1. THÔNG TIN CHUNG
Tên gọi: Đền làng Vân
Tên khác: Đền chính làng Yên Viên
Địa chỉ cụ thể: Tổ dân phố Yên Viên, phường Vân Hà, tỉnh Bắc Ninh
Vị trí địa lý và không gian cảnh quan:
Mô tả vị trí: Đền có vị trí cạnh dòng sông Cầu theo hướng Tây nhìn ra bến đò Vân sang làng Đại Lâm.
Yếu tố phong thủy: Làng Vân Hà có tên chữ là Yên Viên, chạy dài hơn 1km dọc theo bờ Bắc sông Cầu, đối diện với làng Đại Lâm ở bên kia sông. Vì ba mặt giáp sông nên muốn vào làng Vân phải qua ba bến đò ngang ở phía Đông sang Quả Cảm, phía Tây sang Đại Lâm, phía Nam qua làng Thổ Hà. Còn một con đường bộ ở phía Bắc của làng đi men dãy núi Tiên Lát và thường chỉ thuận tiện vào khô.
Có câu ca dao ở vùng này:
Vạn Vân có bến Thổ Hà
Vạn Vân nấu rượu, Thổ Hà nung vôi
Nghĩ rằng đá nát thì thôi
Ai ngờ đá nát nung vôi lại nồng.
Niên đại khởi dựng và các lần trùng tu:
Đền Vân được xây dựng từ lâu đời, được được tu bổ tôn tạo vào thời Lê Trung hưng (thế kỷ XVII- XVIII), thời Nguyễn (thế kỷ XIX – XX) và những năm gần đây. Trải qua thời gian ngôi đền đã được tu sửa hiện nay vẫn bảo lưu được kiến trúc cổ.
Thượng lương của đền hiện nay có khắc dòng chữ: Tuế thứ Bính Thân mạnh thu thất nguyệt cốc nhật lương thời thụ trụ thượng lương. Nghĩa là: Năm Bính Thân đầu thu tháng 7 ngày lành giờ tốt dựng cột thượng lương. Chữ khắc là thể chữ thời Lê. Năm Bính Thân dựng đền như vậy có thể đoán định là năm 1776 dưới niên hiệu Cảnh Hưng của vua Lê Hiển Tông.
2. GIÁ TRỊ LỊCH SỬ
Nhân vật được thờ:
Đức thánh Tam Giang Khước địch Đại vương (Trương Hống) và thánh mẫu Phùng Thị Từ Nhan.
Sự kiện lịch sử, văn hóa gắn liền với di tích:
Đền Vân gắn với tín ngưỡng thờ đức thánh Tam Giang là danh tướng của Triệu Việt Vương, đã có nhiều công lao trong việc dẹp giặc giữ nước, trung nghĩa hy sinh, hóa thủy thần phù trợ các đời Ngô, Lý, Trần, Hậu Lê đuổi giặc yên dân. Đền là trung tâm tín ngưỡng, sinh hoạt văn hóa của nhân dân, đồng thời ca ngợi truyền thống uống nước nhớ nguồn, tôn vinh người có công với quê hương đất nước.
Theo thần tích làng Thượng Lát (xã Tiên Lát, huyện Việt Yên, Bắc Giang xưa), đời Tiề Lý Nam Đế có bà Từ Nhan người làng Vân Mẫu, huyện Quế Dương, quận Vũ Ninh nằm chiêm bao tắm ở sông Lục Đầu, thấy thần long quấn vào mình mà có thai. Được 14 tháng đến mồng 6 tháng Giêng năm Nhâm Ngọ sinh 5 con, 4 con trai 1 con gái, đặt tên là: Hống, Hát, Lẫy và Lừng và Đậu nương. Đến rằm tháng 4 năm Kỷ Hợi ngày 15 tháng Tư đức thánh mẫu cõi trần lánh bước.
Anh em đức thánh Tam Giang theo học ông Lữ tiên sinh tập đọc binh thư, lầu thông văn võ. Khi tuổi đã 20, gặp khi trong nước có loạn là nhà Lương Đại Đồng bên Tầu sai danh tướng là Trần Bá Tiên và Dương Phiêu đem quân sang đánh nước Nam ta, làm nhiễu muôn dân, đau lòng trăm họ. Triệu Việt Vương nhận ủy quyền của Lý Nam Đế, lui quân về Dạ Trạch chống cự với Trần Bá Tiên. anh em đức thánh Tam Giang nghe thấy nhà vua có lệnh chiêu tài, anh em bàn nhau tính kế lập thân, mộ quân để đi giúp nước. Ông Triệu Quang Phục phong cho ông Cả làm quan Thượng tướng quân, ông Hai làm Phó tướng quân, ông Ba, ông Tư đều làm tùy tướng.
Dẹp giặc xong rồi, ông Triệu Quang Phục kéo quân về đóng đô ở thành Long Biên, xưng là Triệu Việt Vương, phong cho ông Cả thực ấp Kinh Bắc (là Bắc Ninh), ông Hai thực ấp Đông Ngàn (là làng Tam Lư).
Khi Lý Phật Tử, là dòng dõi Tiền Lý Nam Đế đem quân đánh Triệu Việt Vương. Hai ông cầm quân ra đánh, đuổi Lý Phật Tử lui về Ô Diên. Lý Phật Tử cầu hòa với Triệu Việt Vương, cầu thân cho con trai là Nhã Lang lấy con gái vua Triệu là Cảo Nương. Hai vị Trương tướng quân ra sức can ngăn, nhưng vua không nghe. Các ông bèn nạp chức từ quan, về rừng Phù Long (thuộc tỉnh Sơn Tây, huyện Phúc Thọ, xã Phù Long) mà ở.
Lý Phật Tử bày kế cho Nhã Lang ở rể, lấy trộm bảo bối mũ long trảo đâu mâu của Triệu Việt Vương, rồi kéo quân đến đánh. Triệu Việt Vương cùng đường ở Đại Nha hải khẩu. Lý Phật Tử lên ngôi xưng là Hậu Lý Nam Đế.
Lý Phật Tử biết anh em Trương tướng quân là bực có tài, muốn mua chuộc lòng người cho yên thiên hạ, sai người đi tìm đón 2 vị Trương tướng quân ra làm quan giúp mình, nhưng hai anh em kiên quyết từ chối.
Cả nhà hai ông cùng xuống thuyền giả làm thuyền buôn xuôi về quê tảo mộ. Khi chèo thuyền vào đến sông Vũ Bình, Ngã ba Xà, thấy chốn ấy giang sơn tú khí, phong thủy hữu tình, chèo thuyền ra giữa sông đánh đắm thuyền mà tự vẫn cả nhà (tức sông Nguyệt Đức thuộc Phương La xã, Yên Phong huyện tỉnh Bắc Giang). Thuyền ông Hai trôi xuống ngã ba Nhãn(tức là Phượng Nhãn xã, Phượng Nhãn huyện, Bắc Giang tỉnh), thấy phong cảnh chung linh, cũng đánh đắm thuyền cùng cả nhà tự vẫn, là ngày mồng 10 tháng 4.
Lý Phật Tử thương tiếc hối lại phong ông Cả là: Vũ Lâm Lang Quả nghị Linh ứng Thượng tướng quân. Phong cho ông Hai là: Đại thụ tướng quân.
Đến đời nhà Hậu Ngô ông Văn Xương xưng là Nam Tấn Vương đánh giặc Lý Huy ở núi Côn Luân đưa quân vào đóng ở rừng Phù Long, được 2 ông âm phù dẹp giặc. Dẹp giặc yên rồi sai sứ đi truyền các làng ở 2 bên bờ sông Vũ Bình và Phú Lương phải lập đền thờ cả. Phong cho ông anh Đại Đương giang Hộ quốc Thần vương. Truyền tổng Vân Mẫu làm đền thờ bà thánh mẫu, phong là Thượng đẳng Phúc thần.
Đời Lê Đại Hành năm thứ 2 bên Tầu nhà Tống sai người hầu Nhân Bảo đem quân sang đánh nước ta, đã vào đến sông Đại Than rồi. Vua cùng quan võ là Phạm Cự Lưỡng đem 20 vạn quân đi đánh. Khi đến làng Tam Lư huyện Đông Ngàn trời đã tối phải tạm đóng quân ở đấy. Vua truyền sửa lễ cầu thần âm trợ. Thấy đến canh ba trong cung có tiếng ngâm thơ Nam quốc sơn hà. Quả nhiên trận ấy ông Lê Đại Hành thắng trận bắt được không biết bao nhiêu quân giặc. Vua lại truyền 2 bên sông Nguyệt Đức, sông Nam Bình phải lập miếu thờ. Lại phong cho ông anh là Khước địch Đại vương, phong cho ông em là Uy địch Đại vương.
Đến đời ông Lý Nhân Tôn lại phong cho ông anh là Sảng bang Khước địch Đại vương Thượng đẳng thần. Ông em là Hiển thắng Uy địch đại vương Thượng đẳng thần. Gia phong cho ông thứ 3 là Lân Nhĩ Đại vương, ông thứ 4 là Lã Sậu Đại vương, bà em gái là Lương Mỹ Đạm Tam Giang Công chúa. Người cháu tên là Trương Kiều phong là Thác Sơn Bình Đảng Phúc thần.
Đời nhà Lý Nhân Tôn bên Tầu sai quân sang đánh nước ta. Đức Nhân Tôn sai ông Lý Thường Kiệt đem quân đi đánh giặc đến làng Phương La sửa lễ cầu thần trợ chiến, bỗng nghe tiếng ở trên không ngâm thơ rằng:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
Tiếng ngâm như sấm sét, quân nhà Tống nhe thấy tự nhiên hồn xiêu phách lạc, chạy cả về Tầu.
Ông Lý Thường Kiệt làm sớ tấu vua có âm phù mọi nhẽ. Vua lại truyền hai bên bờ sông Vũ Bình và Nam Bình lập miếu thờ.
Đời Trần Nhân Tôn phong ông Cả là Khước địch Đại vương, gia phong Khương hựu Thượng đẳng phúc thần. Ông Hai là Uy địch Đại vương, gia phong Dũng cảm Phúc thần. Đến năm Hưng Long thứ 21 lại gia phong ông Cả hai chữ Trợ thuận, ông Hai hai chữ Hiển thắng.
3. KIẾN TRÚC VÀ NGHỆ THUẬT
Bố cục mặt bằng tổng thể và các hạng mục chính:
Đền Chính làng Vân có bố cục kiến trúc kiểu “tiền nhất, hậu công” gồm các hạng mục 7 gian tiền tế, 5 gian trung đường, dải ống muống, 5 gian hậu cung, 1 gian chui vồ và các hạng mục phụ trợ khác. Phía trước đền là bãi vật cầu nước. Cạnh đó là một ngôi miếu nhỏ thờ mẫu.
Nghệ thuật trang trí, điêu khắc:
Đặc sắc nổi bật nhất của đền Vân chính là kiến trúc nghệ thuật điêu khắc, trạm trổ tinh xảo thể hiện toàn bộ trên hạng mục công trình. Đó là trên mái với các đầu đao cong vút trạm hoa văn, mái ngói cổ kính với 4 góc đao cong. Chính giữa bờ nóc đắp hình lưỡng long chầu mặt trời, bờ dải có nghê sóc vờn nhau. Đầu hồi là rồng phượng bay. Bên trong các kết cấu kiến trúc kẻ, bảy, con chồng đấu kê, vì kèo truyền thống kẻ tràng, cánh ác. Các cấu kiện kiến trúc bằng gỗ lim chạm khắc tinh xảo đủ đề tài dân gian truyền tải ước vọng của người xưa.
Nghệ thuật tạo hình, chạm khắc trang trí ở đền Vân giàu tính dân gian; có nhiều hoạ tiết cách điệu, đặc tả chi tiết trên các cấu kiện, thớ gỗ làm cho ngôi đền trở lên cổ kính. Đặc biệt các mảng chạm khắc được tập trung ở gian giữa tòa tiền đường. Đó là các đề tài tứ linh, tứ quý xen lẫn, hình hoa lá cách điệu, rồng hóa trúc, hình phượng múa… với đường nét mềm mại, tinh tế mang đậm phong cách nghệ thuật thời Lê trung hưng (thế kỷ XVI).
4. GIÁ TRỊ HIỆN VẬT
Bài trí thờ tự:
Khi bước vào gian tiền tế, sẽ thấy ngay bức hoành phi lớn sơn son thếp vàng đề chữ: Mỹ tục khả phong, niên đại Tự Đức thứ 18 (1863), cho biết làng Vân là làng có truyền thống tốt, được triều đình công nhận.
Chính điện tiền tế có đôi câu đối:
Khước Lý bất thần cao tiết, Phù Lan sơn phong thượng phiến thạch
Phụ Lê hiển thánh linh thanh, Như Nguyệt giang không trung nhất thi.
Nghĩa là:
Từ Lý không làm thần tiết nghĩa cao, trên ngọn Phù Lan nêu tấm đá
Giúp Lê hiển thánh tỏ linh thiêng, giữa sông Như Nguyệt vọng bài thơ.
Câu đối này có dòng lạc khoản đề: Long phi Đinh Hợi niên thu chi mạnh. Bản tổng chánh tổng kiêm huyện hội viên Nguyễn Thiều cung tiến. Nghĩa là câu đối được làm vào tháng đầu thu (tháng 7 âm lịch) năm Đinh Hợi thời Nguyễn, do chánh tổng kiêm huyện hội viên là Nguyễn Thiều cung tiến.
Trước gian trung cung là hương án và bức cửa võng cổ, thếp vàng, chạm trổ tinh xảo. Bên trên treo bức hoành phi lớn sơn son thếp vàng đề Vạn cổ anh linh và dòng lạc khoản Kỷ Tỵ niên trọng đông trùng tu, nghĩa là được trùng tu vào giữa mùa đông (tháng 11 âm lịch) năm Kỷ Tỵ.
Hai bên hương án cũng có 2 bức cửa võng nhỏ hơn, chạm rồng chầu, phượng, hoa lá. Cạnh cửa võng nhỏ là đôi câu đối:
Thiên thượng ngâm thi, Gia Cát tử do tẩu Ngụy
Sơn trung thải quyết, Bá Di sinh bất thần Chu.
Nghĩa là:
Trên trời ngâm thơ, Gia Cát chết còn đuổi Ngụy
Trong núi hái rau, Bá Di sống chẳng thần Chu.
Qua 2 cửa võng nhỏ theo dải ống muống dẫn vào tới tượng 2 vị quân hầu đang đứng ở hai bên cửa vào hậu cung. Cạnh tượng 2 vị quân hầu có câu đối:
Kỳ đỉnh minh công thiên cổ tại
Miếu đình truy tự ức niên trường.
Nghĩa là:
Cờ đỉnh ghi công ngàn đời đó
Miếu đình truy thờ mãi muôn năm.
Trong hậu cung có dựng cung khám thờ lớn bằng gỗ, dạng như một ngôi miếu nhỏ. Quanh khám có chạm rồng chầu, phượng, lân, trúc… đều được thếp vàng. Giáp mái phía trên khám là mảng chạm gỗ rồng chầu, phượng và bức hoành phi lớn đề: Thanh miếu anh linh. Trong khám là bức tượng thánh Tam Giang kích thước như người thật ở tư thế ngồi. Bên trong khám có vẽ tranh trên bức vách sau tượng.
Phía trước khám là tượng gỗ 2 vị quan hầu đang đứng, phong thái rất đẹp, đội mũ đinh tự (thời Lê). Trên bàn án đặt quả cầu gỗ lớn, là quả cầu dùng trong lễ hội vật cầu nước của làng Vân. Phía trước khám có đôi câu đối:
Bắc giang hiển tiết liên huynh đệ
Nam quốc bao phong lịch đế vương.
Nghĩa là:
Sông Bắc tỏ tiết anh em cả
Nước Nam phong tặng đế vương nhiều.
Hai bên cột trong của khám có đôi câu đối:
Thoái lỗ nhất thi, Nam đế sơn hà ngưng tuấn liệt
Khước trưng lưỡng mệnh, Bắc thiên cương tỉnh hiển cao phong.
Nghĩa là:
Đuổi giặc một bài thơ, núi sông vua Nam ngưng vẻ rạng
Từ chối mời hai mệnh, đất đai trời Bắc tỏ khí cao.
Đồ thờ: Đền Chính còn lưu giữ được nhiều hiện vật cổ như 3 bộ cửa võng, kiệu bát cống, hương án, bát bửu, chấp kích cổ, các bát hương gốm Thổ Hà tinh xảo. 1 đôi ngựa hồng bạch gỗ ở hai bên nhà tiền tế. 1 bức tranh gỗ sơn son thếp vàng đề năm Tự Đức Bính Dần (1866) treo trên cửa hậu cung. Phía trên trần gian tiền tế có tranh vẽ màu hình Long phún thủy. Khám thờ gỗ sơn thếp vàng ở hậu cung. Quả cầu vật gỗ, 2 chiếc mũ thờ gỗ chạm rồng, sơn thếp vàng để trên ban hậu cung. Một chiếc chuông đồng nhỏ.
Di sản Hán Nôm quan trọng:
Ngoài những câu đối ở trong đền đã giới thiệu thì ở nghi môn ngoài của đền có lưu các câu đối sau:
Thắng cảnh huy hoàng tân thế kỷ
Phong quang đại lộ cựu danh lam.
Câu 2:
Sơn đức hải ân thùy ấm dụ
Ngọc nha châu khỏa thụ căn thâm.
Câu 3:
Kình thiên ngật lập đạo lý cương thường trụ
Động địa kinh khai nhân luân nghiêm kính môn.
Câu 4:
Đại địa giai xuân, tích thiện chi dân dư khánh
Duy thiên giáng phúc, khắc xương quyết hậu đa tường.
Câu 5:
Chính khí lưu nhạc quang, dĩ hậu tường vân tập
Đạo thông đối càn khôn, vu kim Đức thủy lai.
Tại đền Vân hiện đang cất giữ được 9 bản sắc phong cổ, tuy chưa rõ niên đại. Ban khánh tiết ở làng cũng đã phiên âm bộ văn tế cổ để hành lễ theo các tiết. Trong đó có các bài tế các ngày Sóc, ngày sinh hóa của thánh Tam Giang, ngày kỵ của Thánh mẫu…
5. LỄ HỘI VÀ PHONG TỤC VĂN HÓA
Lễ hội chính:
Hằng năm, hội lệ đền Vân được nhân dân địa phương tổ chức vào ngày 18 tháng 4 âm lịch để tưởng nhớ tới công trạng của Thành Hoàng làng. Trong ngày lễ hội, phần nghi thức tế Thành hoàng được tổ chức trang trọng. Phần hội được tổ chức với nhiều trò chơi dân gian: đấu vật, chọi gà, chơi đu, hát quan họ. Đặc biệt đền Vân còn là nơi diễn ra lễ hội vật cầu nước một lễ hội dân gian cổ truyền độc đáo của xứ Kinh Bắc, lễ hội diễn ra 4 năm một lần. Ý nghĩa là lễ hội dân gian thể hiện tín ngưỡng thờ Trời (trời tròn), cầu mong mưa thuận gió hoà, mùa màng bội thu, lễ hội mừng các chiến công và sự linh thiêng phù trợ của đức thánh Tam Giang.
Lễ hội Vật cầu nước làng Vân đã được đưa vào danh mục di sản văn hóa phi vật quốc gia Quyết định số 63/QĐ-BVHTTDL ngày 12/01/2022.
Lễ hội diễn ra trên một sân lớn được đổ đầy bùn và nước. Quả cầu được làm bằng gỗ mít nặng khoảng 20 kg. Quy định đội thi đấu có 16 thanh niên khoẻ mạnh tham gia lễ hội vật gọi là quân cầu và được tuyển chọn theo quy định. Các quân cầu phải giữ mình trong sạch, ăn chay, kiêng yêu đương trong thời gian diễn ra lễ hội. Luật chơi chia làm hai giáp, giáp trên, giáp dưới (mỗi giáp chia 8 quân cầu) sẽ thi đấu tranh cướp quả cầu. Mục đích đẩy quả cầu vào hố cầu của đối phương, trận đấu diễn ra sôi nổi, quyết liệt đối phương đẩy được nhiều quả cầu vào hố của đối phương sẽ thắng trận.
Lễ hội Vật cầu nước tuyển chọn quân cầu là những thanh niên trai tráng được tinh tuyển từ 5 xóm, chưa vợ, khỏe mạnh, không có vận áo xám, không bệnh tật, không có can phạm, can án. Các quân cầu sẽ phải giữ mình chay tịnh, kiêng chuyện yêu đương trong một khoảng thời gian theo quy định của dân làng trước khi hội Vật cầu được tổ chức.
Nhà có áo xám không được vào đền, phụ nữ chỉ được vào tòa tiền đường, ban khánh tiết khi ra đền mặc quần áo phải giặt riêng không giặt chung với phụ nữ, khi vào toà hậu cung chỉ được trưởng và phó ban khánh tiết được vào.
Làng Vân còn có kết nghĩa với làng Đống Gạo (Nguyễn Xá, Yên Phong) hơn 300 năm, liên quan đến việc khi làng Vân rước sắc về làng gặp trời mưa đã trú nhờ làng Đống Gạo và sau đó làng Vân góp công đức trong việc xây chùa ở làng Đống Gạo.
6. KẾT LUẬN
Văn bản công nhận di tích: Năm 1990, cùng với chùa Diên Phúc, đền Vân được Bộ Văn hóa – Thông tin ra Quyết định xếp hạng kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia (Quyết định số 34/VHQĐ, ngày 9 tháng 1 năm 1990).

Đền Chính làng Vân.

Tiền tế đền chính làng Vân.

Tranh trần Long phún thủy.

Tranh gỗ.

Hậu cung đền chính làng Vân.

Dải ống muống đền Vân.