thấy điềm sinh nở. Liệu hoặc ý trời chưa đạt vì việc người còn khiếm khuyết. Cho nên chi bằng một lần cầu đảo, biết đâu lại được chim yến báo hỉ, như thế mới yên được nguyện ước bình sinh.
Nói rồi hôm đó chuẩn bị làm lễ chay ba ngày, lập một đàn tế tại giữa sân, cầu đảo trời đất quỷ thần. Ba ngày liền cầu nguyện trời đất đến chứng. Chúc xong lại cầu đảo ba ngày. Sau khi câu xong 3 ngày thì đêm ấy thái bà Lý (tức là vợ ông) nằm ngủ mơ màng, bỗng thấy một ông lão ngồi mây lơ lửng trên không, tay cầm một cặp cần câu ở bên sông Tam Kỳ của sông Hạc, câu được một con rồng vàng. Thái bà Lý đứng ở bên bờ sông xem việc đó. Lão ông thấy thái bà bèn nói rằng:
Gia đình nhà ngươi phúc hậu, đến tận Trời cao. Nay ta câu được một con rồng vàng, có thể cho vào nhà bà làm đồ quý báu.
Thái bà Lý nghe ông lão cho vậy trong lòng rất vui mừng, hai tay ôm lấy con rồng vàng rồi bay lên trời. Bỗng nhiên tỉnh lại mới biết là điều mộng. Thái bà đem việc trong mông nói với ông Lý. Ông bèn nói với thái bà rằng:
Nếu đúng như trong mộng vậy thì một là thăng quan, hai là sinh ra quý tử. Việc tồn nghi chưa rõ thì sau này sẽ hay. Hãi cứ mạnh dạn mà đoán như vậy đã.
Sau khi nói, thái bà quả nhiên có mang. 33 tháng đến năm Đinh Mùi tháng 8 ngày 9 sinh hạ một con trai, mặt mũi rất lớn, năm gò chầu trời, hàm én mày hổ, vẻ rồng mắt phượng, tay dài quá gối, trán có điểm sao Bắc đẩu, cao hơn người thường. Thánh chất vốn bẩm thông minh. Cha mẹ cho nhập học với Lã tiên sinh. Được 4-5 năm sách của chư tử trăm nhà đều quán thông hết, lại tinh thông binh pháp Thái Công, không đâu là không biết tiếng thơm, bốn biển uy động 9 tầng, đương thời đều gọi là Thánh đồng.
Khi ông được 5 tuổi, theo mẹ đi chơi ở chợ Phong Châu (tức chợ sông Hạc, khi đó thành đô ở tại lầu thượng, lầu hạ đất Việt Trì, đều là kinh đô của Hùng Vương) để mua giấy sách. Bỗng nhiên thấy một ông lão ở phường chài đem một con cá xanh thân dài 2 thước rưỡi đến gặp lão bà. Mẹ con cùng mua con cá xanh đó bằng 9 mạch tiền của thái bà. Mẹ con đem cá trở về nhà, rồi mổ bụng bên trong được một thanh kiếm thần, cán đều làm bằng ngọc kim cương. Lang công bèn cầm kiếm lên xem, thì nghe trong kiếm có tiếng quỷ khóc thần kêu không dứt. Lang công thấy sự đó cho là lạ, bèn cầm kiếm và nói với kiếm rằng:
Ta vốn có anh tài trời cho, nay có thể lại được thanh kiếm thần này.
Tiếng quỷ khóc, chúng thần đều ngừng bặt. Ông nói xong thì từ đó đều yên lặng, không còn thấy tiếng kêu nữa. Lang công từ khi được kiếm về sau tâm tự thấy khảng khái, có chí tang bồng, có nhiều tài lạ thuật dị, đức lượng hơn người, anh hùng trùm thế. Lang công tuổi 21 uy danh đã lẫy lừng, bốn biển anh hùng đều quy phục.
Khi ấy Nghị Vương đam mê tửu sắc, vui chìm trong yến ẩm, không tu luyện võ nghệ, không phòng bị biên giới. Quốc gia trở nên biến loạn bất thường, những đầu sỏ nổi lên, ở ngoài biên ải thường có trộm cướp. Vua bèn mở khoa tuyển người hiền lương phương chính, văn võ toàn tài để giúp việc nước.
Vua bèn truyền hịch đi các phủ, huyện, châu quận cho nhân dân ai có tài đức thì đến kinh ứng thí. Khi ấu Lang công ứng tuyển vào trường thi ở kinh (tức trường ở Phong Châu), rồi gặp bệ rồng, hỏi thi văn võ, thật có kỳ tài dị thuật, trí dũng anh hùng, tinh thông võ nghệ, tài văn sâu rộng, đối đáp như nước. Vua cảm thấy đây tất là thiên tài giáng thế để giữ nước giúp dân, không phải người tầm thường, rất xứng đáng được trao chỉ.
Khi ấy Vua có nàng công chúa thứ sáu tên là công chúa Nguyệt Cư (39 cung phi của Nghị Vương sinh được 22 hoàng tử và 15 công chúa. Công chúa Nguyệt Cư chính là do cung phi thứ 5 mộng thấy phượng hoàng bay vào trướng mà có mang. Đến năm Đinh Mão tháng Giêng ngày mồng 3 thì sinh, tên gọi Nguyệt Cư, tính vốn thông minh, là bậc nữ trung Nghiêu Thuấn, có dung mạo chim sa cá lặn, nguyệt thẹn hoa nhường. Khi sinh công chúa được 3 ngày đã có thể thích nghe hát xoan nữ. Xưa các vương tông triều Hùng cùng trăm quan khi có sinh con đều có phường hát của huyện Phù Khang phục vụ). Vua gọi Công đến rồi sau đó gả cho Lang công, trao cho chức quan bồ chính điều phối vũ khí quân đội trong thiên hạ, phong là Phụ ký.
Khi đó có nhiều trộm cướp. Vua sai phò mã dẫn quân đi phòng ngự biên giới, tuần du các đạo. Lúc ấy, Lang công bèn nhận mệnh đường đường từ cổng thành tiến ra, tay cầm kiếm thần, tiến thẳng đến vùng mười châu. Đi đến khu vực xã Thời Mại, hôm ấy (mồng 4 tháng 5) nhân dân dựng hành cung làm lễ bái tiếp.
Ông đóng quân, đi xem xét làng quê bên ngoại. Ông lại xem địa thế dân cư, thấy có hình dáng như rồng và rùa cùng nằm, từ núi Nghĩa Lĩnh phân mạch quay về đất tổ, thật là một thế cục quý. Ông lại thấy phong tục nhân dân thuần hậu, làng xóm hòa thuận, lại chính là làng quê bên mẹ, đâu phải đất xa lạ. Hôm ấy ông nói với nhân dân, phụ lão rằng:
Hôm nay vì còn việc nước, ta tuần xét trộm cướp trong thiên hạ, chinh Đông dẹp Tây, chưa được ở yên. Đến ngày sau khi thiên hạ được bình yên, ta tất sẽ lập cung ở cùng với nhân dân làm nơi đô ấp. Ngày nay thiên hạ sinh ra nhiều trộm cướp, rồi một mặt sông Thao những đảng dữ rất thịnh ở các xứ. Lại còn có quân Thục thường hay xâm nhập vào nước ta, dụ dẫn lòng người đêm tâm mưu phản quốc.
Vì nơi sông Thao xuất quân chống quân Thục rất tiện nên Ông truyền cho binh sĩ, nhân dân lập một đồn lớn ở đất xã Thời Mại để chế ngự đạo tặc. Nhân dân nghe lời rằng sẽ lập một đồn ở đất đó để trấn thủ thì đều rất vui mừng, đồng lòng phục xin làm thần tử. Ông đồng ý. Khi ấy Ông dâng biểu tấu về triều xin được nhận trị ở đất đó (tức đất Thời Mại), chế ngự giặc cướp cùng với quân Thục, lấy làm đồn chính đóng giữ. Vua đồng ý. Ông đến nhận ở đất đó, truyền phân các đạo binh mã đến các nơi quận, huyện, châu, trang, động, sách, phân bổ lập đồn đóng quân để chế ngự đạo tặc.
Sự xong thì đạo quân chính của Ông đi xem xét các nơi đồn binh. Hễ nơi nào có trộm cướp, gian đảng, đầu sỏ nghe đạo quân chính của Lang công tiến đến đều tự nhiên sợ phục mà hàng. Còn nơi nào gặp phải việc chiến trận, Ông lấy kiếm thần giơ lên, đảng gian không đánh tự thấy kiếm mà sợ hại bỏ chạy. Ông đi tuần chế ngự đạo tặc qua ba tháng thì những âm mưu khởi loạn trong thiên hạ đều được Lang công bắt sống hết, đuổi về nơi chốn của chúng. Đạo tặc bị quét sạch, thiên hạ thái bình. Ông phụng chiếu quay trở về thành, dâng biểu tấu, bái tạ trước bệ rồng. Vua rất vui mừng xem đó, ngay hôm ấy lại phong Lang Công là Ninh Hải quận vương (thuộc đất sáu châu), thưởng ban vàng bạc cùng sợi gấm, lụa trắng hơn trăm cân. Ông lại tâu thỉnh lập cung ở làng quê ngoại (tức trang Thời Mại) làm nơi đóng sở. Vua đồng ý cho lấy đất đó làm đất Thang mộc ấp của Ông.
Khi đó Ông khấu tạ trước bệ, xin về đất trang Thời Mại. Ngày hôm ấy (mồng 9 tháng 2) nhân dân làm lễ bái đón. Ông truyền nhân dân lập cung ở nơi có hình trán rồng (đất đó phía sau có động cao dẫn mạch đều như mây phủ rồng chầu, trái phải nhất nhất đều chầu, trước mặt có dòng suối nhỏ, hai bên và trước sau đều có dòng nước chảy quanh, quay về hội ở chính đường, trước có đầm sen bán nguyệt, chợ đối diện trước cung, là nơi anh tài đô hội, lập nơi đó làm phủ trị, một vùng trái phải đều là cách rồng mây đứng chầu, phượng rùa đến chầu ở nơi đất chính cung).
Việc xong, hôm ấy đón công chúa Nguyệt Cư quay về cung ấp mà ở đất ấy (tức đất Thời Mại). Được vài tháng thì cha mẹ ở kinh đô bỗng nhiên đều tạ thế (tức ngày mồng 5 tháng 2). Lang công cùng với công chúa quay về kinh đô, tâu lên vua. Vua nghe tin bèn sai đình thần đến làm lễ an táng cho ông bà tại bên trong thành. Sự xong, Ông cùng công chúa ở tang 3 năm, đến khi mãn tang mới quay trở về cung ấp (tức cung ấp Thời Mại), lại mở một cái chợ ở mảnh đất trước cung để tiện cho việc quân và cùng với nhân dân buôn bán, để làm nơi đóng vương cung đô phủ. Từ đó ông bà ở tại đó đảm nhận việc phụng sự gia tiên các bên nội ngoại, lấy đức giáo hóa nhân dân, chia tài sản tạo phúc.
Ông là người vốn có lòng khoan dung đại độ, thưởng ban dân tình, giúp nghèo, dưỡng lão, lấy nhân nghĩa mà giáo hóa nhân dân đều có được thuần phong mỹ tục, vinh dự đủ đầy có thừa. Công chúa cũng một lòng trung hậu, đức nữ hiền hòa, phong tư tốt đẹp dẫu Tề Khương, Tống Nữ cũng không bằng, con vua dòng tiên một bề kết phối. Vợ chồng đều một lòng trung hậu. Phụ lão nhân dân (tức trang Thời Mại) đều nhất nhất coi như ơn sâu như núi sông, đức lớn như trời đất.
Khi ấy Ông tuổi đã ngoài 30. Công chúa Nguyệt Cư 28 tuổi. Một hôm buổi tối công chúa Nguyệt Cư đang nằm ở chính nơi Tây cung, mơ màng vào mộng đi lên đỉnh núi Thứu Lĩnh, bỗng thấy một áng mây năm sắc bay trên đỉnh núi. Công chúa đến nơi xem xét, mới thấy mây năm sắc đều bay lên trên không. Trong mây lại có một con rồng vàng cũng theo mây mà bay lên trời. Lại thấy ở nơi rồng mây đó có một hang huyệt bên trong có 12 chiếc trứng. Công chúa nhặt trứng bọc vào trong áo, đem về đến đường lớn thì 12 trứng đều đồng loạt nở ra 12 rồng con, tất cả đều có hình như rắn thằn lằn. Công chúa sợ hãi bèn bỏ ở giữa đường. Bỗng nhiên tỉnh lại, mới đem mộng đó nói với Lang Công.
Lang Công bèn nói với công chúa rằng:
Nếu quả như trong mộng thì tất là điềm sinh quý tử, đúng là những anh tài tuất kiệt, nhập làm con trong nhà ta, không phải tầm thường. Sớm như trong mộng, nửa đường đã thả, có thể có ý liên quan, chưa chắc gia đình giữ được lâu dài.
Lang Công nói xong, năm ấy công chúa quả nhiên có mang thai, tới năm Giáp Thìn mồng 6 tháng Giêng sinh ở vọng cung (tức cung Đàm Lã) một người con trai, mặt mũi to lớn, mắt tú mày thanh, thật là kỳ dị, nhân gian không có ai có tướng như vậy. Được trong trăm ngày cha mẹ đặt tên là ông Tràng. Đến năm Bính Ngọ mồng 9 tháng 8 công chúa lại sinh một bọc ba con trai. Đến năm Mậu Thân mồng 3 táng 3 lại sinh một bọc 2 con trai. Đến năm Nhâm Tí ngày 12 tháng 10 lại sinh 1 người con trai. Mỗi lần như vậy trời đất mờ tỏ trong 3 ngày, mưa gió kinh trời, sấm sét khắp đất, mùi hương thơm gió nồng nàn trong phòng sinh nở, khí lành rạng rỡ nơi sinh. 12 người con trai đều có phong tư đẹp đẽ, thể mạo khôi kỳ. Phò mã Lang Công trong lòng suy tưởng mà nói:
Gia đình ta có dư phúc hậu nên trời sinh đám thánh, đất xuất chúng hiền, đều cùng báo nhập vào làm con trong nhà. Nếu như không phải vậy thì tất là yêu đồ, quỷ đảng tác loạn, tự sinh ra kỳ sự vậy.
Liền hôm ấy dâng biểu tâu lên vua thuật lại chuyện sinh nở kỳ lạ, Vua nghe tấu đó bèn thốt lên:
Phúc đó! Phúc đó! Con gái ta đức thật nhiều nên lòng trời đã định, quần hiền các thánh đều đến nhập vào nhà làm con, đúng là những thiên tài giúp nước, những người sẽ trợ vận giúp dân vậy.
Ngay hôm đó Vua mới đặt tên cho các chàng (12 ông đều là con của công chúa Nguyệt Cư, tức cháu ngoại của Nghị Vương). Thứ nhất là chàng Tràng, thứ hai là chàng Tuệ, thứ ba là chàng Dực, thứ tư là chàng Linh, thứ năm là chàng Hải, thứ sáu là chàng Thường, thứ bảy là chàng Khắc, thứ tám là chàng Thành, thứ chín là chàng Lôi, thứ mười là chàng Quý, thứ mười một là chàng Kính, thứ mười hai là chàng Dũng. Đến khi các chàng trưởng thành, người con trưởng tuổi đã 12, còn các em đã 8-9 tuổi, đều rất thông mình, sáng dạ, dũng lược hơn người, anh hùng vượt chúng. Nhân dân đều tận phục, trong nước đều sợ.
Người anh tính vốn thông minh cương trực, đức lớn tài cao, lại thấy có nhiều thuật lạ, độ lượng khoan dung, đều có phong độ rộng rãi, văn chương sâu rộng, tinh thông võ lược, con hiếu anh tốt, đương thế đều xưng rất đúng là người hiền. Còn chàng Quý tính hay hiếu sát, hùng dũng hơn người, rất bạo ngược, một lòng khảng khái. Nhân dân sợ phục mà tránh né (khi ấy xã Thời Mại đều sợ phục chàng Quý hơn những chàng khác). Còn các chàng khác đều anh hùng, dũng lược chế ngự. Các tài tử đều vô cùng kính phục. Khi ấy Lang Công cùng công chúa mua thêm đất đại ruộng vườn, thiết lập các cung sở để phân cho các chàng cùng nhân dân (tức xã Thời Mại) làm nơi vạn đời hương khói mà phụng thờ, rạng tỏ lòng hiếu kính, đức lớn sánh với trời đất vậy.
Lại nói khi ấy Thục Vương nghe thấy Trung Quốc ít khi dùng võ, muốn chiếm thành một nơi, nhưng còn sợ phương Nam có thần, do dự chưa quyết. Khi đó có chủ phụ đạo bộ Ai Lao có tài lược lớn, cũng là tông phái Hùng Vương. Thục Vương nghe vậy bèn dẫn quân đến đánh nhằm chiếm bộ Ai Lao.
Chủ phụ đạo Ai Lao đó không thể chống lại, bèn cử người đến tâu cầu cứu với Nghị Vương. Nghị Vương bèn dẫn mười vạn hùng binh và sai Ninh Hải quận vương thống lĩnh quân thủy bộ nhằm thẳng đến thành Ai Lao để ứng cứu. Thục Vương nghe Nghị Vương cùng với con rể phò mã Ninh Hải vương dẫn quân đến cứu viện, lại có kiếm thần, mới sợ hãi mà gửi thư rằng:
Quân Thục từ phía Tây lại chỉ muốn chiếm chủ bộ để truyền lại đất nước, đâu dám giơ càng bọ ngựa chống lại cỗ xe vạn thừa vậy.
Nghị Vương thấy thư đến bèn đem quân về. Thục Vương mới được chủ bộ đem về nước Thục, gả công chúa cho và lại nhường ngôi cho. Rồi sai sứ giả đến tạ Nghị Vương, xin Nam triều là anh, Bắc triều là em, định ước giảng hóa, hai nước kết giao. Nghị Vương đồng ý. Từ đó phía Tây Nam quân tình yên vậy.
Lại nói Ông (tức phò mã Lang Công) từ sau khi đánh Thục trở về cung ấp (tức Thời Mại) bỗng vai trái nổi ung nhọt mà nằm bệnh. Vua thường thân đến thăm hỏi. Khi đó Ông đã ngoài 80. Các chàng con tuổi đã ngoài 20. Thấy Ông tuổi đã cao lại mắc nằm bệnh, đề phòng vạn nhất có thế nào nên bèn lập con trưởng chàng Lý Tràng làm Tá thái tử (chữ Tá do Vua đặt cho) để nối vị trí Ninh Hải vương nhận trị. Còn các chàng khác đều phong làm tướng quân.
Hôm đó Lang Công triệu các con cùng với phụ lão nhân dân lại phân phó thác các nơi đất đai, phụ lão cùng các con và nhân dân tuân theo lời giao phó, không được làm khác. Khi ấy Ông phân đều đất đai, thiết lập thành các trang cho các con để sau này phụng thờ. Lúc đó xã Thời Mại được Ông chia thành 4 trang. Một là trang Đàm Lã, giao cho chàng trưởng Tá thái tử để làm nơi sau này hương khói phụng thờ. Nơi mà Ông đã lập chợ (tức chợ Núi) đều phân làm hai, một phân cho Thái tử để phụng thờ, thuộc về Thái tử. Một phân cho các con khác để thu lấy dùng phụ tế làm lễ các tiết. Về sau thuế chợ cũng được chia đều như vậy.
Một khu gò đã lập cung để ở, sau này ủy phó cho các con cùng nhân dân (tức xã Thời Mại) làm nơi đền chính phụng thờ vợ chồng ta. Lại cũng giao cho Thái tử một khoảnh ao ở bên trái trước cung, cho Thái tử lấy làm hương khói phụng thờ.
Còn các gò khác cộng 14 chỗ cùng các vùng đất các trang (đất của trang Đàm Lã, trang Lôi, trang Trung Chính, tranng Miếu, trang Lan, trang Thượng Giáp, trang Vĩnh Ninh) và nhân dân (tức ở vùng đất Thời Mại) Ông chia thành các trang thần tử, cùng cho Thái tử cùng với các con chung nhau mà hưởng đều. Không thể bỏ lời chúc thác nàu mà tranh nhau, thì không phải là đạo hiếu của các con ta.
Các chàng cùng với phụ lão, nhân dân nghe lời Ông dạy đều tuân theo lời ủy chúc mà nhận. Sau khi Ông giao chúc được vài mươi hôm thì cái nhọt ở vai trái tự nhiên khỏi. Ông lai đi vào đất Ái Châu, thăm lăng mộ tổ tiên. Phò mã Lang Công đi theo hầu Vua đến chân núi Bàn Sơn (thuộc đất Ái Châu), bỗng nhiên thấy một đám mây trắng từ trên núi bay ra đến thẳng chỗ Lang Công, quấn quanh người. Kiếm thần theo đó bay lên trên trời. Trong chốt lát biến thành một làn khói đen. Trời đất mờ tỏ, mưa gió nổi lên. Khi ấy trong mây có tiếng tụng rõ ràng rằng:
Nhất phiến bạch vân phàm nhiễu lai
Thần long cấp cấp đáo thiên đài
Dương quân dĩ mãn thiên quân triệu
Vân giá phù long thượng đế hồi {đài}.
Tụng dừng thì tự nhiên mây khói một đường thẳng lên trên trời mà tự tan đi. Trời đất sáng tỏ. Phò mã bỗng nhiên mà hóa. Cả thân hình chỉ còn thấy áo cốt, đặt ở trên đất tại đó. Vua lấy làm lạ, ngày hôm đó (18 tháng 10) dừng lại xem xét, rồi truyền nơi đất đó cùng với nhân dân Ái Châu sửa chữa miếu đền, lập phụng thờ. Sự xong quay về đô phủ. Hôm đó bao phong tặng mĩ tự cho hưởng lễ vật hương khói vạn cổ không ngừng, cùng vận với quốc gia mà hưng thịnh vậy.
Phong Phò ký Lang Đại vương.
Khi ấy truyền các nơi nhân dân có thờ phụng đến thành đô để phụng đón sắc chỉ trở về các chốn mà thờ phụng. Vốn xã Thời Mại là nơi đền sống của Ông được cho làm thang mộc ấp, chốn hộ nhi, cùng với Bàn Sơn ở Ái Châu là nơi đền lăng của Ông. Hai đền này được truyền sai quan mang đón sắc chỉ về đền. Trăm quan làm lế tế cùng với Công chúa, Thái tử và các con. Nhân dân các trang cũng làm lễ thờ phụng.
Lại nói, khi ấy Tá Thái tử lại nhậm chức Ninh Hải, nối trị quận vương. Còn các ông con trai cùng ở nơi cung ấp (tức Thời Mại) để phụng dưỡng mẹ già (tức công chúa Nguyệt Cư). Các nơi mà Ông đã phân chia thành các cung để ở (khi đó các trang của đất Thời Mại và các xứ gò đều đã được các ông con trai lập làm nơi đô phủ. Ở nơi đó nhân dân đều phục làm thần tử), đều làm các đô phủ anh em cùng nhau quý hiền, dân ấp đều được vinh dự ơn lộc của nhà vua, danh tiếng vang xa, bốn biển anh hùng đều hướng phục.
Lại nói, khi Nghị Vương ở ngôi đã 160 năm thì mất, mới lập Thái tử Hùng Duệ Vương nối ngôi. Duệ Vương tư chất thánh triết, tài lớn anh hùng, kế thừa cơ nghiệp tổ tông 17 đời thịnh trị, trong tu luyện võ lược, ngoài ngự trấn biên cương, dốc lòng hưng bình mà yên Trung Quốc. Bèn theo gương của tiên vương mà trị, tôn sùng thiên đạo, kính sự quỷ thần, trời giáng điềm lành, xuân về trong nước. Đương thời đều gọi là vị hiền quân vậy.
Khi đó công chúa Nguyệt Cư tuổi đã ngoài 70. Một hôm (ngày 12 tháng 12) bỗng nhiên bị đau đầu mà hóa ở nơi ở chính, làm lễ an táng tại chính cung (tức cung Đàm Lã của Thái tử). Trăm quan đến tế, lại bao phong mĩ tự, truyền cho nhân dân cùng triều đình tu sửa cung miếu phụng thờ, cùng với quốc gia hưng thịnh vậy.
Duệ Vương bao phong là:
Phong Nguyệt Cư Trinh thuận Công chúa.
Phong Phụ Ký Linh ứng Lang Đại vương.
Các trang của xã Thời Mại phụng thờ ở nơi chính đền (khi đó Nguyệt Cư đã thiết lập một du cung ở chợ Núi, người ở chợ đó đều xưng là thần tử. Công chúa hóa về sau, đất chợ Núi đều phụng thờ, sự tích còn ở bộ sau).
Lại nói khi cơ đồ họ Hùng đến cuối thế nước cáo chung. Duệ Vương ở ngôi sinh được 20 hoàng tử, đều lần lượt theo nhau về cố hương, 6 vị công chúa cũng chỉ còn 2 vị nữ công chúa. Một tên là công chúa Mị Châu Tiên Dung. Một tên là Mị Nương Ngọc Hoa. Rất được yêu mến. Vua sau gả Mị Châu cho Chử Đồng Tử (quê ở xứ Sơn Nam, xã Đa Hòa, huyện Đông yên, phủ Khoái Châu). Còn công chúa thứ hai là Mị Nương Vua muốn cầu người anh tài để gả kết hôn, bèn lập 2 lầu ở cửa thành Việt Trì, đằng trước treo biên là Đãi hiền lầu. Sai công chúa ở đó. Gửi hịch đi bốn phương, hễ ai có là văn nhân tài tử thì hội về thành để thi tài, sau gả công chúa cho. Thế là hào kiệt bốn biển đều vui mừng, mau chóng quy tập về quốc đô. Vua ngự ra đề thi. Người thì ngàn kinh vạn cuốn không thiếu trong tường Khổng Mạnh, bốn khóa ba truyện chẳng kém thao lược Tôn Ngô. Hiền tại trong Thiên hạ đến ở một trường thi trận,
Đều là tầm thường mà đi, không phải người toàn tài đương thời. Duy chỉ có Tản Viên Sơn Tinh và Động Đình Thủy Tinh là hai người bạn đồng học có nhiều phép thông thiên, thật là anh hùng. Vua bèn nói:
Trẫm chỉ có một viên ngọc Lam Điền, mà hai khanh đều là bậc anh hùng. Ngô vui thì Sở buồn, Hán ca thì Tần khóc. Thôi thì đành định xem trong hai người ai có khả năng đem sính lễ đến trước thì Trẫm sẽ gả con gái cho.
Thế là hai tướng Sơn Tinh, Thủy Tinh cùng hẹn rằng:
Chúng thần cùng nhau về đem sinh lễ đến thi, xem ai đến trước.
Thủy Tinh về cung Động Đình mà cầu kỳ các vật lạ. Sơn Tinh đi thẳng ra ngoài lầu lấy gậy trúc chỉ trời xin được sính lễ. Bỗng thấy voi trắng chín ngà, ngọc kỳ vật lạ từ trời rơi xuống. Sơn Tinh nhặt lấy đến đêm gờ Tý đem lễ vào lầu rồng. Vua bèn gọi công chúa đến mà gả cho Sơn Tinh (Sơn Tinh tức Tản Viên Sơn Thánh, quê ở động Lăng Sương, huyện Thanh Xuyên, phủ Gia Hưng), bèn đón về núi Tản Viên. Đến giờ Mão Thủy Tinh đem sính lễ đến. Vua nói:
Sơn Tinh đã đến lễ trước rồi.
Thủy Tinh tức giận mà quay về (thế là Sơn Thánh và Thủy Tinh do việc hôn nhân mà thành thâm thù, mỗi năm cứ đến tháng 6-7 lại giao chiến, mưa gió nổi lên to lớn, nhân dân thiệt hại nhiều, còn xem trong sự tích về Sơn Thánh).
Lại nói khi Duệ Vương 150 tuổi mới nhường ngôi cho Tản Viên Sơn Thánh. Tản Viên không nhận, Duệ Vương nói:
Cơ đồ họ Hùng đã đến cuối, con có thể thay thế được.
Tản Viên do dự chưa quyết. Khi đó Thục Vương (là chủ phụ đạo nước Ai Lao, cũng là dòng dõi Hùng Vương) nghe tin Duệ Vương tuổi trời đã đến kỳ mà 20 hoàng tử đều đã về trời, không có người lập nối dõi, định nhường ngôi cho con rể Tản Viên. Thục Vương mới âm thầm khởi binh muốn đến đánh để chiếm lấy nước. Biên phương cấp báo, Duệ Vương cùng với đình thần bàn bạc. Triều đình có quan Liêu tiến ra rằng:
Bệ hạ nghỉ ngơi đã lâu, quân thần tướng sĩ ở trong thời không có chiến loạn, nên hàng ngày quân luyện không tinh. Nay có động đến tất nhân dân xã tắc sẽ muốn cầu phòng thủ để các bậc Thái tổ Thái tông trên trời linh thiêng không gặp hoạn nạn. Vạn nhất mà sự quân xấu đi, quân Thục tất sẽ phá tổ tông cùng làm tổn thương dân chúng con đỏ vậy. Chẳng bằng nhân đây dùng mưu thận trọng bí mật hối lộ tướng giặc, gửi thư cho Thục Vương để xem có thê hoãn việc động binh, từ đó xem cơ sự sau này ra sao.
Vua nghe vậy, muốn theo kế này, bèn gọi Tản Viên Sơn Thánh đến hỏi. Sơn Thánh tâu rằng:
Hơn hai ngàn năm qua 17 vị thánh quân có ơn sâu đức dày, đã khắc sâu vào cốt tủy nhân dân.
Hiện nay nước giàu quân mạnh. Oai đức của bệ hạ lan xa bốn biển. Chẳng qua quân Thục không biết tự giữ mà dám quật cường, thất bại đã rõ, tất đúng như vậy. Xin bệ hạ xử tội mà thảo phạt, lấy nghĩa mà phục, tất dân ta đều theo bệ hạ. Nước giặc đánh đến không khắc gặp họa. Xin được lĩnh ba vạn quân hùng ra vào, một xe độc tiến, đất Thục sẽ yên.
Vua nghe vậy rất mừng bèn chọn ngày trai giới, lập đàn cầu đảo trời đất. Đang khi làm lễ bỗng thấy trời đất mờ tỏ, mưa gió nổi tới. Việc xong, đêm ấy Duệ Vương ngự ở chính điện, mơ màng nằm mộng, bỗng thấy Hùng Anh Vương (tức là tổ năm đời của Duệ Vương) cùng binh sĩ tiến đến nói với Duệ Vương rằng:
Cơ đồ họ Hùng đã tận, thế nước cáo chung. Thục Vương làm loạn, nên lòng trời đã định, sai những anh tài xuất thế để trợ giúp nước nhà khi tận cuối. Có 4 vị thần quan trên thiên đình, 1 vị thần quan của thủy quốc, 7 vị thần quan thổ địa đều đầu nhập vào làm con của công chúa Nguyệt Cư, theo giúp Tản Viên Sơn Thánh để trị loạn này vậy. Không phải là vô minh đâu.
Duệ Vương trong mộng tâu lại với Anh Vương rằng:
Dám hỏi các vị thần quan tên như thế nào, xin được chỉ giáo.
Anh Vương nói:
Thứ nhất Tá Thái tử (là Thông phán sự của Thiên đình sai xuống). Thứ hai là Thái Ất. Thứ ba là Thiên Cương. Thứ tư là thần quan Áng Na (tức là thần quan nơi gò đất). Thứ năm là thần quan Thủy (là vị Linh quan của Thủy đình). Thứ sáu là thần quan Đương niên hành khiển (là vị Thiên quan). Thứ bảy là thần quan Phú. Thứ tám là thần quan Khắc. Thứ chín là thần quan Miếu. Thứ mười là thần quan Lôi. Thứ mười một là thần quan Dòng. Thứ mười hai là Đương cảnh bản thổ thành hoàng Đại vương. 7 vị thổ thần là khí lành của núi Hùng, Thời Mại đúc thiêng, cùng mang tên hiệu gò sinh ra vậy (Khi ấy Thời Mại có các gò Áng Na, gò Phú, gò Khắc, gò Miếu, gò Lôi, gò Dòng ở tại nơi cao, cùng với Đương cảnh thành hoàng quản lý nơi đó).
Anh Vương dứt lời thì xa giá tự quay đi. Duệ Vương khấu tạ, bỗng nhiên tỉnh lại mới biết là mộng này là Anh Vương chỉ dạy, bèn sai quan sứ truyền hịch gọi các ông đến, cùng bái làm các tả hữu tướng quân, nhận lệnh của Tản Viên Sơn Thánh đi đánh nước Thục. Khi đó Thái tử Tràng đang nhận chức Ninh Hải vương, chống đánh với một mặt quân Thục. Còn 11 ông tuân phụng mệnh vua, khấu tạ trước bệ, quay về cung ấp (xã Thời Mại), làm lễ từ đường.
Việc xong lại chiêu mộ được các gia thần, nhân dân địa phương được ngoài 700 người khỏe mạnh làm thủ túc cầm đao cho các ông (khi ấy Đàm Lã của xã Thời Mại thuộc thủ túc của Thái tử có 121 người, còn trang Bình Chính, trang Trung Thượng, trang Lan, trang Vĩnh Ninh cộng là 276 người đều theo các ông đi chinh phạt. Còn người ở chợ Núi thì theo thần quan Thủy cùng làm thủ túc gia thần được 68 người. Còn các nơi quận huyện cũng theo các ông, cộng được 743 người).
Khi đó (mồng 10 tháng 8) mổ trâu khao đại hội binh sĩ ở cung ấp. Xong việc các ông tiến quân mã đến bệ rồng. Vua sai làm tả hữu đốc lĩnh tướng quân, cùng cho 5000 hùng binh nhập theo lệnh của Tản Viên Sơn Thánh. Sơn Thánh cùng các ông khấu tạ trước bệ, lĩnh mệnh đường đường từ cửa thành tiến đi, thẳng đến đồn chính của quân Thục tại đất Mộc Châu, Quỳnh Nhai, đánh một trận đại phá, chém các tướng nước Thục cùng quân sĩ hơn ngàn đầu. Quân Thục thua to tứ tán (trận này có thiên thần là Tá thánh từ trời xuống giúp nước nhà, còn có tích riêng). Còn các dư đảng đều bị bắt sống, dẫn về kinh, một xe không thoát, một ngựa không lọt, quét sạch không yên bình vậy. Tức tốc sai tâu báo tiệp. Vua bèn chia các chiếu truyền về. Sơn Thánh cùng các ông và các tướng phụng mệnh quay về thành, đến tận cổng bái tạ.
Vua rất vui mừng bèn mở yến tiệc khao quân sĩ, thưởng cho ba quân, gia phong các công thần lớn nhỏ. Từ đó non sông thanh bình. Các ông khấu tạ bệ rồng xin trở về cung ấp (cung ấp Thời Mại). Vua đồng ý. Các ông ngày hôm đó (mồng 5 tháng 3) quay về cung. Nhân dân làm lễ bái đón. Các ông mở yến tiệc lớn, khao các tướng sĩ, gia thần.
Việc xong khi đó Quý Công (tên là Dũng) vốn tính hiếu sát, rất cường bạo, ngỗ nghịch nhưng lại cũng có lòng nhân lượng, nên nhân dân sợ phục, yêu mến hơn các ông khác. Hôm đó Quý Công biết giết người là quá đáng mới lập riêng một cảnh chùa, tạo làm tượng Phật để giải oan những tội lỗi cho mọi người (chùa tên là chùa Sùng Ninh) ở đất trang Vĩnh Ninh, cũng là nơi đất có hình rồng vậy. Việc xong từ đó các ông anh em thiết lập đồn dinh, tu sửa đền miếu, cùng nên quý hiển, nhận được ân lộc nước nhà, trong môn hộ có thêm người bốn biển làm gia thần, nổi tiếng một phương ở ấp tại đất Thời Mại. Nhân dân đều làm thần tử, cha con anh em một nhà thế lớn, ân sâu đức dày, mở mang mĩ tục nhân dân, người trước mở, người sau đắp, công đức rạng rỡ sánh cùng trời đất vậy.
Lại nói được gần hết 2 năm thì Thục chúa ôm hận, cầu viện các nước láng giềng tám vạn tinh binh, ngựa khỏe tám ngàn, tàu thuyền 2 ngàn chiếc, thủy bộ cùng tiến thẳng đến đất Nam Giao đánh lấy nước ta. Quân bộ theo chân núi từ thập châu Hoàng Khiếu [Tùng], Quỳnh Nhai, Lượng Sơn, Văn Lãng, Châu Đại Man, Văn Bàn, An Lập, Thuỷ Vĩ, Bố Chính, Minh {Linh} 5 đạo tiến ra. Đường thủy tàu thuyền theo La Châu, cửa biển Thần Phù, cửa biển Hội Thống. Cờ xí rợp đất, chiêng trống vang trời, tiếng quân chấn động như sấm sét vạn dặm.
Vua rất lo lắng mới hỏi đình thần, tất cả đều dương mắt nhìn nhau không có một kế khả thi. Trước đó các ông đã được cử đến trấn nhậm các nơi. Tá thái tử nhận Ninh Hải quận vương. Ông thứ hai đến nhận ở Tuyên Quang. Ông thứ ba đến Hưng Hóa. Ông thứ tư đến Ô Châu. Ông thứ năm đến Hải Dương. Ông thứ sáu đến Mộc Châu. Ông thứ bảy đến Chu Diên. Ông thứ tám đến Mai Châu. Ông thứ chín đến Việt Châu. Ông thứ mười đến Thái Nguyên. Ông thứ 11 đến Lạng Sơn. Đều cùng nhau đến nhận việc các chủ trưởng phụ đạo. Còn lại ông thứ 12 ở tại cung ấp để giữ coi đền miếu (đất Thời Mại). Khi đó Vua gọi các ông về cùng Sơn Thánh để hỏi mưu kế. Sơn Thánh cùng các ông một lòng đánh dẹp giặc, xin nhận mười vạn quân.
Vua rất vui mừng, bèn trao nỏ thần cho Sơn Thánh, phong làm Nhạc phủ kiêm thượng đẳng thần. 12 ông đều được phong là tả hữu thần quan, giao cho mỗi ông một thanh Kim đao, một bộ áo chiến bào, một mũ trăm sao, một con tuấn mã, theo thánh giá đi dẹp giặc. Sơn Thánh cùng các ông bái tạ, nhận mệnh phân binh thành các đạo, tiến thẳng đến các đồn quân Thục, đánh một trận lớn, lấy được dấu ấn tín của giặc. Bèn mới làm giả một bức thư của Thục chúa gửi cho tướng Thục yêu cầu giữ nguyên quân trong đồn, không được đánh. Tướng Thục nhận được thư phòng thủ không ra.
Sơn Thánh cùng các ông mới ngày đêm tiến đến thành Thục, chia quân thành các đạo đánh một trận lớn, bắt sống nước Thục dẫn về kinh sư. Các đồn nghe biến không kịp cứu. Quân Thục bị phá tan, thua to, dẹp sạch vậy. Sơn Thánh cùng các ông làm lễ dâng biểu tâu, quay trở về thành làm lễ bái tạ.
Vua rất vui mừng, bèn mở yến tiệc. Đang trong lúc ăn uống 11 vị ngồi ở trên triều hai bên trái phải trước bệ. Đang giữa ban ngày bỗng thấy trên trời có 3 tiếng sấm vang đất, trời đất mờ tỏ, mưa gió nổi lên, ban ngày hóa như đêm. Mười ông bỗng nhiên cùng hóa trước bệ rồng trong chính điện. Được một lúc thì mây gió tự tan, gió to dần dần thổi đi. Trời đất sáng lạn. Thì thấy các ông đều đã hóa. Chỉ còn Thái tử và Quý Công còn ở trước triều.
Duệ Vương lấy làm sự lạ, ngày hôm đó (mồng 1 tháng 2) làm lễ an táng các ông ở nơi đất trong thành, rồi cứ theo lời dạy của Anh Vương trong mộng mà bao phong mĩ tự, cho đón về đất nơi cung ấp (xã Thời Mại) để phụng thờ. Duệ Vương phong vậy (phong Thái tử Ất thần quan, phong Thiên Cương thần quan, phong Áng Na thần quan, phong Thuỷ thần quan, phong Đương niên hành khiển thần quan, phong Gò Phú thần quan, phong Gò Khắc thần quan, phong Gò Miếu thần quan, phong Gò Lôi thần quan, phong Ông Dòng thần quan). Còn 4 trang của xã Thời Mại cùng phụng thờ. Trang chợ Núi (theo riêng Thủy thần quan) phụng thờ riêng hai vị (Thánh mẫu cùng với Thủy thần quan), cùng cho làm làng hộ nhi cho đền chính.
Lại nói còn Thái tử cùng với Quý Công thấy các ông cùng ngày đều hóa, tất là vận nước nhà đến cuối nên các ông trở vê cung mây, không ham muốn lợi lộc của dương gian, tránh nhiễm bụi trần. Hai ông khấu bệ rồng xin được trở về cung ấp nghỉ ngơi trả lại chức trách. Vua đồng ý, ban cho một trăm hốt vàng ròng cùng với một trăm súc vải gấm. Hai ông quay trở về. Hôm đó (mồng 6 tháng 3)
Nhân dân làm lễ bái đón. Hai ông bái yết gia tiên, tu sửa đền miều các cung tòa ở các nơi đất trong các trang. Lại cho các gia thần cùng nhân dân một trăm thỏi vàng ròng, mở yến tiệc. Hai ông gọi phụ lão nhân dân và các thần tử cùng đến ăn uống. Nhân lúc ăn uống vui vẻ hai ông nói với nhân dân rằng:
Nhà ta cùng với nhân dân (4 trang của Thời Mại) vốn có ân sâu đức dày đã nhập vào xương tủy. Một nhà thần tử, vạn cổ cương thường tất thành nghĩa cũ, đâu phải là tình ngày một ngày hai. Nay có một tòa nơi cung mà hai vị tiên tổ đã lập ra (là cung đền ở nơi dân cứ, bên ngoài đối diện với nơi chợ). Nay lấy đó làm đền chính phụng thờ hai bậc gia tiên. Còn các tòa dựng về sau ở các nơi trong các trang thì để là cung thờ vọng. Hôm nay chúng ta ủy phó giao cho nhân dân làm nơi sau này cùng phụng thờ cha mẹ nhà chúng ta với các anh em, để nêu cao phong tục tốt đẹp trong nhân dân, đề cao tình thầy trò, làm thịnh thêm đức này vậy.
Phụ lão nhân dân, thần tử, đều cùng lòng nhận ủy chúc này. Việc xong thì đến mùa hè ngày 11 tháng 5, hai ông đi dạo chơi săn bắn, trở về cung. Quý Công cho quân binh về và ngồi nghỉ ở chùa Sùng Ninh, ngắm xem địa hình cảnh thiền. Thái tử đem quân trở về nơi cung chính. Bỗng nhiên mưa to gió lớn nổi lên, giữa trời có một đám mây đỏ như ánh lửa màu hồng, cuốn tròn như hình mặt trời, bay đến quấn quanh dân ở nơi đó, như vạn chiếc nón úp đất, môi ngậm yên lặng một vùng. Dân ở đó kinh sợ không dám ra khỏi nhà.
Hôm ấy (mồng 10 tháng 5) Quý Công hóa ở chùa Sùng Ninh. Thái tử hóa ở nơi cung đền chính (trong 12 người con chỉ có ông Thái tử là nhận chức Ninh Hải quận vương, lấy vợ con chủ trưởng châu Bố Chính, sinh được 3 nam 2 nữ, sau sinh được các cháu còn nhận chức phò giúp Trưng nữ vương. Sau này cháu 10 đời lại lấy con gái vua Trần Thuận Tông).
Hai ông hóa xong thì đám mây hình ô tự biến đi, quạ bay đến thành đám, mưa gió tự nhiên hết. Gia thần, nhân dân đều ra đến chỗ các ông hóa để làm lễ an táng, nhưng đều thấy mối đã đùn thành mộ. Nhân dân bèn dâng biểu tâu về triều đình. Vua nghe vậy, nhớ tới lời báo trong mộng quả đúng nên rất kinh hãi.
Vua thân ngự giá về nơi cung ấp, truyền nhân dân lập đền miếu phụng thờ. Lại lập một miếu ở nơi chùa Sùng Ninh thờ Quý Công. Còn Tá thái tử thờ phụng ở đền chính phối thờ cùng cha mẹ cùng các ông được truy hưởng. Hôm ấy (12 tháng 2) việc xong, Vua bao phong hai vị cùng 12 ông mĩ tự cùng áo mũ, truyền các quan cùng nhân dân làm lễ tế, cho phép 4 trang của xã Thời Mại làm nơi hộ nhi, miễn lệ các thuế dịch.
Phong Nguyệt Cư Trinh thuận Công chúa (theo như quyền chính của quân nữ chi ở trên)
Phong Phò Ký Lang Cương nghị Đại vương
Phong Tá thái tử Tràng
Phong Thái Ất thần quan
Phong Thiên Cương thần quan
Phong Áng Na thần quan
Phong Thuỷ thần quan
Phong Đương niên hành khiển thần quan
Phong Gò Phú thần quan
Phong Gò Khắc thần quan
Phong Gò Miếu thần quan
Phong Gò Lôi thần quan
Phong Gò Dòng thần quan
Phong Đương cảnh thành hoàng bản thổ Đại vương.
Trang Đàm Lã xã Thời Mại là nơi thờ trưởng phụng thờ Thái tử nên việc tế khấn có ngọc phả, lưu giữ thần hiệu truyền làm căn cứ. Còn trang Bình Chính, Trung Công, Lan cùng có các tiết làm lễ phụ, hưởng cỗ vạn cổ, hương khói không ngừng, phối cùng trời đất không mất vậy. Từ đó quốc đảo dân cầu có nhiều điều linh ứng. Mỗi năm hai kỳ xuân thu làm quốc tế. Bốn mùa hương hỏa không ngơi. Sau Lê tiên sinh có thờ rằng:
Tự cổ tòng lai vị kỷ nhân
Thê vi vương tử, tử vi thần
Đồng bào thập nhị giai hiền triết
Vạn cổ lưu truyền tại xã dân
Phụ đức càn khôn giai bất mẫn
Thần công sơn hải tỷ vô ngân
Phu thê phụ tử thiên xuân tại
Danh đức như tư nhật nguyệt tân.
Lại nói, trải Đông Hán, Ngô, Tấn, Tống, Tề, Lương cộng 349 năm đến khi nước Nam có 4 họ Đinh, Lê, Lý, Trần khai sáng cơ đồ, thường có anh linh hiển ứng, giúp nước cứu dân, nên nhiều thời các đế vương gia phong mĩ tự, hương khói không ngừng. Đến khi Lê Đại Hành dẫn quân phạt Tống, tiến quân đi qua đền (tức cung đền Thời Mại), dừng ở đây một đêm, cầu đảo âm phù giúp nước dẹp được giặc, tới khi thanh bình sẽ bao phong là Thượng đẳng phúc thần. Chúc xong đêm đó vua Lê ngự ở điện chính, nằm mơ bỗng thấy công chúa cùng phò mã và 12 người con là thần quan đều cầm Kim đao, mũ ngọc xán lạn, áo bào giáp rồng huy hoàng, quân mã đường đường tiến đến. Hai vị đều đứng trái phải trước Vua. 12 thần quan đều đứng chầu bên trái phải, quân binh mang áo giáp đứng thành 2 hàng. Vua hỏi rằng:
Các vị đến là thế nào?
Trả lời rằng:
Thần vốn là phò mã nhà Hùng, nghe vua Lê phạt Tống qua đây gọi trợ chiến, nên dẫn binh mã đến yết kiến.
Dứt lời thì Vua tỉnh lại, mới biết là nằm mơ, biết là có nhiều điều linh ứng. Hôm ấy làm lễ rồi dân quân tiến thẳng, sau dẹp sạch được giặc, vua Lê bao phong mĩ tự Thượng đẳng phúc thần, hưởng lễ vạn cổ, hương khói vô cùng, cùng hưởng vận với quốc gia, thịnh sao!
Phong Nguyệt Cư công chủ Trinh thuận Minh mẫn thần vị
Phong Phò ký Lang Cương nghị Uy dũng Hùng kiệt Đại vương
Phong Tá thái tử Tràng Đại vương.
Còn 11 vị tuân theo như mĩ tự của triều trước, gia phong hai chữ Đại vương. Đền chính hộ nhi của xã Thời Mại mỗi năm hai kỳ quốc tế. Từ Tiền Lê, Hậu Lê, Tiền Lý, Hậu Lý đều có nhiều linh ứng, nên có nhiều vị đế vương truy phong mĩ tự, hương hỏa vô cùng.
Lại nói thời hậu Trần, Giản Định đế khởi nghĩa hưng binh để lập phục lại nhà Trần (là con thứ của Trần Nghệ Tông). Khi đó có quan phò mã là Lý Thái Bảo (cũng là cháu thứ hai đời thứ mười bốn của Tá Thái tử từ Lý Lang Công), đi qua đền trang Đàm Lã, xã Thời Mại, kính nghe rằng đền thờ tổ tiên có tiếng nhiều linh ứng. Khi đó quan phò đang tiến quân truy đuổi Hồ Quý Ly cùng Hán Thương, mới tiến quân đến nơi đền, cầu đảo xin được âm phù để dẹp được họ Hồ, khôi phục lại quốc gia nhà Trần. Sau này được thanh bình xin tâu với vua, tất có bao phong mĩ tự, hưởng lễ vạn cổ, hương khói không ngừng, phối cùng nhật nguyệt, trường tồn mãi mãi.
Khi vừa chúc xong bỗng thấy gió to nổi lên thổi thẳng vào trong cung đền, làm gẫy cây, cát đá bay mù mịt, trời đất mờ tỏ. Trong đền nghe tiếng động như tiếng sấm. Phò mã lại làm lễ bái xin. Thì mưa gió tự nhiên dừng lại. Quan phò mã (vì lấy con gái của vua Trần Giản Định) nói với phụ lão nhân dân rằng:
Tiên tổ của ta đều rất linh thiêng, tất là vì vận hưng quốc mà âm phù vậy.
Dứt lời hôm đó cất quân thẳng đến đánh một trận với quân Hồ. Quân Hồ thua, chạy tán. Vua Giản Định phục được quốc gia, lên ngôi hoàng đế, bèn gia phong tuân như sắc chỉ của triều trước, lệnh quan đem sắc chỉ về đền (đền Đàm Lã) mà làm lễ tạ. Ch xã Thời Mại được một năm hai kỳ xuân thu quốc tế, lại lập ở trong ấp (tức xã Thời Mại) 7 nơi miếu để cùng phụng thờ. Các chữ húy cùng các tiết sinh hóa và các ngày lệ tiệc khánh hạ cùng các sắc phục được khai cụ thể như sau:
Lệ ngày sinh của cha mẹ cùng các ông: làm lễ ở miếu chợ chính sở, cùng xã làm lễ cỗ thịt lợn, xôi, rượu, bánh trôi. Trước đó 1 ngày là lễ tắm rửa. Ca hát một ngày đêm đến mười giờ sáng thì đón trở về các nơi làm lễ.
Mồng 3 tháng Giêng chính lệ ngày sinh Thánh mẫu: làm lễ chay 3 mâm, trà, bánh chay, ngũ vị hương, làm lễ tại miếu chính ở cung chợ, lúc thờ đó làm lễ tắm rửa, tới ngày mồng 4 nghênh giá Thánh phụ, Thánh mẫu về cung Thái tử Đàm Lã. Đến mồng 5 dùng lợn đen, rượu ngọt, chọn gia đình vợ chồng song toàn làm lễ. Đến mồng 6 làm lễ thịt lợn, xôi ngũ sắc, hát xoan thì có phường hát của cung tạo lệ 4 xã Phù Khang, ngâm chúc phụng thờ. Sau 3 ngày làm lễ tạ quay về cung miếu. Các giáp phụ giúp tế ở chợ Núi và các miếu ca hát.
Mồng 6 tháng Giêng là ngày chính lệ sinh nhật của Thái tử Đại vương: làm lễ ở cung Thái tử Đàm Lã, lợn đen tuyền, chọn gia đình có đủ vợ chồng song toàn, rượu ngọt, xôi, hát xoan do phường của 4 xã tạo lệ huyện Phù Khang cùng đến cung hát vịnh tụng chúc. Ngày Thái tử sinh nhật cũng là ngày khánh hạ của Thánh phụ, Thánh mẫu.
Ngày 11 tháng 2 là ngày cùng hóa của 10 vị thần quan: làm lễ lợn đen, xôi, rượu tòa xã tại chính miếu chợ.
Mồng 3 tháng 3 là ngày sinh thần của các vị thần quan: thịt lợn đen, xôi, rượu cùng ca hát ở cung Đàm Lã và Trung Công.
{12 tháng 10 ngày lệ sinh thần của các vị thần quan: thịt lợn, xôi, rượu, ca hát một ngày đêm ở Đàm Lã và trang Lan.
20 tháng 12 là ngày hóa của Đại vương: làm lễ lợn, xôi, cơm, rượu, 7 nơi vọng cung cùng làm lễ, 12 giáp cắt cử người phụ tế ở cung Đàm Lã.
12 tháng 12 là ngày hóa của Thánh mẫu: làm lễ lợn đen, các mâm gà, xôi, cơm, rượu ở cung Đàm Lã, cùng xã phụ tế và các nơi cũng làm lễ.
Ngày 10 tháng 2 là ngày cùng hóa của 10 vị thần quan: lợn đen, xôi, rượu, cùng xã làm lễ tại chính miếu chợ.}
10 tháng 5 là ngày hóa của hai vị Thái tử và thần bản thổ: lợn, xôi, cơm, rượu làm lễ ở cung Đàm Lã và chùa Sùng Ninh.
10 tháng 8 là ngày khánh hạ sinh thần của Đại vương và ngày phân 12 giáp (12 giáp này đều là gia thần của 12 vị thần quan được Duệ Vương phân làm 12 giáp để phụng thờ): Trước một ngày làm lễ khánh hạ ở miếu cung tại xứ chợ đến ngày 9 thì đón giá về các vọng cung làm lễ lớn, ca hát, đánh cờ. Làm lễ lợn đen, xôi, rượu, bánh dày trắng, mỗi giáp làm bánh dày trắng 100 viên, ngày mồng 8 tế ở chính miếu chợ, ca hát một ngày đêm, quét dọn từ miếu chợ đến các nơi. Mồng 9 các giáp đón về các vọng cung làm lễ, ca hát, đánh cờ. Ngày mồng 10 toàn 12 giáp làm lễ.
Khai sắc khánh hạ ngày 10 tháng Giêng: lợn đen, xôi, rượu, ca hát ở cung Thái tử Đàm Lã.
Còn các tiết hai kỳ xuân thu quốc tế đều làm lễ tam sinh, ca hát ở chính xứ miếu chợ (12 tháng 2, 20 tháng 6).
Niên hiệu Hồng Đức thứ nhất, mồng 1 tháng 3.
Các chữ húy: Lang, Tràng, Nguyệt Cư, Tuệ, Dực, Linh, Hải, Thường, Khắc, Thành, Phú, Quý, Kính, Dũng, Lôi, 10 chữ húy nhất thiết cấm. Sắc phục vàng, tía, xanh tuyền nhất thiết cấm.
Còn các lệ nhỏ thì xem ở trong sự tích (làm lễ xôi gà), khi làm lễ thì trang Đàm Lã là trưởng lễ trước, sau lùi.
Hàn lâm viện Đông các Đại học sĩ, thần, Nguyễn Bính phụng soạn.
Hoàng triều Vĩnh Hữu năm thứ 2 ngày tốt 10 tháng 5 Quản giám bách thần tri điện Thiếu khanh chức tuân như bản cũ của triều triều mà phụng chép (32 trang).
Niên hiệu Bảo Đại thứ 13 ngày 10 tháng 3, hương lý xã Cao Mại thừa sao phụng.
Đình Cao Mại.
Chạm khắc đình Cao Mại.Đền Nhà Bà Cao Mại.Bia đền Nhà Bà Cao Mại.