Những “nỗi oan” của Triệu Đà

Trong sử Việt có lẽ không có vị đế vương nào lại phải chịu tiếng oan ức như Triệu Vũ Đế. Oan không phải vì những gì Triệu Vũ Đế đã làm, mà vì các sử gia Việt mắt mờ, bị sử Tàu đánh tráo khái niệm, đánh tráo thời gian, biến một vị đế vương oai hùng đầu tiên của nước Nam người Việt thành một người Tàu xâm lược, thâm độc…

NỖI OAN THỨ NHẤT: TRIỆU ĐÀ LÀ NGƯỜI PHƯƠNG BẮC
Sử ký Tư Mã Thiên chép: Vua Nam Việt họ Triệu tên là Đà người huyện Chân Định, trước làm quan úy. Thông tin thư tịch chỉ có vậy, thế mà không biết căn cứ vào đâu sách vở lại chú thích huyện Chân Định đời Tần “nay là” huyện Chính Định, Hà Bắc, Trung Quốc??? Triệu Đà bị biến thành người nước Triệu thời Chiến Quốc, quê gốc Hà Bắc.
Tần Thủy Hoàng bản kỷ chép: Năm thứ 33 Thủy Hoàng đưa những người thường trốn tránh, những người ở rể và những người đi buôn đánh lấy đất Lục Lương, lập thành Quế Lâm, Tượng Quận, Nam Hải, cho những người bị đày đến đấy canh giữ. Ở phía Tây Bắc đánh đuổi Hung Nô từ Du Trung dọc theo sông Hoàng Hà đi về đông đến Âm Sơn tất cả 34 huyện, xây thành trên sông Hoàng Hà để làm giới hạn. Lại sai Mông Điềm vượt sông Hoàng Hà lấy đất Cao Khuyết, Đào Sơn, Bắc Giã xây đình và thành lũy ở đấy để đuổi người Nhung và đưa người bị đày đến đấy để ở và lần đầu những nơi này trở thành huyện.
Cùng năm Tần đánh Việt thì Mông Điềm mới vượt sông Hoàng Hà đánh Hung Nô và người Nhung, lập các huyện mới. Vậy đất Hà Bắc, tức là Bắc sông Hoàng Hà, tới lúc này mới lọt vào tay Tần, lấy đâu ra ông Triệu Đà người Hà Bắc lại cùng năm đó làm tướng Tần đánh Việt được?
Nam Việt Úy Đà liệt truyện chép: Bấy giờ nhà Tần đã chiếm cả thiên hạ, cướp lấy đất Dương Việt, đặt ra các quận Quế Lâm, Nam Hải và Tượng Quận. Như vậy thời kỳ này đất Giao Chỉ đã nằm trong đất nhà Tần. Huyện Chân Định hoàn toàn có thể nằm ở chính Giao Chỉ chứ không đâu xa. Sự thật thì huyện Chân Định thời Tần là ở đất Thái Bình ngày nay. Chân Định là tên cũ của huyện Kiến Xương, mãi tới thời Thành Thái (1889) mới đổi là huyện Trực Định phủ Kiến Xương tỉnh Thái Bình.
Huyện Kiến Xương nay còn di tích là đền Đồng Xâm tại xã Hồng Thái thờ Triệu Vũ Đế, là bằng chứng rõ ràng rằng Chân Định của Triệu Đà là ở đất Thái Bình chứ không hề ở Hà Bắc, Trung Quốc. Tại Đồng Xâm Triệu Vũ Đế lấy vợ là Hoàng hậu Trình Thị. Như vậy Triệu Đà là người Việt chính gốc, chứ chẳng phải Tần hay Triệu nào ở tận Bắc Hoàng Hà.

Dong Xam

Đền thờ Triệu Vũ Đế ở Đồng Xâm, Hồng Thái, Kiến Xương, Thái Bình.

NỖI OAN THỨ HAI: TRIỆU ĐÀ DẪN QUÂN TẦN XÂM LƯỢC VIỆT
Nỗi oan giời thấu thứ hai là Triệu Đà bị coi là kẻ xâm lược, đã cầm đầu quân Tần đánh Việt. Gọi là oan vì lần tìm hết các thư tịch cũ đều không hề có sách nào cho biết Triệu Đà đã cầm đầu quân Tần. Chỉ có trong Hoài Nam Tử có đoạn: [Nhà Tần] sai Úy Đà Đồ Thư đem lâu thuyền xuống Nam đánh Bách Việt. Cụm từ “Úy Đà” ở đây bị hiểu thành Triệu Đà. Hóa thành Triệu Đà cùng Đồ Thư đã dẫn quân xuống phương Nam.
Úy Đà là chức vụ của tướng Đồ Thư, với nghĩa như Đô Úy, tức là tướng thống lĩnh quân đội. Úy Đà biến thành tên riêng Triệu Đà dẫn đến nỗi oan chữ nghĩa khó giải của Triệu Vũ Đế.
Nam Việt Úy Đà liệt truyện chỉ chép: Thời Tần, Đà được làm lệnh ở huyện Long Xuyên, thuộc quận Nam Hải. Nếu Triệu Đà là tướng cùng Đồ Thư dẫn mấy chục vạn quân đánh Việt thì sao lại chỉ được làm một huyện lệnh nhỏ nhoi ở Nam Hải?
Huyện Long Xuyên nay là Long Biên, nơi còn đình đền thờ Triệu Vũ Đế tại xã Xuân Quan (Văn Giang, Hưng Yên). Theo sự tích ở đình Xuân Quan thì Triệu Vũ Đế khi đi qua bến sông này đã thấy rồng bay lên nên sau nhân đó đặt tên là … Thăng Long. Đình Xuân Quan được xây trên hành cung cũ của Triệu Vũ Đế, có tên là điện Long Hưng.
Thiên Nam ngữ lục thì chép về Triệu Đà:

Hiệu xưng là Triệu Vũ Hoàng
Chín lần xem trị bốn phương đẹp lòng
Long Biên thành hiệu Thăng Long
Vì xưa rồng dậy dưới sông Nhị Hà.

Triệu Vũ Đế lấy vợ ở đất Chân Định (Kiến Xương – Thái Bình), khởi nghĩa kháng Tần từ đất Long Biên (Thăng Long), hoàn toàn không phải kẻ xâm lược, dẫn quân Tần đánh Việt.

NỖI OAN THỨ BA: TRIỆU ĐÀ LỪA LẤY LẪY NỎ THẦN VÀ DIỆT AN DƯƠNG VƯƠNG
Triệu Đà bị coi là kẻ thâm độc, xâm lược nước ta vì truyền thuyết Việt kể Triệu Đà sau khi đánh An Dương Vương không được, phải giả vờ xin hòa, cho con là Trọng Thủy xin cưới công chúa Mỵ Châu của An Dương Vương và xin ở rể. Trọng Thủy nhân cơ hội đánh tráo lẫy nỏ thần của nước Âu Lạc, rồi tìm cách về nước, dẫn quân sang, đuổi An Dương Vương cùng đường mà phải chém Mỵ Châu và đi vào biển…
Một lần nữa các sử gia Việt đã lấy truyền thuyết ghép nối vào lịch sử, nhưng ghép theo kiểu râu ông nọ cắm cằm bà kia. Thư tịch Trung Hoa không hề có chỗ nào ghi Triệu Đà đánh An Dương Vương cả. Nam Việt Úy Đà liệt truyện chỉ ghi: Cao Hậu mất,… Đà nhân đó dùng uy lực uy hiếp nơi biên giới, đem đồ đạc của cải đút lót các nước Mân Việt, Tây Âu Lạc để bắt họ lệ thuộc mình.
Nếu Triệu Đà là người cầm quân Tần đánh Việt từ năm Tần Thủy Hoàng thứ 33 (214 TCN), lập ra quận huyện đầy đủ rồi, thì làm gì còn An Dương Vương và nước Âu Lạc nào sau đó nữa để mà Triệu Đà phải dụng tâm, khổ kể như vậy?
Các sử gia cho rằng Triệu Đà đã dùng phương sách “Hòa tập Bách Việt”, lấy vợ Việt, cho con trai mình lấy con gái vua Việt để dễ bề cai trị người Việt. Nhưng tất cả chỉ là chuyện kể trong truyền thuyết mà không có sử liệu nào cho biết rằng Triệu Đà đã đánh diệt An Dương Vương. Thậm chí truyền thuyết của người Choang ở Quảng Tây lại kể Trọng Thủy là hoàng tử của nước Tây Âu, cầm gươm “Hòa tập Bách Việt” sang nước Lạc Việt… Trọng Thủy ở đây không phải con của Triệu Đà.
Chuyện Trọng Thủy của nước Tây Âu đánh Lạc Việt đúng ra là chuyện Tần đánh Việt năm 257 TCN. Tây Âu ở đây là Tần. Trọng Thủy là con vua Tần. Nhà Tần còn mang họ Triệu như Tần Thủy Hoàng có tên Triệu Chính, lấy theo họ mẹ là Triệu Cơ. Sự trùng hợp này đã dẫn đến sự hiểu nhầm oan ức rằng Triệu Đà đã phái con sang do thám nước Việt và diệt An Dương Vương.
Bài thơ Khối tình con của Tản Đà nói đến chuyện Mỵ Châu – Trọng Thủy:

Một đôi kẻ Việt người Tần
Nửa phần ân ái nửa phần oán thương.

Mỵ Châu là Việt thì Trọng Thủy là Tần, chứ không phải Triệu. Không phải Triệu Đà đã đánh An Dương Vương, mà là Tần Triệu đã thực hiện chính sách “hòa tập Bách Việt”, lập quận huyện ở trên đất Việt, di dời hàng vạn hộ dân xuống nơi đây.

NỖI OAN THỨ TƯ: TRIỆU ĐÀ TRỊ VÌ 70 NĂM, THỌ 121 TUỔI
Chính vì “Hội nhà sử” ngày nay quá tin vào những chú dẫn “đểu” của sử Tàu mà không suy xét nên Triệu Đà mới thọ đến 121 tuổi, làm vua 70 năm (từ năm 207 TCN đến năm 137 TCN). Chỉ với tuổi thọ này cũng đủ thấy “nỗi oan” của Triệu Đà to như cái đình mà vẫn được các “học giả” tin sái cổ.
Khi đọc kỹ Sử ký Tư Mã Thiên sẽ thấy có 2 lần Triệu Đà xưng vương. Lần thứ nhất là vào năm Tần Nhị Thế thứ hai (207 TCN) Triệu Đà chiếm lại 3 quận mà Tần lập ra trên đất Việt trước đó (Quế Lâm, Tượng Quận, Nam Hải) và tự lập làm Nam Việt Vũ Vương. Lần thứ hai là sau khi Cao Hậu (Lữ Hậu) mất năm 180 TCN Đà uy hiếp Mân Việt và Tây Âu, tự tôn là Nam Việt Vũ Đế.
Theo vậy hóa ra Tây Âu Lạc thì không nằm trong 3 quận mà Tần đã chiếm (Quế Lâm, Tượng Quận, Nam Hải)? Điều này vô lý vì sách Hoài Nam tử cho biết: Trong 3 năm, [quân Tần] không cởi giáp dãn nỏ. Giám Lộc không có đường chở lương, lại lấy binh sĩ đào cừ cho thông đường lương để đánh nhau với người Việt. Giết được quân trưởng Tây Âu là Dịch Hu Tống. Quân trưởng Tây Âu là Dịch Hu Tống đã bị Giám Lộc, Đồ Thư giết thì sao mãi tới thời Tây Hán vẫn còn Tây Âu?
Tuổi thọ “xưa nay”… không có của Triệu Đà cùng với 2 lần xưng vương và sự vô lý về vị trí nước Tây Âu cho thấy, từ năm 207 TCN đến 137 TCN ít nhất phải có 2 nhân vật, cùng được gọi là Triệu Đà. Triệu Đà thứ nhất là người đã lãnh đạo nhân dân Việt kháng Tần, giành lại đất đai của người Việt mà Tần lập quận huyện trước đó vào năm Tần Nhị Thế thứ ba (207 TCN). Còn Triệu Đà thứ hai nổi lên sau sự kiện Lữ Hậu mất (180 TCN), “mua chuộc” Mân Việt và Tây Âu theo mình. Nói cách khác một Triệu Đà chống Tần, còn một Triệu Đà chống Hán.

Luong lap

Cột nghi môn điện Long Hưng ở Xuân Quan, Văn Giang, Hưng Yên.

Câu đối ở điện Long Hưng, Xuân Quan nơi thờ Triệu Vũ Đế:
一指已無秦萬里開先閩貉絶
两立何難漢億年倡始帝王基
Nhất chỉ dĩ vô Tần, vạn lý khai tiên Mân Lạc tuyệt
Lưỡng lập hà nan Hán, ức niên xương thủy đế vương cơ.
Dịch:
Một vùng vắng bóng Tần, vạn dặm mở ra vời xa Mân Lạc
Hai ngôi sánh cùng Hán, ngàn năm gây nền vững vàng đế vương.
Triệu Đà thứ hai là cháu Triệu Đà thứ nhất và có “mồ mả cha mẹ” ở phương Bắc đúng như Sử ký đã chép. Triệu Đà thứ hai có tên… Triệu Hồ, bởi vì Triệu Hồ không phải Triệu Văn Đế như sử vẫn chép. Chứng cứ rõ ràng là ngôi mộ vua Triệu mới phát hiện ở Quảng Đông vào những năm 1980. Trong mộ có ghi tên Triệu Mạt (hay Muội) và ấn vàng Văn đế hành tỉ (文帝行璽 ), nhưng lại còn có ấn vàng Thái tử (泰子). Như vậy người được chôn ở trong mộ là Văn Đế nước Nam Việt nhưng không phải Triệu Hồ vì Triệu Hồ là hàng cháu của Triệu Đà, không thể có chức Thái tử.

An Trieu Muoi

Ấn “Thái tử”, Ấn “Văn đế hành tỷ” ở mộ Triệu Muội tại Quảng Châu (ảnh theo Nguyễn Lương).

Với bằng chứng khảo cổ và minh văn phát hiện trong mộ Triệu Văn Đế ở Quảng Đông thế thứ nhà Triệu Nam Việt trở nên rành mạch:
– 207 TCN đến 180 TCN: Vũ Vương Triệu Đà
– 180 TCN đến 137 TCN: Vũ Đế Triệu Hồ
– 137 TCN đến 124 TCN: Văn Đế Triệu Muội
– 124 TCN đến 113 TCN: Minh Vương Triệu Anh Tề
– 113 TCN đến 112 TCN: Ai Vương Triệu Hưng
– 112 TCN đến 111 TCN: Vệ Dương Vương Triệu Kiến Đức.
“Nỗi oan” 121 tuổi, 70 năm trị vì của Triệu Đà nay coi như được giải với 2 đời vua Triệu Vũ Hoàng kế tiếp nhau. Nhưng còn những nỗi oan vì sự vô lý của các sử gia đối với sử Việt thì chắc phải chờ thời gian soi xét…

36 thoughts on “Những “nỗi oan” của Triệu Đà

  1. Nguyễn Xuân Nguyên

    Các cụ ta ngày xưa rất sáng suốt và công bằng hơn các nhà nghiên cứu hiện nay. Cứ đi vào dân gian tìm hiểu các chứng tích mới phát hiện ra nhiều cái hiện nói cần xem thêm. Tôi nghĩ Bách Việt phía nam sông Hoàng Hà rất văn minh, nhưng người Hán đã phá, đốt hết mỗi khi xâm lược…

    Like

  2. LeHuong

    Lịch sử được biết đến nhờ các sử gia, nếu nói có sự sai lầm trong việc vết sử thì liệu thế hệ sử gia nào là đúng hơn?!Nay lại có người dựa vào Sử ký Tư Mã Thiên, Tần Thủy Hoàng bản kỷ, Hoài Nam Tử , Thiên Nam ngữ lục, Nam Việt Úy Đà liệt truyện… để kết luận điều ngược lại?!

    Like

    1. Các thế hệ sử gia trước từ Lê Văn Hữu, Ngô Sĩ Liên đều coi Triệu Đà là người Việt vua Việt. Rồi Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi đều coi nhà Triệu là khởi thủy nước Nam. Ở đây không hề kết luận “ngược lại”, mà chỉ là hiểu lại những gì người xưa đã viết.

      Like

  3. Nguyễn Thành Vương

    Trong bài viết trên, tôi thấy đoạn phiên âm bên dưới có thể bị sai, kiến thức hán học hạn chế, chỉ xin góp ý

    一指已無秦萬里開先閩貉絶
    两立何難漢億年倡始帝王基
    Nhất chỉ dĩ vô Tần, vạn lý khai tiên Mân Lạc tuyệt
    Lưỡng lập hà nan Hán, ức niên xương thủy đế vương cơ.

    Theo toi chữ: 貉 không đọc là LẠC mà đọc là MẠC
    theo http://www.hanviet.org/

    Like

    1. Cảm ơn bạn.
      Tôi ghi mặt chữ theo đúng những gì viết trên cột tại di tích. Theo các từ điển thì chữ 貉 đọc là HẠC. Nhưng về nghĩa chỗ này phải là LẠC. “Mân Lạc tuyệt” chỉ sự kiện sau khi Cao Hậu mất Triệu Đà uy hiếp Mân Việt và Tây Âu Lạc, mua chuộc buộc họ phải theo.

      Like

  4. U.Kod

    Các nhà sử của ta sau khi phán rồi, nay biết sai nhưng không có dũng khí để sửa, thôi đành nhắm mắt làm ngơ cho “nó lành”. Vậy có nên coi họ là những nhà sử học ? vì những người làm sử phải có dũng khí, còn những người này quá hèn nhát, đâu xứng đáng là nhà sử học .

    Liked by 1 person

  5. Hồng Thiệu Sơn

    Thú thật tôi chưa đọc nhiều sách như Quý bác sử gia trong Bách Việt trường cửu nhưng xin mạo muội bình xét ba điều: Điều đầu tiên bác trách sử gia Việt bị mờ mắt bởi sử tàu, liệu có thất lễ với tiền nhân không? Chẳng dám vời truyện các tiên liệt như Ngô Sĩ Liên, Trịnh Hoài Đức… thì sử gia tiền bối Trần Trọng Kim cũng đã xác nhận bằng không ý kiến.
    Đọc bài này của bác khiến kẻ hèn này phân vân liệu phương Băc sứ tàu chỉ có một nhà Tần của Thủy Hoàng đế ? Tần , Tấn Xuân Thu thời chắc là hư cấu
    Điều cuối xin hỏi Quý Bác chỉ coi nước Việt từ miền lưỡng Quảng về Nam hay sao? xin bác quá bộ đến vườn bia Lôi phong tháp ở Giang nam Hàng châu thị chắc quý bác sẽ thay đổi quan điểm.
    Kính cáo

    Like

    1. Ngô Sĩ Liên chép riêng nhà Triệu thành một kỉ, hoàn toàn công nhận Triệu Đà là vua Việt. Việc “xét lại” nguồn gốc Triệu Đà bắt đầu từ Ngô Thì Sĩ…
      Nhưng vậy giữa Ngô Sĩ Liên và Ngô Thì Sĩ chắc chắn có một cụ “mắt mờ”. Mà Ngô Sĩ Liên mới là tiền nhân của Ngô Thì Sĩ.

      Like

    2. Nước Việt ở đây là Nam Việt thời Triệu Đà, là vùng Lưỡng Quảng và Giao Chỉ. Tất nhiên đất của người Việt còn nhiều chỗ khác…
      Xin hỏi bạn thông tin cho thêm về bia Lôi phong tháp ở Giang nam Hàng châu thị.

      Like

  6. Pingback: Những “nỗi oan” của Triệu Đà | Cộng đồng học tập trực tuyến Share to Learn

  7. Ky

    Tôi là người dân bình thường, có ham tìm hiểu môn lịch sử chút. Thật trân quý các Nhà sử học công tâm, đã dành thời gian khảo cứu, biên chép lại những chỗ chưa chính xác (có thể do sơ sót hay cố ý) trả lại sự thật cho lịch sử. Đó là sự đóng góp quý báu cho mai sau. Bộ “Sử ký Tư Mã Thiên” là bộ chính sử lớn nhất của người Hán. Tác giả của nó là Nhà chép sử lỗi lạc, bố Ông – Tư Mã Đàm cũng là quan chép sử nhà Hán. Trong phương pháp chép sử của mình Tư Mã Thiên nói “Tôi chỉ thuật lại chuyện xưa, sắp đặt lại các chuyện trong đời chứ có phải sáng tác đâu”. Bộ “Đại Việt sử ký toàn thư” Của Ngô Sĩ Liên cũng biên chép gồm cả theo lối viết của bộ “Sử ký Tư Mã Thiên”. Trong bài “Biểu dâng sách Đại Việt sử ký toàn thư” lên vua Lê thánh Tôn, Ngô Sĩ Liên viết: “Cũng bắt chước lối biên niên của Mã sử (tức Sử ký của Tư mã Thiên), nhưng thực chắp vá chẳng ra sao, cũng học phép tị sự của lân kinh (kinh Xuân thu của Khổng tử), đâu dám cẩn nghiêm mà sánh kịp” . Nguyễn Trãi trong tác phẩm “Bình ngô đại – cáo” có câu: “Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần đã bao đời gây nền độc lập. Cùng Hán, Đường Tồng Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương. Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau. Song hào kiệt đời nào cũng có.” Vậy là ngay trong Thời Lê Nguyễn Trãi và Ngô Sĩ Liên đều coi Triệu Đà là vua nước Việt. Cả “Sử ký Tư mã Thiên” và Đại Việt Sử ký toàn thư đều viết Triệu Đà là vua Nam Việt, đều nói Vua người huyện chân Định; đều nói nhân lúc nhà Tần suy loạn mà chiếm đát lập nước xưng vua. Điểm nữa là tất cả đều không công nhận Triệu Đà là người nước mình. Song “Sử ký Tư mã Thiên” trong phần Nam Việt úy Đà liệt truyện có viết ” Đất đai của Đà chiều ngang có hơn vạn dặm. Đà bèn đi xe mui lụa màu vàng cắm cờ tả đạo, mệnh gọi là “chế”, chẳng kém gì Trung quốc. Năm đầu thời Hiếu Văn Đế, thiên hạ mới yên. Nhà vua sai sứ đi bá cáo chư hầu, tứ di biết rằng nhà vua ở đất Đại về lên ngôi, ý muốn nêu cao đạo đức của nhà vua. Nhân Đà có mồ mả cha mẹ ở huyện Chân Định, nhà vua bèn đặt người giữ ấp để hàng năm đến ngày giỗ thờ cúng. Đối với anh, em họ của Đà, nhà vua ban ơn cho họ làm quan to và thưởng cho nhiều của.”…. Vậy Vua là người Việt; Hán hay Tần ? đâu là sự thật, và các giống người đó thời đó có gì khác nhau ?. Xin được góp ý kiến mọn cùng các độc giả của Trang. Xin được lượng thứ nếu có điều còn sơ sót. Các quyển sử tôi đọc đều là các bản dịch sang tiếng Việt của các dịch giả: Phan Ngọc – Sử ký Tư Mã Thiên – nhà xuất bản Thời đại năm 2010; Đại Việt sử ký toàn thư – Cao Huy Giu phiên dịch, Đào Duy Anh hiệu đính, chú giải và khảo chứng – nhà xuất bản khoa học xã hội – Hà nội – 1972

    Like

    1. Xin trân trọng cảm ơn tất cả các góp ý cho trang (miễn không phải spam:).
      Xin trích lại ý kiến của bạn Ky:
      “Vậy là ngay trong Thời Lê Nguyễn Trãi và Ngô Sĩ Liên đều coi Triệu Đà là vua nước Việt. Cả “Sử ký Tư mã Thiên” và Đại Việt Sử ký toàn thư đều viết Triệu Đà là vua Nam Việt, đều nói Vua người huyện chân Định; đều nói nhân lúc nhà Tần suy loạn mà chiếm đát lập nước xưng vua.”
      Tất cả nhận định trên hoàn toàn đúng. Vấn đề “huyện Chân Định” đó ở đâu? Triệu Đà lập nước xưng vua là chống Tấn, chống Hán hay chống An Dương Vương? Kết luận Triệu Đà là kẻ xâm lược hoàn toàn không có cơ sở. Trái lại, Triệu Đà mới là người đã lãnh đạo nhân dân Việt kháng Tần thắng lợi mà lập quốc.
      “Điểm nữa là tất cả đều không công nhận Triệu Đà là người nước mình.” – Riêng ý này thì cần xem lại đúng nguyên bản của các tác phẩm, chớ có đọc chú thích của người đời sau. Không hề có chỗ nào Nguyễn Trãi hay Ngô Sĩ Liên coi Triệu Đà không phải người nước Nam cả.
      “Năm đầu thời Hiếu Văn Đế,… Nhân Đà có mồ mả cha mẹ ở huyện Chân Định, …” – Như đã nói trong bài, với “tuổi thọ” 121 năm của Triệu Đà như sử sách đang chép thì phải có ít nhất 2 vị cùng được gọi là Triệu Đà. Triệu Đà thời Hiếu Văn Đế là Triệu Đà thứ hai, cháu Triệu Đà thứ nhất, nên mới có “mồ mả cha mẹ” ở phương Bắc, bởi vì Triệu Đà thứ nhất (đời ông) đã dẫn quân tiến chiếm và làm chủ phương Bắc, đời bố mẹ của Triệu Hồ (Triệu Đà thứ hai) do vậy không ở phương Nam.
      Một điều lạ là chế độ hành chính thời Tần Hán là chế độ quận huyện. Vậy mà Tư Mã Thiên chỉ chép quê Triệu Đà ở huyện Chân Định, không hề ghi quận nào. Bản thân Tư Mã Thiên có lẽ cũng không biết huyện Chân Định đó ở đâu (nếu không đã biết ở quận nào). Huyện Chân Định thời Tần hoàn toàn có thể thuộc quận Nam Hải hay Long Xuyên (tức là đất Giao Chỉ).

      Like

      1. mình k phải dân sử mạo phép xin ý kiến là k biết huyện chân định có phải thuộc quận thường sơn nay k ??

        Like

      2. Quang NX

        Việc đơn giản rằng, khi xem Triệu Đà là người nước Triệu thời Tần thì rõ ông không phải người Hán ngày nào; còn khi xem ông là người nước Triệu họ Triệu thì khi lập quốc ở đâu cũng phải xưng theo lệ tổ tông là nước có liên hệ đến nhà Triệu ví dụ là Nam Triệu hay Đại Triệu chứ không thể có chuyện xưng Nam Việt theo người bản xứ Yue khi ông là kẻ chinh phạt được. Điều này rất rõ ở xã hội thời ấy, như sau này Lưu Cung khi lập quốc phương Nam thì tên gọi là Nam Hán v.v… Cần phải lưu ý yếu tố hiển nhiên này. Mong các vị quan tâm để nhận chân cuộc sống xuyên qua nhiều ngàn năm. Còn nói gì thì nói cũng cần phải rõ rằng mãi đến 8000 năm cách đây gọi là thế Holocen thì Kỷ Băng hà lần cuối mới hoàn toàn kết thúc với việc hình thành các thảo nguyên, rừng taiga và băng tan biển tiến, ngập lụt các miền đất thấp như Vịnh Bắc bộ và duyên hải Đông Á và Đông Nam Á.

        Like

  8. duy sắc

    lịch sử là cái đã qua, tất cả chỉ là giả thuyết, người ngu thì tin thật, người có ít chữ nghĩa thì nghi ngờ ra vẻ hiểu biết. bản thân những tư liệu lich sử giai đoạn gần đây nhất hoặc là đương đại trong lúc này mà còn không thể tin được huống chi là những tin đồn quá khứ. người có học nên ít nói thì hay. nói nhiều sẽ gây khẩu nghiệp và mang tội xúc phạm tiền nhân.

    Like

    1. Văn Nhân

      Giúp sửa chữa cái sai của người đi trước là công không phải tội , nếu lớp người trước luôn luôn đúng người đi sau không được nói khác thì làm gì có tiến bộ ? , …ông bà ta đã dạy : con hơn cha là nhà có phúc mà …

      Like

      1. Tôi là dân Ngôn ngữ Anh, không phải dân Sử, nhưng xin phép nói thế này. Với ngành của tôi, một nghiên cứu (có thể ở cấp đại học hay cao hơn) không tự dưng mà có. Tôi đọc vấn đề A, tác giả X tôi thấy chưa ưng, muốn sửa chữa, bổ sung tôi có viết vấn đề A’. Tác giả sau tôi thấy tôi viết vậy chưa đúng ý họ, họ viết A1, AB,… Mấy cái đoạn ‘, 1 hay B là vì họ đi theo các hướng khác nhau. Tôi thấy việc xác định Huyện Chân Định là một hướng phát triển giống các bài nghiên cứu vậy. Người chưa làm nghiên cứu bao giờ có suy nghĩ như bạn duy sắc đây tôi không lấy làm ngạc nhiên.

        Like

  9. Tat Dat

    Cúi đầu kính phục bác…

    Ngu thần cũng đã từng đặt ra khá nhiều câu hỏi, liên quan đến “sự vô lý” của những con số… song, không được tường tận các tài liệu để được soi xét… hôm nay, được bác khai sáng phần nào… Chân thành cảm ơn bác nhiều.

    Like

  10. Hùng Ngu

    Mình cũng là người khá hứng thú với lịch sử đặc biệt là lịch sử các nền văn minh cổ đại.
    Nhưng là người không tin vào sách sử, những cái này thường được chắp vá thêm bớt nhiều, mình chỉ lần theo quá khứ từ Văn hóa -Ngôn ngữ để lại cho tới ngày nay.
    Những gì mình tìm hiểu, thời Tần “ngôn ngữ dị thanh, từ ngữ dị hình”, sai đốt hết sách các nước chư hầu, văn tự thống nhất theo chữ tần => chứng tỏ ngay cả các nước tự coi mình là Hán đều k hoàn toàn là Hán thống nhất, danh xưng hán chỉ khi nhà Hán thành lập.
    Hơn nữa hiện nay trên lãnh thổ TQ có rất nhiều thứ tiếng khác nhau, trong đó tiếng miền Nam đặc biệt là Quảng Đông là thứ tiếng dễ phát âm theo tiếng Việt nhất, cùng có >= 6 âm sắc. Xem bản đồ mới thấy phân bố ngôn ngữ miền nam là đa dạng nhất, đúng miền đất Bách Việt xưa, phía nam sông Dương Tử.
    Nói về ngôn ngữ, nó phải trải qua rất rất lâu mới hình thành chứ viết, phương ngữ hình thành tồn tại gần như mãi mãi. Vì thế Anglo-Saxon rồi Vikings xâm chiếm nước Anh, rồi đến Pháp, nhưng Tiếng Anh vẫn khác biệt rất nhiều so với tiếng Pháp, mặc dù cùng dùng chữ viết là chữ cái latin.
    Vì thế có thể so sánh các nước thời cổ đại trên lãnh thổ trung quốc việt nam rất giống với châu âu trung đại. Có điều “tư tưởng thiên hạ” bài xích dân tộc khác như kiểu Hitler đã làm biến mất hết tinh hoa văn hóa của những dân tộc khác Hán.

    Từ những cái đó ( sự khác nhau về ngôn ngữ) có thể suy ra ngay cả trước thời Tần, phía nam đã có rất nhiều nước nhỏ mà người Bắc gọi là Bách Việt. Tôi tin rằng không chỉ Triệu Đà, Việt Vương Câu tiễn cũng là người Việt (người phương nam). bọn phương bắc lai tạp chủng với bọn Hung nô hung hãn bỏ con mẹ.

    Like

  11. Nguyên nhân của việc này là do:
    1) Nhận thức của cơ quan quản lý nhà nước về vai trò của lịch sử trong giáo dục con người và trong xây dựng tinh thần tự tôn dân tộc.
    2) Vì mới có một người được nước ngoài bầu là Viện sĩ Thông tấn, nên quá ít người nghiên cứu. Do vậy chưa tham mưu được cho cơ quan quản lý, cơ quan lãnh đạo về Dự án nghiên cứu đầy đủ về Lịch sử dân tộc chúng ta được.
    Thôi việc chậm đã chậm rồi. Kính mong Viện sĩ thông tấn, các giáo sư, tiến sĩ, thạc sĩ chuyên ngành lịch sử hãy trăn trở về nội dung mà nhiều người dân Việt Nam mong muốn “Dân ta phải biết sử ta, cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”, như Bác Hồ kính yêu đã yêu cầu.

    Like

  12. Thi Gia

    Tôi là một thế hệ trẻ của nước Việt mình, khi đọc bài phân tích này tôi bỗng phát hiện những gì mà tôi học từ lớp 1 tới lớp 12 có vấn đề! Tuy nhiên cái nào đúng và sai tôi nghĩ tôi đã có. Nhưng trước tiên xin kể lại, thuở bé khi còn là một học tiểu học tôi hay thích đọc truyện lịch sử lắm, trong đó có Trọng Thuỷ Mị Châu, tôi vẫn nhớ truyện kể rằng Triêu Đà đem quân xâm lược Âu Lạc, An Dương Vương bị mất nước tự vẫn…Tới khi lớn hơn chút nữa thì khi học về lịch sử Việt Nam thì sử vẫn nói y như truyện! Đến cấp 3 sử vẫn viết vậy? Tuy nhiên khi đọc đến Bình Ngô Đại Cáo trong đó có đoạn viết từ Triệu Đinh, Đinh, Lý, Trần bao đời gây dựng nền độc lập…tôi thấy lạ nên hỏi cô giáo dạy Văn: ” Cô ơi nhà Triệu là nhà nào vậy?” Cô bảo: ” Nhà Triệu chính là Triệu Đà, thời phong kiến xưa người ta công nhận đây là một triều đại”. Lúc ấy tôi không nghĩ nhiều lắm chỉ suy nghỉ là lịch sử do người viết lại, mỗi thời đai tư tưởng sẽ khác nên viết có khác! Đến khi lên Đại học tôi chọn theo ngành khoa học tự nhiên, nên lịch sử có vẻ xa vời và tôi không còn phải học nữa…tuy nhiên tôi cảm thấy tôi đã thoát khỏi hệ tư tưởng lịch sử giáo khoa! Tôi thích khoa học tự nhiên nhưng tôi vẫn thích lịch sử lắm, tôi tìm hiểu trên mạng, sách,..về thế giới, loài người, sử các nước,…và tôi cũng tìm hiểu về cái mà tôi thắc mắc ” Nhà Triệu”…và từ đó đến bây giờ tôi nghĩ nhà Triệu là một triều đại của Việt Nam! Tôi không biết có bao nhiêu người trong thế hệ của tôi suy nghĩ về điều này và biết sự thật về nó? Tại sao nền giáo dục nước nhà lại bỏ qua nhà Triệu mà công nhận Âu Lạc của An Dương Vương? Được gì và mất gì khi bỏ qua Nhà Triêu? Tôi nghĩ mất thật nhiều nếu bỏ đi nhà Triệu, chúng ta đã mất đất mà không đòi được và nay chúng ta lại mất luôn đoạn lịch sử về nó. Bao giờ sự thật mới được công khai, xác nhận và đưa vào cải cách? Đây là trăn trở cho sử gia thật sự.

    Like

    1. Xin lỗi bạn vì trả lời muộn.
      Trăn trở của bạn cũng là trăn trở của tôi: “Bao giờ sự thật mới được công khai, xác nhận và đưa vào cải cách?”.
      Chùng ta có thể mất đất nhưng không thể mất đi quá khứ, mất tổ tiên vì như thế là mất tất cả.

      Like

  13. Hữu - Diệu

    Cao siêu quá ! Thôi để các nhà sử học ( chuyên nghiệp và nghiệp dư ) ngâm cứu và chỉnh sửa lại cho đúng. Người viết sử chuyên nghiệp có tính trung thực, viết đúng sự thật, nhưng cấp trên ( hoặc người có quyền lực ) bắt ép viết lại theo ý đồ riêng của ( quyền lực ) thì sao ?

    Like

  14. Trần Đại Sĩ

    Triệu Đà không phải người Hán vì ông xuống đất Việt năm 213 TCN mà mãi đến năm 202 Hán Cao Tổ Lưu Bang mới chiếm toàn cõi Trung Hoa và sau đó rất lâu mới có danh xưng Hán tộc. Vậy thử hỏi sao Đà có thể là người Hán được.
    Sử kí Tư Mã Thiên không chép Đà sống bao nhiêu tuổi cả, chỉ có ĐVSKTT của Ngô Sĩ Liên chép thôi. ĐVSKTT của họ Ngô thì còn nhiều chỗ để bàn lắm.
    Đà không phải là người dẫn quân xâm lược Bách Việt mà chỉ là người dẫn đám tội đồ của nhà Tần xuống để khai phá 3 quận mới lập mà thôi.
    Trong thư gửi Hán Văn Đế, Đà khẳng định mình là người Trung Quốc, gọi dân Việt là man di và nêu lí do sở dĩ thần phục Hán là vì không dám quay lưng lại với tổ tiên.
    Đà sống bao nhiêu tuổi không rõ nhưng với thời gian trị vì 66 năm (203 TCN – 138 TCN) là quá dài, xưa nay chưa có ai làm vua lâu như thế cũng là điều nghi vấn. Nếu xét năm 213 TCN là năm Đà dẫn bọn tội đồ xuống đất Việt đến năm 138 TCN là năm Đà mất thì Đà đã ở đất Việt 76 năm. Theo lẽ năm 213 TCN Đà phải có tuổi mới đủ sức dẫn bọn tội đồ xuống đất Việt (tội đồ dễ làm càn lắm, không có kinh nghiệm sao quản lí chúng được?) thì có lẽ Đà sống đến ngoài trăm tuổi. Vậy nên có thể Đà đã chết từ lâu nhưng vì đường xá xa xôi nên Hán không biết hoặc con cháu Đà cố tình không báo để cho Hán khỏi dòm ngó lãnh thổ.

    Like

  15. Yeusu

    Không biết lịch sử nước nào đúng. Lịch sử luôn mập mờ, không phải cái gì cũng đúng 100%. Đúng hay sai tùy theo cách suy luận của mọi người.

    Like

  16. Trần Thanh Hùng

    Thật thú vị khi đọc bài viết và các ý kiến của các bậc cao minh. Mấy tuần qua, tôi đọc Tinh Hoa Ngũ Điển, Triết lý các đình và Nguồn gốc văn hóa Việt của Giáo sư Kim Định thì càng thấy những bài viết này trên Bách Việt trùng cửu là có lý và thuyết phục. Trân trọng cảm ơn tác giả.

    Like

  17. Nguyễn Thanh Giang

    Hoàn toàn công nhận các căn cứ lập luận trên của tác giả. Theo tôi, chúng ta không thể với 2 sự kiện LS giống nhau về các mặt là việc chiến thắng nước láng giềng bên cạnh về QS rồi sáp nhập họ vào QG của mình làm 1 nhưng lại chỉ thừa nhận 1 và phủ nhận hoàn toàn sự kiện kia. Cụ thể ở đay là việc An Dương Vương đánh thắng Vua Hùng và sáp nhập Văn Lang vào Âu Lạc thì được thừa nhận là chính nghĩa. Còn việc Triệu Vũ Vương đánh thắng An Dương Vương rồi sáp nhập Âu Lạc vào Nam Việt ( 1 vùng độc lập ) lại bị coi là xâm lược, không có tên trong danh sách các QG PK độc lập trong LS. Thật là 1 sai lầm lớn cần sửa đổi.

    Like

  18. Trần Quốc Việt

    Tôi rất thích cách khai thác và phân tích thông tin của Bách Việt trùng cửu. Tôi đã theo dõi trang này từ lâu rồi, và sẽ tiếp tục đọc và suy ngẫm các bài viết khác.

    Nhân thấy vài bình luận chê trách vô lối, tôi liền có mấy ý thô bạo sau đây. Việc đọc Sử thấy có nghi vấn và đi tìm chứng cứ giải đáp nghi vấn không phải là phạm thượng hay vô lễ gì với tiền nhân. Ngược lại, đi hoàn thiện hiểu biết và sửa chữa sai lầm của tiền nhân chính là tạo công đức vô lượng cho giòng giống nhiều đời được thắng trí luân hồi trong cõi ta bà này. Kẻ không có trí mới không có duyên tác ý. Ù lì trì độn thì mới làm ngơ với nhân-qủa nào sinh ra thân-khẩu đó. Viết điều này chỉ để giải chướng, không nhằm vào ai cả. Mong người đọc xong thì bỏ qua cho.

    Like

  19. Nói về khoa học, nhà vật lý AnhXtanh từng nói “Mọi thứ trên thế giới này chỉ là tương đối” cho nên viết sử xưa có thể có lúc chưa đúng là chuyện bình thường, hơn thế hàng nghìn năm qua, việc viết sử, học sử phục vụ cho giai cấp thống trị Việt Nam cho nên phải viết theo ý của vui tôi cũng là lẽ đương nhiên, cái nữa bản chất của phương Bắc là giẫm lên đầu kẻ khác trong đó có nước ta là không bao giờ thay đổi, vì vậy họ bóp méo sử học, đồng hóa văn hóa nước ta là tư tưởng nhất thống.
    Về Quảng Đông, Quảng Tây của Việt Nam bị Trung Quốc lấy mà đến thời Vua Quang Trung định đòi lại nhưng không thành, điều nay tôi đã được học trong trường Đảng của TW, nhưng đến nay đọc bài viết mới thấy vỡ lẽ hóa ra Triệu Đà là người Việt, lại là Thái Bình thì cũng rất hợp lý vì lịch sử đến nay, đất Thái Bình có rất nhiều kiệt xuất, anh hùng không thể chối cãi…Bài viết với nhiều luận cứ rất đáng tin…Xin cảm ơn tác giả.

    Like

    1. Cảm ơn bạn.
      Có quá nhiều người nhầm tưởng về đất Thái Bình, rằng mãi tới thế kỷ 10 Kỳ Bố hải khẩu còn đang ở chỗ TP Thái Bình ngày nay thì trước Công nguyên làm sao Đồng Xâm lại có người ở được…
      Thái Bình đã là đất liền từ trên 3000 năm trước. Còn Kỳ Bố hải khẩu nằm tít ngoài Kiến Xương chứ không phải ở TP Thái Bình.

      Like

  20. Quang

    Ông đặt tên nước là Nam việt. Sống theo văn hóa việt xây dựng văn hóa Việt. Tức là người Việt rồi. Còn Trung quốc họ ko phải của họ. Họ nhận là của họ. Để biến đất Quảng đông. Quảng tây thành của Hán. Họ còn bảo người việt là con cháu của họ. Theo tôi là đất của bách việt ta là phía nam sông dương tử vào đến hà tĩnh. Vua Hùng. Hay an Dương vương trị vì ở đất lạc Việc một phần của đất này. Theo thời gian người Bách Việt bị đồng hóa và đẩy lùi xuống phía Nam như ngày nay. Giống như mới đây trung quốc lấY tây tạng. Tân cương thôi. Vùng đất cua ta bị mất dân thì bị đẩy lùi và đồng hóa là mất đất. Lịch sửu thì bị phục vụ cho chính trị và thiếu khách quan

    Like

Leave a comment